← Quay lại trang sách

CHƯƠNG VI LUÂN LÍ VÀ LỊCH SỬ

Luân lí là toàn thể những qui tắc một xã hội khuyên mỗi người nên theo trong việc cư xử với nhau để xã hội được an ninh, có trật tự và phát triển điều hòa; mặt khác, luật pháp là toàn thể những qui tắc xã hội bắt buộc mỗi người phải theo. Nhờ tuân một đạo cương thường nghiêm và tinh tường mà trong mười sáu thế kỉ, những thiểu số Do Thái trong xã hội Ki Tô giáo đã giữ được sự liên tục và an ổn, và gần như chẳng cần tới quốc gia cùng luật pháp.

Người nào biết sử một cách nông nổi thì cho rằng luân lí không có giá trị gì cả vì luôn luôn thay đổi theo từng xứ và theo thời đại, nhiều khi còn mâu thuẫn nhau nữa. Nhưng nếu biết sử dụng một cách sâu sắc hơn thì người ta sẽ thấy có những qui tắc luân lí phổ biến, cần thiết.

Sở dĩ luân lí thường khác nhau vì phải thích nghi với tình thế lịch sử và hoàn cảnh xã hội. Chúng ta cứ hãy tạm chấp nhận rằng lịch sử kinh tế chia làm ba thời đại: thời đại săn bắn, thời đại nông nghiệp và thời đại kĩ nghệ; và như vậy dĩ nhiên mỗi thời đại có một nền luân lí khác với thời đại sau. Trong thời đại săn bắn, con người phải biết đuổi bắt, đánh và giết; khi bắt được mồi rồi thì ăn cho tới hết sức chứa của bao tử vì không biết bao giờ mới lại có thịt để ăn nữa; sự bất an toàn gây ra tính tham lam, cũng như sự tàn bạo là do người ta nhớ lại (ít nhất là nhớ lại trong huyết quản) cái thời mà chỉ những kẻ nào giỏi giết nhất là tồn tại được thôi (đó là trường hợp hiện nay của mọi quốc gia). Vì săn bắn là việc nguy tới tính mạng cho nên tử suất của đàn ông cao, họ phải có nhiều vợ và mỗi người vợ phải đẻ cho nhiều. Trong cuộc chiến đấu để sinh tồn, hễ hiếu chiến, tàn bạo, tham lam, nhiều nhục dục là có lợi thế. Có lẽ cái gì ngày nay ta gọi là tật xấu thì xưa kia đều là đức tốt, hiểu theo nghĩa một đặc tính giúp cho cá nhân, gia đình hoặc tập thể tồn tại được. Có thể rằng tội lỗi là một di tích của sự thăng tiến, chứ không phải của sự sa đọa của nhân loại[1].

Lịch sử không cho ta biết đúng vào thời nào thì loài người từ thời đại săn bắn bước qua thời đại nông nghiệp; có lẽ là trong thời tân thạch khí, khi loài người phát kiến ra rằng có thể gieo hạt để bổ túc sự sinh trưởng tự nhiên của lúa. Lối sống mới đó đòi hỏi những đức tính mới, và một số đức tính cũ biến thành tật xấu. Sự kĩ xảo hóa ra cần cho sự sống hơn là đức can đảm; sự siêng năng, tiết kiệm có lợi hơn là sự bạo tàn, và hòa bình lại thắng được chiến tranh. Từ nay con cái thành món lợi về kinh tế và sự hạn chế sinh sản hóa ra vô luân[2]. Tại trại ruộng, gia đình là một đơn vị sản xuất tuân lệnh gia trưởng và sinh hoạt theo thời tiết; quyền của người cha dựng trên những luật kinh tế. Người con trai bình thường nào cũng sớm già dặn về tư cách và có những kiến thức cần thiết để tự túc; hồi mười lăm tuổi đã hiểu những bổn phận vật chất của cuộc sống, như hồi bốn mươi tuổi; hắn chỉ cần một miếng đất, một lưỡi cày và một cánh tay siêng năng. Cho nên hắn cưới vợ sớm, gần như ngay từ tuổi dậy thì; do đó không phải chịu những bực bội vì những hạn chế mà xã hội mới bắt trai gái phải theo trước khi lập gia đình. Còn thiếu nữ thì phải giữ chữ trinh vì nếu không thì con sanh ra không được người thừa nhận, che chở. Khi số nam và nữ gần ngang nhau thì tự nhiên có chế độ một chồng một vợ. Trong mười lăm thế kỉ, lối sống nông nghiệp đó: tiết dục, tảo hôn, một chồng một vợ, không được li dị, gia đình đông con, tồn tại trong các xứ châu Âu theo Ki Tô giáo và các thuộc địa da trắng. Nền luân lí nghiêm khắc đó đào tạo được một số người tính tình cương quyết nhất trong lịch sử.

