← Quay lại trang sách

- 2 - Chúa nhật, ngày 10 tháng 11

Lão Boerhaave ngồi giữa đám vô lại thân tín như con rắn chúa & bầy rắn sọc. Buổi “lễ mừng” Sabbath của họ diễn ra dưới lầu trước khi tôi thức giấc. Tôi đi tìm nước cạo râu & thấy quán rượu đang lô nhô đám thủy thủ chờ đến lượt vui vẻ với những cô gái thổ dân đáng thương mà Walker đem về và biến nhà trọ thành một nhà chứa tự phát. (Rafael không nằm trong số những kẻ trác táng này.)

Tôi không dùng bữa sáng Chúa nhật của mình trong nhà chứa. Henry cũng có cùng cảm giác ghê tởm như tôi, vì thế chúng tôi bỏ bữa sáng (cô hầu gái chắc cũng đang bị ép làm một công việc khác) & đi đến nhà thờ để cầu nguyện với cái bụng lép kẹp.

Đi được chưa đến hai trăm mét, tôi hốt hoảng nhớ ra quyển nhật kí đang nằm trên bàn trong phòng tôi ở Musket, tên thủy thủ say xỉn nào cũng có thể nhìn thấy nếu lẻn vào phòng. Lo sợ cho sự an toàn của nó (& của chính tôi, nếu lão Boerhaave sờ tới nó), tôi quay lại để tìm cách giấu nó đi. Những nụ cười nhếch mép chào đón sự trở về của tôi & tôi cứ ngỡ rằng mình là “kẻ xấu đang bị nói đến,” nhưng tôi biết được lý do thực sự khi mở cửa phòng: Bàn tọa bệ vệ của Boerhaave đang cưỡi lên con gấu cái đen trũi trên giường của tôi, ngay giữa lúc đang hành lạc! Lão già người Hà Lan khốn nạn ấy có xin lỗi tôi không? Không hề! Lão cho mình là bên bị hại & gầm lên, “Xéo đi, Gà Chọi! không ta đấm vỡ cái mũi Mỹ quốc của mi bây giờ, đ. mẹ!”

Tôi chộp lấy quyển nhật ký & chạy lập cập xuống cầu thang trong sự đắc chí & giễu cợt của những kẻ mọi rợ da trắng đang tụ tập ở dưới. Tôi phản đối với Walker rằng tôi trả tiền để thuê một phòng riêng & nghĩ rằng nó vẫn thuộc riêng tôi ngay cả khi tôi vắng mặt, nhưng tên khốn ấy chỉ đề nghị sẽ giảm giá một phần ba cho “mười lăm phút vui vẻ với em ngựa non đẹp nhất trong chuồng của tôi!” Kinh tởm, tôi nhắc lại rằng tôi đã có vợ & con! & rằng tôi thà chết cũng không đánh mất nhân phẩm & đức độ của mình với bất kì ả gái điếm mắc bệnh giang mai nào của hắn! Walker thề sẽ “trang điểm cho mắt tôi” nếu tôi còn gọi những cô con gái cưng của hắn là “gái điếm” lần nữa. Một con rắn sọc rụng hết răng chế giễu rằng nếu có vợ & con là một đạo đức thì, “Ô hay, ông Ewing này, tôi đạo đức hơn ông gấp mười lần đấy!” & một kẻ nào đó trút cả một vại rượu lên người tôi. Tôi bỏ đi trước khi họ thay rượu bằng một vật cứng hơn.

