← Quay lại trang sách

Chương tám

Trong những ngày tiếp theo đó, Clara không có thì giờ rảnh rỗi để suy nghĩ về Charles. Hugues yêu cầu nàng một công việc rất bận rộn. Họ cũng chấp nhận với nhau là chỉ dành rất ít thì giờ để nghỉ ngơi. Tuy nhiên, nàng thường đột nhiên bận lòng về người chủ của ngôi nhà to lớn kế cận, mặc dù nàng không bao giờ muốn nghĩ về đó. Nàng không thể nào làm sáng tỏ được những động cơ nào đã thúc giục nàng cứ tìm cách giải quyết những vấn đề của người yêu cũ.

Vào một hôm, nàng bị người chủ trách móc trong lúc nàng đang ghi chép lại những lời ông đọc:

- Clara! Đừng có mơ màng nữa.

Ngơ ngác, nàng ngẩng đầu lên, chăm chú nhìn ông ngạc nhiên:

- Xin ông vui lòng thứ lỗi… Tôi đã lơ đễnh…

Họ quay lại với công việc, nhưng nàng đóan ra rằng Hugues sẽ thường xuyên nổi giận về những giây phút này hơn nữa… Vào buổi sáng, họ xuống quầy rượu để uống café và ông ta khởi sự cuộc đối thọai gay gắt về việc này. Ông ta hỏi nàng:

- Bà có vẻ như bị căng thẳng lắm. Clara… Tại sao?

Bị lúng túng về câu hỏi thẳng thắn này, nàng cúi đôi mắt xuống, tìm cách thóai thác:

- Tôi không hiểu tại sao ông lại ngụ ý như vậy.

Hugues thở ra với một vẻ mất bình tĩnh, ông chế nhạo:

- Một cách vắn tắt là bà yêu cầu tôi tự lăn xả vào những công việc riêng tôi, có phải vậy không?

Nàng giữ im lặng, hy vọng thái độ này sẽ làm ông chán nản, không tò mò nữa. Ông ta hiểu được tín hiệu của sự im lặng này và thôi không quấy rầy nàng nữa. Tuy nhiên, ý thức được việc làm sai trái của mình, Clara cố gắng tỏ ra hết sức mình để cống hiến cho ông một sự tập trung cao độ trong suốt thời gian làm việc giữa họ. Đến cuối buổi, ông ta bảo nàng:

- Chiều mai, chúng ta lại tham dự một nghi lễ gọi là Odalan, hay còn gọi là ngày lễ kỷ niệm xây dựng của một ngôi đền.

- Lễ này sẽ diễn ra tại làng nào?

- Tại Kapal, mạn bắc Denpasar.

- Triển vọng có một buổi tối thú vị trong tương lai.

- Đương nhiên, đền thờ Pura Sada còn lưu giữ những thánh tích của người sáng lập vùng này, đó là nhân vật nổi tiếng Ida Sanghyang Djaehart…

Clara còn nhớ huyền thợi về nhân vật danh tiếng này, nhân vật được người dân Bali rất kính trọng. Là thuyền trưởng một chiếc tàu, bị giạt vào một bãi biển hoang vu, và tại đó, ông đã cùng với các thủy thủ của ông xây dựng lên một thị trấn thịnh vượng. Trên những vùng được coi như là nơi ông đắm tàu, người ta đã xây dựng lên một ngôi đền để tưởng niệm đến các công lao của ông.

Hugues nói tiếp:

- Lễ hội này sẽ diễn ra vào buổi tối, tôi đề nghị là vào buổi chiều bà có thể dành thì giờ để đi tham quan một phong cảnh khác, đó là Gunung Kawi. Và giống như thường lệ, bà hãy mang theo máy chụp hình để thực hiện thiên phóng sự của bà.

Nàng vui vẻ nhận nhiệm vụ được giao phó. Nàng không hề chán ghét phụ giúp người chủ trong việc cáng đáng thêm những nhiệm vụ mà nàng biết là thông thường không thể phó thác riêng cho mình. Cuộc đi tham quan này là một cơ hội bất ngờ, để nàng được yên thân một mình, điều mà nàng xét thấy ngày càng cần thiết hơn, trong hòan cảnh rối rắm hiện tại. Lúc ở Luân Đôn, nàng biết một cách chắc chắn là nàng có được sự bình yên và yên lặng khi quay trở về văn phòng làm việc, nhưng hiện tại, nàng đang mệt mỏi, mà họat động ở nơi này thì ồn ào suốt ngày tại nơi làm việc. Ngược lại, ở Bali, lòng ao ước được cô độc có vẻ như khó giải thích với nàng. Thông thường, nàng phải nhiệt tình hòa nhập với những tiết mục giải trí của những người bạn đồng nghiệp để được thú vị tối đa, qua những ngày lưu trú bất ngờ trong những nơi quá đẹp trên hòn đảo này. Ở tại nơi kia, nàng lẩn tránh tất cả… Nàng từ chối giải thích thái độ bất hợp lý này.

Từ trên bậc thang cổ xưa lát đá của Gunung Kawi, Clara lặng ngắm thung lũng xanh rờn trải rộng trước mắt. Sự tĩnh mịch ngự trị quanh nàng. Những ngọn tháp của những ngôi mộ đã khiến cho nơi này trở nên nổi tiếng, chúng xếp thành tầng trên những sườn đá. Bị xúc động bởi sự yên tĩnh và bí ẩn đang đè nặng trên những đền đài này, nàng từ từ ngồi xuống trên một bậc cấp rong rêu. Ngay cả chim chóc cũng không líu lo ca hát trong những rặng cây. Hình như mỗi một mình nàng đại biểu duy nhất của lòai người trong một chu vi của hàng bao cây số…

Vài phút sau, một tiếng động lén lút từ phía sau làm nàng đờ đẫn. Hỏang sợ, nàng ngập ngừng quay lại để tìm nguyên nhân. Những chữ “Ác thần” và “Lễ quỉ” quay cuồng trong trí óc nàng. Sau cùng, gom hết can đảm nàng đối diện:

- Ồ!

Nàng kêu lên, đồng thời thở phào nhẹ nhõm và ngạc nhiên. Theo quán tính, nàng đưa bàn tay lên cổ làm dịu bớt nhịp tim đang đập lộn xộn. Còn bao nhiêu lần gặp gỡ tình cờ như thế này sẽ chi phối đời nàng nữa đây?

Charles chào nàng:

- Xin chào… Rõ ràng, con đường của chúng ta đi đã gặp điểm giao, và lại giao nhau một cách đều đặn…

Clara đóan là chàng cũng chia sẻ sự ngạc nhiên với nàng, trước những sự tình cờ cứ mải miết đeo đuổi để nối kết họ. Nhưng sự ngạc nhiên đã được thay thế lập tức bằng sự lạnh lùng thường nhật. Chàng gay gắt phê phán trong lúc chỉ vào cuốn sổ tay và máy chụp hình của nàng:

- Thật vô ích để hỏi về cái lý do sự hiện diện của cô ở nơi này.