Lần lần, rồi mỗi ngày mỗi mau, mỗi phố biến, cuộc cách mạng kĩ nghệ thay đổi hình thức kinh tế và cơ cấu luân lí làm nòng cốt cho đời sống của người Âu và người Mĩ. Đàn ông, đàn bà và trẻ em thoát li gia đình, quyền uy của gia trưởng, sự thống nhất của gia tộc, để vô làm việc trong các xưởng, lãnh công riêng và sống riêng; những xưởng này xây cất để chứa máy móc chứ không phải để con người đoàn tụ. Cứ mươi năm thì máy móc lại nhiều hơn, phức tạp hơn; cái tuổi già dặn về kinh tế (nghĩa là cái khả năng nuôi được gia đình) lùi lại[3]; trẻ con không còn là mối lợi về kinh tế nữa, hôn nhân trễ hơn và con người khó tiết dục được trong thời kì chưa lập gia đình. Đời sống ở các thị trấn lớn có đủ thứ trở ngại cho hôn nhân mà lại có đủ thứ kích thích, đủ cơ hội cho sự phóng túng về tính dục. Người ta giải phóng phụ nữ, để cho họ làm trong các xưởng kĩ nghệ; các thuốc ngừa thai cho họ thỏa mãn tính dục mà khỏi có con. Uy quyền của người cha mất căn bản kinh tế rồi, vì kĩ nghệ làm cho chủ nghĩa cá nhân càng ngày càng mạnh. Hạng thanh niên hay phản kháng không còn bị coi chừng, giam hãm như ở trong làng nữa mà có thể sống hoang tàn lẫn lộn trong đám đông mà không ai biết. Do sự tiến bộ khoa học, mục sư không có uy tín bằng nhà nghiên cứu trong phòng thí nghiệm; sự cơ giới hóa các phương tiện sản xuất gợi ra những triết lí duy vật, như cơ giới luận; sự giáo dục khuyến khích người ta hoài nghi về tôn giáo; luân lí càng ngày càng mất căn bản siêu nhiên đi. Do đó, nền luân lí cổ của xã hội nông nghiệp bắt đầu tàn.

Ở thời đại chúng ta cũng như ở thời đại Socrate (mất năm 399) hoặc thời đại Auguste (mất năm +14), chiến tranh làm cho phong hóa suy đồi. Sau những cuộc bạo động và tình trạng xã hội lộn xộn trong chiến tranh Péloponnèse, Alcibiade[4] tự cảm thấy được tự do nhạo báng nền luân lí của tổ tiên, và Thrasymaque[5] tuyên bố rằng sức mạnh là hình thức duy nhất của pháp luật. Sau những chiến tranh giữa Marius và Sula, giữa César và Pompée, giữa Antoine và Octave, “La Mã đầy những người mất cơ sở kinh tế, đạo đức lung lay, tinh thần hỗn loạn; đầy những lính tráng đã nếm cái thú mạo hiểm và đã tập giết người; đầy những công dân bị thuế khóa và sự lạm phát thời chiến nuốt hết số tiền dành dụm được… đầy những phụ nữ say mê tự do, tha hồ li dị, phá thai và gian dâm… Một số người ngụy biện nông nổi, tự hào về chủ trương yếm thế, vô liêm sỉ của mình”. Đọc đoạn đó, chúng ta tưởng đâu như tả các thị trấn lớn ở Âu và Mĩ sau hai thế chiến vừa rồi.