Chuông nhà thờ đang triệu hồi những kẻ kính sợ Chúa ở Vịnh Đại Dương & tôi vội vàng đến nơi Henry đang đợi, cố gắng quên đi cảnh bẩn thỉu vừa chứng kiến ở nhà trọ. Nhà thờ ọp ẹp như một thùng gỗ cũ & người đi lễ thì chỉ đếm được trên đầu ngón tay, nhưng ngay cả kẻ lữ hành được thỏa mãn cơn khát trên một ốc đảo sa mạc cũng không thể biết ơn hơn Henry & tôi khi cầu nguyện sáng hôm đó. Người sáng lập nhà thờ theo phái Luther đã yên nghỉ mười mùa đông qua trong nghĩa trang nhà thờ & chưa có người kế vị nào dám nhận lãnh vai trò của người chủ trì bệ thờ. Vì thế, giáo phái ở đây toàn xủng xoảng những tín điều Cơ đốc giáo. Chỉ một nửa số con chiên đi lễ biết chữ, họ đọc những đoạn Kinh thánh & chúng tôi tham gia hát một, hai bài thánh ca khi đến lượt. Người “phụng sự” đàn con chiên, một người tên là D’Arnoq, đứng dưới cây thập giá giản dị & nài nỉ Henry & tôi cũng hòa theo cách thức như họ. Nhớ lại mình đã thoát chết trong cơn bão tuần trước, tôi đề nghị đọc Phúc âm Luca chương 8: Các môn đệ lại gần đánh thức Người dậy và nói: “Thầy ơi, Thầy! Chúng ta chết mất!” Người thức dậy, ngăn đe sóng gió, sóng gió liền ngừng và biển lặng ngay.

Henry đọc Thi thiên số Tám, bằng giọng âm vang như một kịch sĩ thực thụ, Chúa ban cho người quyền cai trị công việc tay Chúa làm, khiến muôn vật phục dưới chơn người: Cả loài chiên, loài bò, đến đỗi các thú rừng, chim trời & cá biển & phàm vật gì lội đi trên các lối biển.

Chẳng có nhạc công dương cầm nào đánh bài Hồn tôi tôn dương Chúa ngoài tiếng gió rít trong ống khói, chẳng có dàn đồng ca nào hát Muôn lạy Chúa ngoài tiếng chim hải âu kêu gào, nhưng tôi nghĩ Đấng sáng tạo sẽ không phật ý. Chúng tôi gần với những tín đồ Cơ đốc giáo thời kì sơ khai của La Mã hơn bất kì Giáo hội nào sau này được bao phủ bằng bí mật & đá quý. Tiếp theo đó là cầu nguyện chung. Các giáo dân cầu cho vụ khoai tây khỏi dịch bệnh, lòng từ cho linh hồn một trẻ sơ sinh mới chết, ban phúc cho một chiếc tàu đánh cá mới, v.v. Henry tạ ơn vì lòng hiếu khách của những người Cơ đốc giáo trên đảo Chatham dành cho những kẻ mới đến như chúng tôi. Tôi lặp lại những cảm nghĩ này & gửi lời cầu nguyện đến Tilda, Jackson & nhạc phụ của tôi trong thời gian tôi vắng mặt kéo dài.

Sau buổi lễ, “trụ cột” chính của nhà thờ, một người xưng là Evans, lịch thiệp tiếp cận bác sĩ & tôi. Ông Evans giới thiệu Henry & tôi với phu nhân của ông ta (cả hai vợ chồng đều làm bộ lãng tai bằng cách chỉ trả lời những câu hỏi mà họ tin là được hỏi & chỉ chấp nhận những câu trả lời họ tin là được đưa ra – một mưu mà nhiều thầy cãi Mỹ quốc ưa dùng) & hai người con trai song sinh của họ, Keegan & Dyfedd. Ông Evans cho hay tuần nào cũng mời ông D’Arnoq, nhà truyền đạo của chúng tôi, đến ăn tối ở nhà mình gần đó, bởi ông D’Arnoq trú tận Port Hutt, một mũi đất xa nơi này đến vài dặm. Liệu chúng tôi có muốn cùng họ dùng bữa ăn tối Chúa nhật không? Đã báo với Henry về cảnh ô uế ở Musket & nghe tiếng “Nổi dậy!” réo trong dạ dày, chúng tôi nhận lời nhà Evans với lòng biết ơn.