Nàng biết trả lời làm sao trước một câu nói xa nói gần khinh khỉnh này đây? Nàng liếc nhìn vào những dụng cụ làm việc của mình, rồi ngước đầu lên để đương đầu với cái nhìn phản đối đang dò xét nàng cẩn thận. Lại một lần nữa, gương mặt hốc hác, cần cổ trơ xương như quát vào tâm hồn nàng một niềm đau xót. Với vẻ dịu dàng, nàng hỏi lại:

- Còn anh, Charles, tại sao anh có mặt ở nơi đây?

- Ồ! Đó là một thói quen…

Chàng quay người đi, trầm vào trong sự chiêm ngưỡng phong cảnh. Bóng dáng trải dài của chàng chèn lên bong nàng tạp sự tương phản với bầu trời anh. Clara hỏi tiếp:

- Nơi hoang vắng này không làm anh chán ghét chứ?

- Không… Tôi thích cô độc.

Câu trả lời ngắn gọn của chàng đã không thêm được gì vào lời bình phẩm của nàng. Nàng nói mà không rời mắt khỏi thung lũng phía bên dưới, nàng tin chắc chàng không nhìn thấy nó. Ý nghĩ của chàng đang miên man vào trong cùng sâu thẳm, và chỉ riêng mình chàng biết mà thôi.

- Charles… Anh có đồng ý chỉ dẫn cho em nơi này không? – Nàng đề nghị bằng một giọng cổ vũ, muốn phá vỡ bầu không khí trầm mặc đang bao quanh con người chàng.

Chàng đau lòng rời bỏ ý nghĩ riêng tư để đối diện với nàng. Trong một chốc, nàng cố gắng đứng lên để giảm bớt khỏang cách ngăn chia họ. Chàng chế ngự nàng bằng vóc dáng cao ráo của mình, rồi bất ngờ, chàng bỏ thái độ bất động, ngồi xuống một bờ đá nhỏ được xây bên bậc thang. Chàng hỏi:

- Cô có muốn biết thật chính xác không?

Giọng nói của chàng biến mất sự cộc lốc hàng ngày. Trong đôi mắt của chàng, xuất hiện một sự dịu dàng không thể tả được. Clara bị đảo điên trong điều đó, nàng lại hy vọng, biết đâu nàng có khả năng giúp được chàng, dâng hiến cho chàng sự an ủi mà những tình tiết đã cản trở nàng trao cho chàng trong suốt quãng đời đen tối nhất của đời chàng. Nàng trả lời:

- Có, hãy cho em biết về những câu chuyện huyền thoại, truyện dân gian, về tất cả những điều người ta có thể đưa ra một cách hữu dụng cho…

Nàng đột ngột ngừng lại, lo ngại đã để lộ cho chàng thấy rõ tầm quan trọng của công việc của Hugues Nowell. Chàng bổ túc thêm vào.

- Hữu dụng cho quyển sách của người chủ của cô chứ gì?

- Vâng, nếu điều ấy không làm anh bận lòng…

Đôi mắt của họ nhìn vào nhau. Bất ngờ, chàng hỏi:

- Em không sợ à?

- Sợ? Sợ gì?

- Sợ anh…

- Sợ anh! Em không hiểu…

Chàng dang rộng đôi tay trên thung lũng:

- Chỉ có chúng ta nơi này… Không ai nhìn thấy đây, ngòai cái linh hồn người đã khuất, chắc chắn…

Chàng nói ra những lời này hòan tòan khác hẳn, giống như chàng đang dựa vào một người nào khác. Nhưng chàng quan sát người bạn gái của mình bằng một vẻ rất chú ý, tìm kiếm để phát hiện trên gương mặt của nàng có một tia hỏang sợ đột ngột nào không. Cuối cùng, đôi má của nàng lại ửng đỏ lên. Nàng hiểu rõ điều chàng suy nghĩ, hòan tòan giống nàng vào những giây phút cảm xúc nồng nàn nhất đã thường đẩy người này về phía người kia, ngày xưa… Nhưng, cũng to lớn như lòng ao ước được an ủi nàng, nàng ghê tởm đến sự đụng chạm xác thịt. Nàng đòi hỏi điều ấy nơi nàng, mặc dù nàng không ám chỉ đến sự phản bội. Nàng tìm cách trả lời một cách nhẹ nhàng nhất có thể được:

- Không, em không sợ. Anh không phải là lọai đàn ông tấn công phụ nữ không tự vệ…

Chàng không cố nài ép, và bắt đầu kể cho nàng về những nét đặc thù của phong cảnh. Nàng hỏi trong lúc chỉ tay về dãy đền thờ:

- Những ngọn tháp này mang ý nghĩa chính xác ra sao?

- Theo những điều ghi chép còn giữ lại được, hình như chúng dùng để tưởng nhớ đến vua Hudayana, và Hòang gia.

Rất vui thích, nàng hỏi dồn tiếp:

- Các tên tuổi của dòng họ cũng được ghi lại à? Có thể nào anh kể rõ cho em nghe đi?

- Anh cố xem…

Chàng tập trung, im lặng một lúc, và Clara lợi dụng lúc này để chăm chú quan sát gương mặt chàng. Nàng hy vọng biết bao sẽ khám phá được trên đó một sự giãn xả mà chàng biểu lộ ra, ít ra chỉ trong vài giây, chàng quên đi những dằn vặt nội tâm. Chàng bắt đầu kể từ từ:

- Vị vua Hudayana, và hòang hậu Gunapriya. Kế đó, tên của ái phi và hai hòang tử, đã kế vị vua cha.

Chàng im bặt. Dưới đáy thung lũng, luồng gió vẽ lên một đợt sóng xanh rờn trong những cành lá của khu rừng. Được biệt lập trong những ngọn đồi bao quanh, những ngọn tháp canh giữ họ, uy nghi và tĩnh mịch. Clara thì thầm tán dương:

- Anh biết rõ Bali quá, Charles.

Trong dịp này, nàng nói không phải để tránh né một sự im lặng đang đè nặng trên họ, nhưng để khuyến khích người bạn trai nói chuyện, để tránh xa vòng kim-cô cô độc của chàng. Mặc cho sự sa sút tinh thần rõ rệt của chàng, nàng chắc chắn trong lúc chàng đang chịu đựng nỗi thống khổ này, chàng chỉ chờ đợi bàn tay cứu vớt chàng lên khỏi vực sâu ám ảnh của mình. Nàng lấy làm tiếc vì nàng chỉ còn lưu lại hơn vài tuần lễ thật ngắn ngủi để cùng sống trên hòn đảo của chàng. Làm cách nào nàng thành công trong việc đem lại sự cứu giúp cho chàng trong một thời gian quá ngắn?