Lịch sử an ủi chúng ta một chút vì nó nhắc nhở ta rằng chẳng phải chỉ riêng thế hệ chúng ta mới tội lỗi. Mà thế hệ chúng ta còn thua Hi Lạp và La Mã thời thượng cổ hoặc Ý thời Phục Hưng về sự phổ biến của tật đồng tình ái nữa. “Các nhà cổ điển học viết về tật đó với tinh thần khoan dung của các học giả, còn Aristote thì cho rằng chẳng ai là không mài miệt trong thói trụy lạc đó”. Arétin không ngại ngùng chút gì, xin quận công Mantoue gởi cho mình một thanh niên đẹp trai. Thời nào, xứ nào cũng có cái tệ mãi dâm, từ những nhà chứa của Quốc gia ở Assyrie thời thượng cổ, tới những “hộp đêm” tại các thị trấn lớn Tây Âu và Mĩ thời nay. Theo Luther thì năm 1544, ở Đại học Wittenberg, “bọn con gái bạo dạn chạy theo các sinh viên, từ phòng này qua phòng khác, bất kì ở đâu để hiến họ tấm thân ngà ngọc mà chẳng đòi hỏi gì hết”. Montaiglle (1533 - 1592) bảo rằng thời ông, loại sách khiêu. dâm bán chạy như tôm tươi; sự vô luân ở thời chúng ta khác sự vô luân ở thời Trùng Hưng của Anh về bản chất chứ không về cường độ; tập Memoirs of a Woman of Pleasure (Bút kí của một người đàn bà trác táng), tiểu thuyết của John Cleland mà cốt truyện là một loạt dài những cảnh dâm đãng sống sượng, năm 1749 được hoan nghênh ra sao thì năm 1970 cũng vậy. Chúng ta đã biết rằng các nhà khảo cổ học đã khai quật được những con thò lò ở chung quanh Ninive[6]; thời nào đàn ông và đàn bà cũng ham đánh bạc. Và thời nào cũng vậy, con người thì bất lương, chính quyền thì tham nhũng có lẽ thời nay còn kém thời trước. Ở châu Âu, thế kỉ XVI, thứ văn chương phúng thích cũng bêu xấu bọn con buôn trâng tráo bán các thức ăn pha hoặc hóa phẩm giả. Loài người không bao giờ theo được Thập giới của Chúa[7]. Chúng ta đã biết Voltaire bảo lịch sử trước hết là “một mớ tội lỗi, điên khùng và đau khổ” của nhân loại; Gibbon cũng nghĩ vậy.

Chúng ta đừng quên rằng lịch sử người ta thường viết khác xa lịch sử xảy ra thật: Sử gia ghi chép những gì đặc biệt vì cái đó mới khiến người ta chú ý tới. Nếu trong các bộ sử, tất cả những người vô danh mà được chiếm một số trang tương xứng với số đông của họ, thì chúng ta có được một đại cương đúng hơn nhưng kém rực rỡ về quá khứ của nhân loại. Sau cái bề mặt đậm màu sắc gồm nào là chiến tranh, chính trị, hoạn nạn, đau khổ, gian dâm, li dị, giết chóc, tự tử, có hằng triệu gia đình êm ấm, vợ chồng hòa thuận, hằng triệu đàn ông và đàn bà nhân từ âu yếm, vui về con cái mà cũng khổ vì chúng. Cả trong lịch sử thành văn chúng ta được biết, cũng có biết bao trường hợp hiền từ, cao thượng nữa, khiến chúng ta mặc dầu không quên được thì cũng tha thứ được những trường hợp tội lỗi. Những cử chỉ nhân từ cũng gần nhiều bằng những hành động tàn bạo trên chiến trường hoặc trong khám đường. Trong bộ sử mặc dầu vắn tắt của chúng tôi, độc giả đã thấy biết bao lần loài người cưu mang lẫn nhau:

Farinelli nuôi con của Domenico Scarlatti, nhiều người trợ cấp cho chàng thanh niên Haydn, bá tước Litta trả tiền học cho Jean - Chrétien Bach ở Pologne, Joseph Black luôn luôn ứng trước tiền cho James Watt, Puchberg cho Mozart mượn tiền hoài mà không ngán. Ai có can đảm viết một bộ sử về lòng nhân từ của loài người đây?