Trang trại của chủ nhà nằm cách Vịnh Đại Dương nửa dặm trong một thung lũng quanh co lộng gió, là một tòa nhà đơn sơ nhưng chống chọi tốt trước bão tố phong ba từng đánh tan tành không biết bao nhiêu chiếc tàu vắn số ở những bãi đá ngầm gần đó. Phòng khách được trang trí bằng một cái thủ lợn khổng lồ (buồn thảm với cái miệng mở há & cặp mắt lờ đờ), do cặp song sinh săn được vào sinh nhật thứ mười sáu, & một chiếc đồng hồ quả lắc miên hành (lệch vài giờ so với đồng hồ bỏ túi của tôi. Kì thực, một trong những món nhập khẩu quý giá từ New Zealand chính là giờ giấc chính xác). Một thổ dân làm công ở trang trại nhìn trộm mấy vị khách của ông chủ từ sau khung cửa sổ. Không còn cảnh những kẻ nổi loạn ăn mặc rách rưới, nhưng ông Evans quả quyết rằng Barnabas, anh chàng có một phần tư máu da đen này, là “chú chó chăn cừu hai chân chạy nhanh nhất.” Keegan & Dyfedd là hai chàng trai thật thà như đếm, nói năng ngây ngô như cừu (gia đình này chăn hai trăm con), vì chưa bao giờ lên “Phố” (cách gọi của dân đảo về New Zealand) và cũng chẳng học qua trường lớp nào, ngoài những bài học Kinh thánh do cha dạy, nhờ đó mới biết đọc biết viết.

Bà Evans đọc lời cầu nguyện tạ ơn & tôi đã có một buổi ăn dễ chịu nhất (không đẫm muối, sâu bọ & tiếng chửi thề) kể từ buổi tiệc chia tay với Lãnh sự Bax & gia đình Partridge ở Beaumont. Ông D’Arnoq kể cho chúng tôi nghe chuyện về những con tàu mà ông ta đã cung ứng trong suốt mười năm cư ngụ trên đảo Chatham, còn Henry thì mua vui với những chuyện kể về bệnh nhân, cả sang lẫn hèn, mà ông đã chữa trị ở London và Polynesia. Về phần mình, tôi tả lại những gian truân của một công chứng viên Mỹ quốc để tìm ra người thừa kế ở Úc cho một bản di chúc lập ở California. Chúng tôi chén sạch món cừu hầm & bánh nhân táo với chút rượu do ông Evans nấu để mua bán với những tàu săn cá voi. Dùng bữa xong, Keegan & Dyfedd đi chăn bầy gia súc & bà Evans lui vào bếp. Henry hỏi bây giờ các hội truyền giáo còn hoạt động tích cực trên Chatham không, ông Evans & D’Arnoq nhìn nhau & ông Evans đáp, “Không, người Maori không thích Pakeha[2] chúng ta làm Moriori của họ hư hỏng vì lạm dụng văn minh.”

Tôi hỏi có căn bệnh gọi là “lạm dụng văn minh” hay sao? Ông D’Arnoq đáp, “Nếu phía tây của Mũi Sừng mà không có Thượng đế thì cũng chẳng có Mọi người sinh ra đều bình đẳng như hiến pháp của ông quy định đâu, ông Ewing ạ.” Những tên gọi như Maori & Pakeha thì tôi đã biết đến từ những ngày Prophetess neo đậu ở Vịnh Đa Đảo, nhưng tôi thắc mắc Moriori có nghĩa là gì. Câu hỏi của tôi đã mở ra chiếc hộp Pandora lịch sử, với đầy đủ chi tiết về sự suy tồn & diệt vong của bộ tộc thổ dân trên Chatham. Chúng tôi châm tẩu thuốc. Ba giờ sau đó, ông D’Arnoq vẫn đang kể chuyện say sưa không dứt dù đã đến lúc phải lên đường về Port Hutt trước khi không còn thấy đường về vì trời tối. Lịch sử qua lời kể của ông, theo tôi, có thể ngang tầm với văn phong của Defoe hoặc Melville [3] & tôi sẽ chép lại đây trên những trang giấy này, sau khi đánh một giấc theo ý Thần Ngủ.

Thứ Hai, ngày 11 tháng 11

Bình minh ẩm ương & mờ mịt. Từ xa xa vịnh hiện ra mờ ảo, nhưng thời tiết vẫn cho phép việc sửa chữa tiếp tục với tàu Prophetess, tôi thầm cám ơn Thần Biển. Trong lúc tôi viết nhật ký, một nóc cột buồm mới đang được kéo lên.