Chàng trả lời khiêm tốn đối với lời khen ngợi:

- Anh sống nơi đây đã ba năm.

Chàng chỉ tay sang những kiến trúc bên kia dòng thác đang đổ xuống sườn dốc:

- Nơi đó để thờ phụng bốn vị ái phi của vị vua đó, và những cái kia là của những hòang tử của ông.

- Chúng đã được xây dựng vào thời đại nào?

- Gần ngàn năm trước Chúa giáng sinh.

Clara cẩn thận ghi chép vào cuốn sổ tay. Nàng cảm thấy Charles đang chăm chú quan sát mình, nhưng nàng không dám ngẩng đầu nhìn lên, vì sợ lại phải gặp đôi mắt thù hiểm… Nàng hỏi tiếp, mắt vẫn dán vào những điều ghi chú:

- Những công trình đằng kia có liên quan đến huyền thọai gắn chặt vào nơi này không?

- Có, chắc chắn vậy… Chúng ta đang sống tại Bali, đừng quên là… Theo huyền thọai, tên tuổi vĩ đại của vị Ibo Iwa đã được tạc vào những văn bản khắc về những đền đài này, chỉ thực hiện trong một đêm, với sự giúp đỡ của những ngón tay…

Lần đầu tiên, nàng tìm ra được trong giọng nói của chàng âm hưởng vui vẻ chân thực. Nàng nở nụ cười, kết luận:

- Và, đương nhiên, người dân Bali tin tưởng hết lòng vào câu chuyện thần tiên này. Dân tộc này tuyệt vời và em gắn bó với nơi này mỗi ngày một hơn.

- Thật hả?

- Ai mà không mến nó!

- Một số người khinh bỉ nó.

- Họ thật ngu đần và không có chút gì nhạy cảm. Sao lại phải quan tâm đến ý nghĩ của họ chứ.

Charles liếc nhìn nàng, lạ lùng, nhận xét:

- Trên một số phương diện nào đó thì em đã thay đổi hòan tòan, Clara…

- Sao? Thay đổi cái gì chứ?

Bất ngờ, chàng bùng nổ, làm nàng giật nẩy người:

- Lời hứa của em… Em đã phản bội anh!

“Không!” Nàng muốn hét lên, phẫn nộ vì lời buộc tội bất công và sai lầm này. “Em vẫn trung thành…Anh mới chính là người đã phản bội em trong khi chiến đấu với tình yêu của Daphné, và đã không thông báo cho em biết điều ấy!” Nhưng nàng đã im lặng… Nàng sẽ đạt được gì khi tuyên bố điều đó ra? Tình hình không thay đổi được gì. Trong lúc công nhận chàng đã yêu Daphné bằng tình yêu, Charles đã không nhận thấy việc đó chấm dứt tất cả dự tính tương lại dành cho họ. Tuy nhiên, nàng không trách móc chàng về việc đó. Ngay từ đầu, nàng đã cảm thấy là sẽ phát sinh sự quyến luyến giữa chàng với cô gái trẻ thừa kế gia tài, dọc theo những chuỗi ngày sống chung. Sự quyến luyến này được chuyển thành một lọai tình cảm sâu sắc, sâu sắc đến nỗi cái chết của Daphné đã đánh mất luôn khả năng ham muốn cuộc sống của người chồng của cô. Nhưng chàng là một con người không lường được rằng không ai có thể tiên liệu trước được mọi việc, và Clara phải cam chịu điều đó… Nàng cũng xót thương cho vị hôn phu cũ của mình về những điều mà bác sĩ đã cung cấp cho chàng hai niềm hy vọng hão huyền, trong khi hứa hẹn chạy chữa cho người vợ trẻ của chàng. Cái chết đã đem đến một cú sốc, và còn khiến người này đã buộc phải chịu đựng ngần ấy đau đớn nhất đời.

Bất ngờ chàng hỏi bằng giọng dịu dàng, như là xin lỗi về cơn giận dữ của chàng:

- Em đang nghĩ về điều gì vậy, Clara?

Nàng gượng cười và trả lời chàng một cách đơn giản:

- Cho phép em không trả lời câu hỏi này, Charles. Tốt nhất, chúng ta nên tiếp tục nói về lai lịch của địa điểm mà chúng ta đang ngồi đây...

Chàng chấp thuận, không biểu lộ cho nàng thấy sự phản đối của mình, có thể do sự từ chối duyên dáng của nàng. Chàng kể:

- Một trong những vị Hoàng tử của nhà vua đã thoái vị, để rút lui về tu viện này.

Chàng đưa tay chỉ vào một điểm trong thung lũng, nhưng Clara không nhìn thấy gì, dù nàng đã hết sức chú ý, vì tòa nhà ẩn sau một dải cây xanh thẫm. Nàng khen ngợi chàng trong lúc thu xếp cuốn sổ tay vào túi sách:

- Em vừa thực hiện xong một chuyến tham quan thú vị nhất trong chuyến viễn du của em. Em rất cảm ơn anh về sự giúp đỡ của anh, Charles.

Chàng nói thêm:

- Người chủ của em sẽ hài lòng hơn nữa đó... Anh sẽ tìm mua một quyển sách này khi nó được xuất bản.

- Yên tâm. Trước tiên Hugues sẽ soạn ra nhiều đề tài dành cho những tạp chí khoa học trước khi dấn sâu vào bản thảo của quyển sách này. Nhưng em tin là một nhà xuất bản về hướng dẫn du lịch đã ký hợp đồng với ông ta.

Charles không còn những lời phê phán châm chọc về tính chất căn bản của loại nghiệp vụ như thế này nữa, chính chàng là người bị ngạc nhiên vì hạnh phúc của cô bạn gái của mình.

Trong khi họ đứng lên, sửa soạn đặt chân lên các bậc cầu thang, chàng hỏi:

- Bây giờ, em đi đâu?

Nàng thở ra, nói cho chàng biết:

- Em phải trở lại khách sạn để đổi xe, vì em và các bạn phải đến Kapal chiều tối nay.

Họ vừa sống bên nhau một khoảng thời gian thật thoải mái nên chàng không thích cáo từ sớm. Chàng kêu lên:

- Vậy hả? Rõ ràng, những sự trùng hợp là lẽ thường tình... Anh cũng sẽ có mặt ở làng đó, tối nay...