Vậy không có gì bảo rằng sự phóng túng về luân lí ở thời đại chúng ta báo hiệu một thời suy đồi; có thể nó là giao thời - đau đớn hay thú vị, tùy theo quan niệm mỗi người - từ một nền luân lí đã mất cơ sở nông nghiệp, qua một nền luân lí khác mà văn minh kĩ nghệ của chúng ta sau này sẽ phải tạo nên, thành một trật tự mới, bình thường của xã hội. Trong khi chờ đợi thì lịch sử xác nhận rằng các nền văn minh tan rã rất chậm. Nền luân lí của Hi Lạp bắt đầu lung lay vì bọn ngụy biện, vậy mà hai trăm rưởi năm sau, văn minh Hi Lạp vẫn tiếp tục sản xuất các tác phẩm văn chương, nghệ thuật bất hủ; luân lí La Mã cũng bắt đầu suy vi sau khi Ý bị lây cái sa đọa của dân tộc Hi Lạp bại trận (-146), nhưng La Mã vẫn có những chính trị gia đại tài, những triết gia, thi sĩ, nghệ sĩ cho tới khi Marc Aurèle chết (-180). Xét về phương diện chính trị thì La Mã suy nhất khi César được bầu lên chức Chấp chính, (-60). Vậy mà mãi đến năm 465, nó mới bị các Rợ diệt. Ước gì sự suy bại của chúng[8] cũng có thể kéo dài như sự suy bại của đế quốc La Mã!

Có thể rằng nền văn minh của chúng ta sẽ có kỉ luật hơn nhờ sự huấn luyện quân sự cần cho những chiến tranh sau này. Xã hội càng yên ổn thì cá nhân càng được tự do. Khi sự cô lập về địa thế không còn che chở cho Hoa Kì và Anh nữa thì chủ nghĩa cá nhân ở hai nước đó cũng sẽ bớt mạnh. Có thể rằng vì cái hại túng dục quá độ mà người ta sẽ thôi không phóng túng nữa; có thể rằng bọn con cháu phóng đãng của chúng ta sẽ đổi mốt mà hóa ra thích sự trật tự và tính e lệ, và cho quần áo có phần lại kích thích hơn là da thịt hở hang. Hiện nay thì sự tự do về luân lí của chúng ta kể ra cũng tốt về vài phương diện: cởi bỏ được nỗi khiếp sợ do thần học gây nên, được hưởng những thú vui chẳng có hại gì cho chúng ta và cho người khác mà chẳng ân hận thắc mắc, được phơi da thịt ra mà đón gió bốn phương, chẳng có chút mặc cảm gì cả, thú

Chú thích:

[1] Theo Ki Tô giáo.

[2] Hiện nay ở Âu, Mĩ, sự hạn chế sinh sản đã gần thành một đức tốt.

[3] Nghĩa là hóa ra trễ hơn.

[4] Tướng lãnh và chính khách Hi Lạp: 450-404.

[5] Nhà hùng biện và triết gia Hi Lạp ở thế kỉ thứ V trước T.L.

[6] Kinh đô xứ Assyrie thời thượng cổ, vào khoảng thế kỉ thứ VIII trước Tây lịch.

[7] Theo Thánh kinh, Chúa ban Thập giới đó cho Moise trên núi Sinai. Thập giới là mười điều răn như phải thờ kính Thượng Đế, có hiếu với cha mẹ, không được trộm cướp, giết người, gian dâm…

[8] Tức là Âu, Mĩ, nhất là Mĩ.