Một chút ngập ngừng trong giọng nói làm cho nàng nhận ra ngay là chàng nói dối. Chàng đã không có ý định tham dự ngày lễ này trước khi gặp nàng... Tuy nhiên, nàng không ngại ngùng gì mà không lao vào trò đùa của chàng. Nàng đã đi xa hơn, và tiến tới một kết luận để trấn át những nhịp tim đang đập rối loạn:

- Đương nhiên, sự tình cờ theo đuổi chúng ta... Được, có thể chúng ta sẽ gặp nhau ngay giữa đám đông người...

Chàng đề nghị:

- Sao mình không cho nhau một cái hẹn nhỉ? Anh sẽ chờ em vào lúc 7 giờ trước cổng đền thờ. Phong cảnh ở đó sẽ không làm em thất vọng đâu, anh có thể bảo đảm được điều đó với em.

- Đươc...

Lúc sau họ bước xuống đến chân đồi. Clara đến bên chiếc taxi, dự tính quay về khách sạn cũng bằng chính phương tiện này. Nàng nhận ra chiếc xe hơi của Charles đậu dưới một gốc cây. Không biết chàng có đề nghị nàng đi về chung xe hay không? Riêng nàng không dám đề nghị với chàng điều ấy, vì sợ làm phiền đến chàng. Nàng không e ngại là chàng sẽ bực tức vì lời yêu cầu thẳng thắn đó mà chỉ sợ, với thái độ lịch thiệp, chàng tỏ ra bằng lòng, nhưng rồi lại ẩn mình vào trong thái độ dè dữ khó hiểu mà chàng vừa thoát ra khỏi nói trong một thời gian ngắn vừa qua... Nhưng khi họ vừa đến đoạn đường dành cho xe hơi, chàng quay qua hỏi:

- Nếu em không ngại việc bị chậm trễ, thì chúng ta có thể cùng nhau đến Sanur.

Một niềm vui thích to lớn dâng tràn trong lòng Clara, nàng cười với chàng một nụ cười nồng nàn nhất:

- Vâng, Charles, em phải trở về khách sạn bây giờ. Cảm ơn anh nhiều...

Một giờ sau, khi nàng bước vào phòng, nàng vu vẻ ném chiếc xắc tay lên gường và thở phào một cách hài lòng. Nàng vui mừng hớn hở thật lòng. Hiển nhiên là với một chút bền chí, nàng có thể giúp đỡ được Charles. Chắc chắn, thời gian qua nhanh và nàng sẽ rời Bali ngay, nhưng những tiến bộ hoàn hảo chỉ đến trong một buổi chiều, đã tạo ra một điềm tốt lành...

Nàng cầm lấy cái lược trên bàn trang điểm và bắt đầu chải lại những lọn tóc bị gió làm rối tung. Một nụ cười rất nhẹ lướt trên đôi môi của nàng. Nàng nhìn chăm chú, nhưng không thấy được hình dáng phản chiếu của mình trong gương vì đầu óc nàng đang lênh đênh vào trong quá khứ, miên man vào những giây phút hạnh phúc đã làm nàng rạng rỡ lên. Nàng thấy lại những nơi đó, bàn tay của Charles đặt trên bàn tay của nàng, ánh mắt thât trìu mến chàng dành riêng cho nàng vào lúc đó. Đôi môi nàng run rẩy ghi nhớ lại những nụ hôn mà chàng đã ấp ủ trong những giây phút đắm đuối bên nhau.

“Có thể chúng ta đã quá hạnh phúc...” nàng cao giọng hồi tưởng. “Định mệnh đã quá bực tức vì tình yêu của chúng ta quá hoàn hảo. Ganh ghét, nó đã quyết định chấm dứt hạnh phúc quá ngọt ngào này của con người...”

Bất ngờ, bàn tay của nàng bấu chặt vào cái lược, và sững người bất động. Nàng vừa nghĩ đến Nimade... Charles và cô ta sẽ cưới nhau vào một ngày gần đây. Băn khoăn, nàng nhíu đôi chân mày lại. Tất nhiên là vậy, nàng hy vọng một cách nồng nhiệt sự hòa nhập vào giữa dòng đời bình thường của vị hôn phu. Chàng còn quá trẻ để phải chịu đựng một đời sống góa bụa đơn độc... Nhưng nàng lại cảm thấy mù mịt rằng cô gái Bali sẽ không mang lại được trạng thái hoàn toàn đầy đủ. Tuổi tác và trình độ văn hóa của hai người quá cách biệt nhau để có thể xây dựng nên một đời sống lứa đôi hòa hợp...

Vào lúc đó, một tiếng cào cửa thận trọng đã lôi nàng ra khỏi cơn mơ màng. Nàng đi ra mở cửa và thấy người phục vụ mang đến cho nàng một phong thư. Nàng thì thầm trong lúc còn bàng hoàng:

- Cảm ơn.

Nàng nhận ra được ngay nét chữ của Charles, trước khi bóc thư ra, nàng đoán thử xem bên trong nó chứa đựng những gì.

“Không may cho tôi, tôi sẽ không có mặt được...”

Nàng nhắm mắt lại để xóa nhòa những dòng chữ xin lỗi lịch sự, đang nhảy múa trong sương mù của dòng nước mắt... Chàng đã hối tiếc về động lực đã thúc đẩy chàng đưa ra một cái hẹn... Có thể chàng tự lên án mình đã có thái độ cư xử nhã nhặn với nàng tại Guaung Kawi chiều nay...

Hai vai nàng cong gập xuống dưới sức nặng buồn tủi đang đè lên. Tất cả những tình cảm tốt đẹp đã bị xóa tan ngay trong khoảnh khắc. Nàng chịu đựng một sự thất bại đau đớn. Ban nãy, nàng đã tin tưởng mình đã thành công, giờ Charles lại chui vào trong vỏ cô độc của chàng và không còn quan tâm đến sự giúp đỡ của nàng nữa...

Trước giờ khởi hành một chút, tại khách sạn, Hugues thông báo với tất cả các cộng sự của ông là họ phải phân tán nhau để đến đền thờ. Ông giải thích:

- Chúng ta không nên để lộ những ấn tượng ban đầu của chúng ta cho những người bạn lân bang. Chúng ta sẽ tập trung nhau lại tại nơi đó thì hơn.

Mọi người đều đồng ý. Lần này, khi đến làng sẽ tổ chức hành lễ, nhóm nghiên cứu sẽ phân tán và những thành viên lẫn khuất trong từng người một vào đám đông dày đặc. Clara từ từ nhắm hướng sân trước đền thờ được chiếu sáng rực rỡ bằng những bó đuốc. Đây là lần đầu tiên, nàng không chia sẻ niềm vui chung trong một cảnh trí vui chơi lộng lẫy. Làn mây sầu muộn bao phủ lấy tâm hồn nàng, nàng thấy cô độc giữa những tiếng huyên náo bao quanh. Sự vắng mặt của Charles chỉ giải thích được phần nào nỗi ủ ê, chán nản này. Nàng đã phải chịu đựng một nỗi đau khổ dai dẳng, nhưng nó lại ấp ủ từ nơi rất sâu xa trong tâm khảm của nàng; thế nhưng nàng không thể nào xác định được điều đó. Hít thở mạnh vào, nàng giải quyết bằng cách xem thường nó và hoàn toàn hiến mình vào công việc của một nữ quan sát viên. Hiện tại, nàng thấy cuốn sổ tay và cây bút chì đang nằm trong xắc tay là quan trọng cho công việc ghi chép những điều cần thiết về buổi lễ, rồi, bằng một bước kiên quyết, nàng tiến vào trong vành đai ngôi đền. Nơi đó, nàng đứng sững lại như tượng đá. Nàng thì thầm gọi:

- Charles... Chàng đã đến, dù sao....

Giống như thường lệ, vô số những pho tượng làm tắc nghẽn lối đi vào sân, và nàng lách mình vào một cách thận trọng sau pho tượng này đến pho tượng khác. Nàng cũng có thế quan sát quang cảnh, nhưng mà không nhìn thấy... Charles sải bước trên lối đi, thỉnh thoảng liếc mắt nhìn láo liên khắp mọi phía. Chàng đang đứng đợi nàng... Bất ngờ, nàng nhận thấy Hugues khoan thai bước vào căn chính điện. Đồng thời Charles cũng chú ý đến ông ta và đi ngay đến sau một cái cột trụ, để băng qua mà không cho ai thấy. Sự khôi hài của tình thế đập mạnh vào tình cảm của Clara, đến nỗi nàng phải kiềm chế một trận cười giòn giã. Cả hai người, họ đang chơi trò cút bắt với nhau, với một vẻ nghiêm trọng và bền bỉ như những trẻ thơ. Khi tình thế thận trọng qua rồi, vị hôn phu của nàng rời khỏi chỗ ẩn nấp và lấy lại tư thế bình thường. Ngay lúc chàng quay lưng lại về phía nàng, thì Clara đã đi vòng qua được pho tượng và hòa mình vào đám đông ngay trước cửa ra vào sân trước. Vài phút sau, ánh mắt của họ giao với nhau rồi linh tính báo cho nàng biết rằng chàng đến là vì nàng... Nàng nở một nụ cười rất hòa nhã với chàng, nhưng chỉ được đáp lại bằng một lời chào gẫy gọn. Chàng tự bào chữa bằng cách công bố một cách rõ ràng như đã không lừa người con gái đang nói chuyện với mình:

- Vào giờ phút cuối, anh có thể tự cho phép mình được rảnh rỗi...

Nàng trả lời một cách đơn giản:

- Em rất vui mừng. Ồ! Đông người quá!

Rồi nàng lại nói tiếp trong lúc dang tay chỉ vào đám đông đang cuốn nhau đi bên cạnh họ:

- Người ta sẽ nghĩ là đang được ở trong một cuộc hội chợ chứ không phải là một ngày lễ tôn giáo.

Bất ngờ, nàng cảm thấy một tình cảm tươi vui dâng lên từ từ trong nội tâm của mình. Tất cả mọi niềm hy vọng đã không bị mất đi từ khi chàng bước tới mỗi bước về phía nàng, trong lúc mà chàng đã chối bỏ cuộc hẹn hò với nàng...

Chàng nhận xét:

- Người dân Bali rất mộ đạo, nhưng đồng thời họ cũng biết cách hưởng thụ đời sống...

Một cách lơ đễnh, nàng thừa nhận:

- Đương nhiên...

Qua ánh sáng phát ra từ dãy đèn hoa, nàng vừa khám phá ra một việc làm không thể nào tin được. Charles mặc một chiếc áo sơ mi mới tinh, bên trong chiếc áo vét được giặt ủi cẩn thận... Chiếc quần dài bằng vải làm nổi rõ nếp gấp không chê vào đâu được, và đôi giày đã được đánh xi bóng láng. Nàng liếc nhanh mắt qua nơi khác để tránh ánh mắt của chàng, vì nàng không muốn để lộ điều mình sửng sốt. Thế nhưng, một niềm an ủi thầm kín đã làm cho nàng vui mừng, rốt lại chàng bắt đầu chăm chút đến con người của mình! Hẳn nhiên, có thể gọi đó là một sự tiến bộ tạm thời và không biết ngày mai sẽ như thế nào. Nhưng, một cách lạc quan để nhận xét, Clara không tin vào một khả năng gặp lại thất bại của tình cảnh chểnh mảnh trong con người của chàng lần nữa. “Không bao giờ” nàng tự thuyết phục mình. “Tôi sẽ không nhìn thấy chàng lại lại còn tiếp tục trong tình trạng sống như một tên lang thang như trước đây nữa!”

Quá ngạc nhiên vì tiến bộ thật chớp nhoáng này, nàng tưởng tượng ra một viễn cảnh tốt lành qua việc làm đó, rằng người bạn trai của nàng đã chấp nhận lấy lại tình trạng cân bằng tâm lý.

Nhưng Clara được dịp xem nghi thức này sớm hơn điều nàng hy vọng. Ngay tuần lễ sau khi viếng thăm khách sạn Kapalan, khi được tin một gia đình của một người giúp việc tại khách sạn Bali Beach chuẩn bị hỏa táng một người thân, Hugues quyết định:

- Chúng ta phải đi tới đó. Phải mang theo máy ghi âm, và thâu lại tất cả những bài tụng niệm và những lời cầu kinh.

- Ông có nghĩ rằng chúng ta sẽ có thể chụp được những bức hình của buổi lễ không? – Clara hỏi thăm ông ta, vì nàng muốn có được thêm những hình ảnh gây xúc động của một buổi lễ hỏa táng người chết, theo phong tục Bali vào bộ sưu tập của nàng.

- Tôi chưa biết được điều đó, nhưng tôi sẽ hướng dẫn bà. Tính cách tò mò của chúng ta sẽ biến thành điều tai họa, nếu chúng ta xúc phạm đến gia đình này vào giây phút trang nghiêm nhất trong đời sống của họ.

Điều ngạc nhiên lớn nhất về họ là không thấy hiện diện một sự u buồn nào ngự trị giữa cha mẹ, bè bạn của người chết. Ngược lại, họ có vẻ như là vui vẻ và trò chuyện thân mật với nhau trước giàn thiêu đang còn nguyên vẹn. Trước thái độ ngạc nhiên, người phục vụ trẻ của khách sạn Bali Beach giải thích:

- Tại sao chúng tôi phải buồn kia chứ? Thể xác chỉ có thể tồn tại khi linh hồn còn hiện hữu trong đó. Người chết của chúng tôi, họ chỉ được giải thoát ra khỏi xác phàm trần tục bằng cách hỏa táng.

Cô gái tò mò quan sát gương mặt sáng sủa và thông minh của người thanh niên đang nói chuyện với họ. Anh ta đang theo học tại trường đại học Java và chỉ đi làm công việc phục vụ trong suốt thời gian nghỉ hè. Rõ ràng là sự tiếp xúc với nền văn minh tiến bộ cùng với các vị giáo sư uyên bác ở đại học đã không hủy hoại được niềm tin của anh ta.

Nàng nhấn mạnh:

- Anh có tin rằng tập quán này thực sự có căn bản vững chắc của nó không?

- Có chứ! Rốt lại, cho đến nay, các cụ nhà tôi vẫn hướng về một đời sống thoát tục, coi thường thể xác.

- Phải chăng đây là một lối nhận thức?

- Đúng vậy. Xin lỗi cô, tôi có việc phải đi.

Bằng một cái gật đầu ngắn gọn, anh ta bước ra nhập vào gia đình của mình. Họ đang chuẩn bị cùng nhau đi vào trong nhà mồ của người chết. Nhà mồ được làm bằng gỗ đặc biệt được dựng lên để dành cho dịp này. Hài cốt người chết được đặt trang trọng trên một mặt phẳng phủ đầy bông hoa và lá cây. Các cô gái trẻ đã rảy dầu thơm và nước phép cho nó. Một vài giờ trước đó, một buổi tiệc thịnh soạn đã tụ tập tất cả cư dân của làng quê. Hiện tại, buổi lễ khởi sự bắt đầu. Một số người đang ông tiến đến bên giường người chết, nâng xác chết đã được liệm trong một tấm vải trắng. Sau đó, họ cùng nhau nâng xác chết lên cao hơn đầu của họ và bắt đầu xoay nó khắp mọi phía.

- Họ làm gì vậy? – Clara ngạc nhiên, lớn tiếng.

Hugues giảng giải:

- Họ cố làm cho linh hồn người chết lạc hướng, để không bao giờ người chết còn nhận ra được con đường của ngôi nhà mồ nữa.

Nàng phát biểu:

- Khó có thể tin được.

- Đúng. Đã trải qua bao thế kỷ, họ cũng đều phòng ngừa như vậy đối với linh hồn người chết. Hiện giờ, bà đang được chứng kiến một nghi thức đã không hề thay đổi hơn ngàn năm nay…

Cô gái đưa mắt nhìn về phía giàn thiêu, được dựng theo hình tháp. Vách nhà được trang trí bằng nhiều mảnh giấy nhỏ nhiều màu, những mảnh gương vụn, và nhiều chiếc nơ bằng lụa lấp lánh. Năm mái nhọn bằng tre được dựng quanh để che ánh mặt trời cho ngôi nhà mồ. Nếu gia đình người chết thuộc thành phần giàu có nhất, hoặc thuộc đẳng cấp cao nhất, họ sẽ được dựng lên mười hai mái. Hài cốt sẽ được kéo lên trên một giàn hỏa thiêu được chống giữ bằng bốn trụ cột bằng gỗ.

Hugues chắc lưỡi:

- Ngôi nhà nầy được xây cao lên để tượng trưng cho khoảng không gian giữa đất và trời. Để rồi trong giây lát nữa, người chết sẽ không còn thuộc về vị trí cư trú của nó tại mặt đất cũng như không thuộc về thiên đường...

Clara gật đầu tán thành, không rời mắt khỏi đám đông đang vây quanh công trình xây dựng. Tất cả cảnh vật được bài trí hướng về một cây cột chạm trổ hình hai con rắn quấn vòng quanh, biểu tượng cho sự tạo thành vũ trụ. Ở chân cột, pho tượng Bhoma, con trai của đất, canh giữ cảnh tượng bằng con mắt nghiêm ngặt của nó, hai cánh dang rộng ra phía sau lưng. Những diễn biến tiếp theo gây sửng sốt và lôi cuốn sự thán phục lẫn ngạc nhien cho Clara cùng các bạn đồng nghiệp. Ngôi nhà mồ dành cho người chết được di chuyển toàn bộ đến một mảnh đất đã được thánh hóa để sử dụng vào việc hỏa táng trước ngôi đền Dura Dalem.

Hughues nhẩm tính khi toàn bộ cấu trúc đó được di chuyển bằng sức người:

- Theo tôi, ít nhất cũng phải sử dụng đến 60 đàn ông cho công việc này.

Dòng người di chuyển. Những phụ nữ trong những chiếc váy sarong đẹp nhất hát lên những bài thánh ca và hai tay nâng những khay lễ vật to lớn đi theo. Cuối cùng, họ đến địa điểm đã được chọn. Nhà sư đọc những câu thần chú lê thê, và sau khi rảy nước phép lần cuối cùng, ông châm lửa vào giàn hỏa thiêu. Ngọn lửa bùng lên trên bầu trời xanh phát ra những tiếng réo ù ù và những tiếng răng rắc của tre.

Hugues buột miệng kêu lên, ông cũng bị xúc động như các bạn đồng nghiệp đang im lặng như tờ:

- Cảnh tượng thật dị thường!

Tiếng nói của ông bị át đi bởi một tiếng vang lớn. Phần cao nhất của ngôi nhà vừa sụp xuống dưới sức tấn công của ngọn lửa, và nó rụm xuống trên mặt đất trong một đống than hồng đỏ rực.

Khoảng nửa giờ sau, Clara mới nói ra được:

- A! Rõ ràng là chúng ta vừa được dự một buổi lễ độc nhất vô nhị. Đống tro tàn này rồi sẽ đi về đâu? Liệu người ta có đưa nó vào trong ngôi đền dành riêng cho những người chết không?

- Không! Giờ thì đoàn người đang chuẩn bị đi ra biển. Những gì còn lại sẽ được rắc vào lòng đại dương với những bài tụng kinh và cầu nguyện mới nữa.

- Thế nhưng trong trường hợp họ sống cách xa biển thì sao?

- Họ sẽ thả nó vào một dòng sông, thế nào rồi dòng sông đó cũng mang những thứ này ra tận cửa sông và tới biển cả…

Clara phê bình trong lúc vội vàng ghi chú:

- Vậy thì, nước đóng một nhiệm vụ hàng đầu trong sự chết.

- Đúng một cách thật tuyệt đối. Bà đừng quên là trong tất cả các tôn giáo của ngươi Indonésie, ba ngôi thần linh gồm gồm có ba nguyên tố: nước, lửa và gió…

- Ba vật chất tự nhiên…

- Có dân tộc nào có thể khoe cả bản thể của mình cũng gần gũi với thiên nhiên như dân Bali?

Clara mơ màng thì thầm:

- Hòn đảo này làm mê hồn tôi…

Hugues gỡ máy chụp hình ra khỏi đầu, xếp nó vào trong một cái túi và nhìn nàng bằng một cái nhìn vui vẻ. Ông trêu nàng:

- Tôi hiểu điều đó. Nhưng dù sao tôi cũng hy vọng rằng vào lúc khởi hành trở về, bà sẽ cùng chúng tôi lên máy bay.

- Ông cứ yên tâm, tôi sẽ quay về Luân Đôn với các ông… Làm sao tôi có thể làm khác hơn được chứ?

- Cô có vẻ rất buồn trong ý nghĩ này…

Mặc dù ngoài ý muốn, những ý nghĩ về người con gái kia cùng với Charles lại đến trong đầu nàng, con người đã thật sự sống thường xuyên trong thiên đường hạ giới nầy. Ôi! Đời sống lạ lùng biết bao! Nếu cuộc đời của họ không bị chia lìa, nếu cuộc hôn nhân đã được định không bị tan rã vào thời điểm đã tiên liệu, thì có lẽ không bao giờ cả hai được sống ở Bali, và chắc chắn họ không bao giờ có ý nghĩ thực hiện một chuyến du lịch qua Phương Đông. Vào thời kỳ đính hôn của họ, lúc đó Charles đang bắt đầu vào nghề kiến truc, và chàng không chuẩn bị để thừa kế một gia tài lớn. Chắc hẳn người chú của nàng đã hứa để lại một gia tài kha khá cho chàng và chàng sống với cô gái độc thân trẻ với số tiền khiêm tốn. Những đứa con mà Clara và chàng cùng mong đợi trong tương lai sẽ ưu tiên trong tất cả những chương trình nghỉ hè xa nhà và đắt đỏ…

Hugues ngạc nhiên nhận xét trên đường trở về Sanur:

- Sao bà im lặng quá vậy. Hình như bà còn mải bận rộn vấn vương trong đầu về cuộc hỏa táng, nó đã để lại cho bà những cảm xúc mãnh liệt đến vậy sao?

Nàng thở dài:

- Không. Tôi nghĩ ngợi đến chuyện khác…

Ông ta tò mò hỏi:

- Việc gì vậy?

Nàng đáp lại bằng một giọng khó hiểu trong khi dõi mắt theo hút vào trong những cánh đồng lúa họ đang đi ngang:

- Tôi nghĩ về quá khứ và những sự lạ lùng của đời sống.

Một lát sau, Hugues thừa nhận:

- Bà làm tôi hoang mang. Chủ nhân của bà, ông Rexford, đã cho tôi biết những nhận xét đặc biệt về tính chân thực của bà… Ông ta mô tả bà như là: đúng giờ giấc, nghiêm túc tận tâm, hoàn hảo, vậy mà… hầu như bà không bao giờ có vấn đề khó khăn; hay là, ít ra, bà dã cất giấu chúng kỹ quá…

- Điều đó cũng thường thôi. Văn phòng làm việc đâu phải nơi thuận tiện để thổ lộ tâm tình…

- Nhưng, như lúc này đây, bà cũng không dám cởi mở và tự nhiên…

- Trường hợp tôi cũng hơi đặc biệt. Chắc chắn là tôi có mặt nơi nầy vì những lý do nghề nghiệp, nhưng bản thân tôi cũng thấy có một sự mạo hiểm cá nhân lớn. Chúng ta đâu còn ở tại Luân Đôn, và giờ giấc của chúng ta cũng thay đổi khác xa.

- Bà vừa chuyển đề tài đó, Clara…

- Hugues, tôi không muốn nói chuyện về đời sống riêng tư của mình, ông hiểu điều đó kia mà – Nàng ngăn cản ông.

- Đúng. Xin lỗi bà. Thôi mình đừng nhắc lại chuyện đó nữa…

Sự im lặng bao trùm lên họ. Clara lại chăm chú nhìn phong cảnh. Ở ven làng, một bóng người phụ nữ bỗng nhiên lôi cuốn sự chú ý của nàng, người đàn bà đó ăn mặc toàn trắng. Clara quay qua người bạn, chỉ ngón tay về phía người đàn bà, hỏi:

- Tại sao, bà đó bận toàn đồ trắng vậy?

Hugues giải thích:

- Chắc chắn là bà ta đang đi đến một ngôi nhà mồ để chuẩn bị chôn cất hay là hỏa táng.

- Vậy ra màu trắng dành đặc biệt cho tang lễ?

- Đúng, đó là tập quán.

Clara thầm nghĩ về biết bao nghi thức, bao nhiêu điều cấm kỵ, và những lễ nghi, vừa thơ mộng vừa huyền bí vấn còn ngự trị trên những con người của xứ sở này. Xe họ giảm tốc độ khi băng qua một ngôi làng. Nàng đủ thì giờ để nhận ra ba ngôi đền truyền thống: ngôi đền khởi thủy, dành cho vị thần lập ra địa phận này, để thờ phụng ông ta; ngôi đền làng, dành cho việc tổ chức các nghi lễ lớn liên quan đến những dân làng đang sống, và ngôi đền dành cho người chết. Giữa vị trí trung tâm có dựng lên một cây chuối khổng lồ, một trong ba loại linh thiêng ở Bali. Mỗi sáng, phiên chợ trái cây và rau quả diễn ra rộn ràng trên bãi đất cứng nầy. Tại đầu cùng của nó, một hàng rào vây kín một khoảng đất dành cho những trận đá gà, trò tiêu khiển được dân Bali ưa thích. Một nhóm trẻ con cười vui la hét chạy đuổi theo chiếc xe hơi. Một con heo nhỏ, thoát khỏi khu vườn của nó chạy ngoằn ngoèo trên đường lộ. Không ai có vẻ hối hả, hấp tấp, mọi người đều làm việc chậm rãi; họ ngừng tay, gật đầu cười chào thân thiện với hai vị khách đang băng ngang qua làng trong chiếc xe hơi sơn màu đỏ chói.

Hugues cho xe chạy nhanh khi họ đến con đường lớn, hai bên bờ chạy dài những con kinh và những ruộng lúa xanh rì. Một vài con trâu thản nhiên lội bì bõm trong những vũng sình lầy, có con cả gan đưa lưỡi ra đánh cắp một cách bình tĩnh, những lễ vật bông trái và ngũ cốc đặt bên vệ đường. Cuối cùng chiếc xe đi vào địa phận Deupasar, thị trấn buôn bán và ồn ào. Nơi đây một đám đông đang chen chúc nhau di chuyển dọc trên những vỉa hè. Một luồng xe đạp, xe mô tô, xe đẩy tràn ngập trên một con đường khiến cho sự lưu thông trở nên khó khăn.

Đây đó, những chiếc taxi cũ kỹ bụi bặm và kẻ sọc những màu sắc sặc sỡ, hòa vào trong dòng thác ồn ào. Tại lối vào của một con đường chính, một pho tượng khổng lồ của một vị thần linh dành để canh giữ sự náo động nầy. Không một tai nạn nào xảy ra tại ngã tư nguy hiểm này, nếu như người ta chịu lưu ý đến việc trang trí cho cái đầu xấu xí đỏ rực màu hoa dâm bụt của vị thần. Đó cũng là lý do để cho các bác tài xế phải lập tức giảm tốc độ và tăng sự thận trọng.

Về đến khách sạn, Hughues đậu xe và quay qua Clara, ông lưu ý nàng:

- Tôi hy vọng là bà dã có bản ghi chép.

Clara thú nhận:

- Không! Tôi mải theo dõi những cảnh tượng của buổi hỏa táng. Tuy nhiên tôi nhớ rõ các chi tiết nhỏ nhặt nhất và tôi sẽ không gặp khó khăn gì trong việc ghi chép lại nó.

Hugues chấp thuận:

- Tốt. Trong trường hợp nầy, tôi khuyên bà nên làm ngay đi, khi mà trí nhớ của bà còn chính xác. Chúng ta sẽ gặp lại nhau vào bữa ăn tối.

Clara về phòng mình, ngồi vào bàn làm việc và bắt đầu hồi tưởng lại buổi lễ mà nàng có dịp chứng kiến lần đầu tiên. Nàng làm việc miệt mài trong khoảng hai tiếng đồng hồ, hoàn toàn quên mất thời gian trôi qua. Cuối cùng, khi hạ bút xuống, nàng thở ra nhẹ nhõm, hài lòng. Nàng đã học được nhiều điều trên hòn đảo tuyệt vời này, nhưng theo bản năng nàng biết là mình không nên chần chừ để khám phá thêm nhiều điều khác nữa; khám phá về tất cả những cảm xúc cao nhất, và phong phú nhất giữa những con người này đối với những con người khác. Nàng quyết định sẽ thảo ra vài dòng vào mỗi tối, ghi lại trong một cuốn sổ tay cá nhân để sau này có thể nhớ lại khoảng thời gian rất thú vị trong cuộc đời của nàng tại đây.

Hugues và nàng gặp lại nhau trong bữa ăn tối. Các đồng nghiệp của họ đã khởi hành đến một ngôi làng xa xôi để tham dự một trò ma thuật trong một buổi lễ nhập hỏa.

Bất ngờ, Hugues ngước lên hỏi nàng trong bữa ăn được dọn đầy thức ăn thơm ngon:

- À này, ông bạn Gareth Carter của bà đã cung cấp địa chỉ hay tên người, để chúng ta thực hiện chuyến đi thăm tại một khu vực nghèo khổ nào chưa?

- Hiện giờ thì chưa, nhưng ông ta hứa sẽ hỏi thăm các bạn của ông về việc này. Ông ta sẽ báo lại cho tôi khi có kết quả…

Clara không muốn giới thiệu viên quản lý khách sạn Kapalan với người chủ của mình, vì biết thế nào ông ra cũng sẽ lại khuyên nên gặp Charles Millard, và rồi Hugues sẽ ngạc nhiên về thái độ mập mờ lững lờ của người thư ký của mình trong việc tiếp xúc vơi Charles Millard. Hugues tiếp tục:

- Tôi đang lo là sẽ không kiếm được thì giờ rảnh rỗi để cùng đi với bà. Nhưng nếu ông Carter gọi điện cho bà, tôi sẽ dành cho bà một buổi chiều và bà sẽ trang bị theo mình một máy chụp ảnh, một máy thu thanh. Hiện nay, tôi tin chắc là bà có đủ khả năng thực hiện loại phóng sự này mà không cần người phụ tá..

Clara ngỏ lời cám ơn ông, cố che giấu nỗi bất an của mình. Ông ta chưa có dịp biết rõ sự quen biết từ lâu giữa nàng và Charles, trong khi hiện nay, bằng mọi giá, ông ta muốn tìm cho ra một người có thể giới thiệu một gia đình người Bali.

Nàng nhanh chóng rút về phòng, rồi bước ra lan can để suy nghĩ về vấn đề này. Không có một giải pháp nào nhanh chóng để thực hiện việc này ngoài ra. Vậy là nàng đành phải chấp nhận giải pháp yêu câu Charles giúp nàng, mặc dầu nàng không muốn. Nàng chỉ tưởng tượng ra được thái độ khinh khỉnh của Charles khi chàng nhận lời yêu cầu của nàng. Clara thở dài nhè nhẹ rồi quay lưng với cảnh trời đầy sao, trở vào căn phòng của mình. Sự gợi nhớ về người yêu cũ đã làm sống lại toàn bộ quá khứ trong ký ức của nàng. Họ đã yêu nhau nồng nàn biết bao, tình yêu thơ ngây và trong sạch, đến nỗi họ hồn nhiên tin tưởng rằng họ sẽ tay trong tay, cùng nhau dắt vào một vùng xa xôi bất tử và không một điều phiền muộn nào cắt đứt được người này với người kia. Có một hôm, nàng thổ lộ cùng Charles:

- Nếu mất anh, em sẽ chết ngay vào lúc xảy ra việc đó.

Chàng đã hôn mãnh liệt vào đôi môi nàng để an ủi:

- Em yêu của anh, đừng lo sợ gì cả, không bao giờ chúng ta xa nhau…

Trời ơi! Định mệnh đã phán quyết ngược lại hoàn toàn… U buồn, nàng đứng sững trước một bức chạm có trang trí hình vị thần Barong trên tường. Thoạt nhìn vào đó, nàng nhăn mặt chán nản muốn giấu bộ mặt bất an đó vào ngăn tủ, nhưng rồi nàng đã không làm điều đó, và từ từ nàng đã làm quen với nụ cười nhăn nheo ghê tởm này, và cũng chịu nhận lấy những cảm xúc do nó đem lại trong những chuỗi ngày qua… Mơn trớn gương mặt thô lỗ man dã của vị thần bằng một ngón tay mảnh mai, nàng thì thầm:

- Người dân Bali tin quyết là ông gìn giữ cho loài người, ông biểu tượng cho điều tốt lành, sự trong sạch và tất cả những đức hạnh… Hãy gìn giữ cho tôi, một cô gái ngoại quốc.

“Nhưng gìn giữ cái gì?” nội tâm nàng lên tiếng hỏi. Nàng không hiểu và không trả lời nổi. Lúc này, có một nỗi lo sợ ngấm ngầm nào đó đang siết chặt lấy nàng. Hình như nó được điều khiển, táo bạo và vô ý thức, hướng về một vực thăm hiểm nghèo…