Không lâu sau, trong lúc Henry & tôi đang dùng điểm tâm, ông Evans hớt hải chạy đến, nài nỉ ông bạn bác sĩ của tôi đến khám cho một người hàng xóm sống một mình, bà góa Bryden, bị ngã từ lưng ngựa xuống bãi đá. Bà Evans đang có mặt ở đó và lo lắng cho mệnh hệ của bà góa. Henry cắp vali thầy thuốc & nhanh chóng lên đường. (Tôi đề nghị đi cùng, nhưng ông Evans nài nỉ tôi ở lại, vì bệnh nhân đã buộc ông phải hứa không ai ngoại trừ bác sĩ được phép nhìn thấy bà ta trong lúc hoạn nạn.) Nghe lời qua tiếng lại, Walker nói với tôi rằng chưa có một người đàn ông nào bước chân qua ngưỡng cửa nhà bà góa trong hai chục năm qua & quả quyết “mụ già lãnh cảm ấy hẳn là phải đau đớn lắm mới chịu để bác sĩ Quàng Quạc thăm khám.”

Nguồn gốc của người Moriori ở Rēkohu (từ địa phương để gọi Chatham) vẫn còn là ẩn số cho đến ngày nay. Ông Evans thì tin rằng tổ tiên của họ là những người Do Thái bị xua đuổi khỏi Tây Ban Nha, vì họ có mũi khoằm & môi vểnh. Còn giả thuyết của ông D’Arnoq, rằng người Moriori trước đây là những người Maori bị đắm tàu ở những hòn đảo xa xôi hẻo lánh nhất, thì dựa trên điểm giống nhau giữa ngôn ngữ & thần thoại & do đó có lý hơn. Chỉ biết chắc một điều là, sau nhiều thế kỉ hoặc thiên niên kỉ sống biệt lập, người Moriori có cuộc sống nguyên thủy chẳng khác gì những người anh em họ thiểu não ở xứ Van Diemen. Nghề đóng tàu (đòi hỏi nhiều kĩ thuật hơn so với những chiếc bè đan lát thô sơ dùng để băng qua kênh rạch trên các hòn đảo) & hàng hải đã trở nên vô dụng. Chuyện trên quả địa cầu này còn có những miền đất khác, in dấu chân người khác, là chuyện mà người Moriori không hề nghĩ đến. Kì thực, ngôn ngữ của họ không có từ để diễn tả “chủng tộc” & “Moriori” đơn giản có nghĩa là “Người”. Ngành chăn nuôi không tồn tại, vì chẳng có loài động vật hữu nhũ nào sống trên quần đảo này cho đến khi những chiếc tàu đánh cá voi chủ đích bỏ lợn lại đây để nhân giống. Ở tình trạng nguyên thủy, người Moriori sống bằng săn bắt hái lượm, mò cua bắt ốc, nhặt trứng chim, săn hải cẩu, vớt tảo biển & đào ấu trùng & củ rễ.

Đến thời điểm này, người Moriori vẫn chỉ là một biến thể địa phương của những thổ dân mặc váy lá dừa, khoác áo lông vũ tại những “điểm mù” ngày càng ít đi trên đại dương mà chưa được người da trắng phát hiện. Tuy nhiên, điểm độc đáo của Cựu Rēkohu nằm ở tín ngưỡng hòa bình độc nhất vô nhị của nó. Từ những ngày khai thiên lập địa, tầng lớp cúng tế Moriori đã răn dạy kẻ nào làm cho người khác đổ máu thì cũng giết chết mana – danh dự, nhân phẩm, địa vị & linh hồn của mình. Không một người Moriori nào chứa chấp, nuôi ăn, nói chuyện với, hay thậm chí nhìn mặt kẻ bị ruồng bỏ. Nếu kẻ sát nhân bị xua đuổi sống sót qua mùa đông đầu tiên, thì nỗi tuyệt vọng vì cô độc thường sẽ đưa gã đến một hố phun nước trên Mũi Trẻ, nơi gã tự kết liễu cuộc đời mình. Hãy xem xét yếu tố này, ông D’Arnoq bảo chúng tôi. Hai nghìn người mọi rợ (con số phỏng đoán của ông Evans) tuyên thệ thành lời Không ai được giết người & thực sự làm vậy & lập một “Hiến pháp” bằng lời để tạo ra một sự hòa hợp không có ở bất kì nơi nào khác trong suốt sáu mươi thế kỉ kể từ ngày Adam nếm trái Cây Thông Thái. Chiến tranh là một khái niệm xa lạ với người Moriori, cũng như kính viễn vọng là khái niệm xa lạ với người Pygmy vậy. Hòa bình, không phải một khoảng thời gian tạm nghỉ giữa các cuộc chiến, mà là những thiên niên kỉ thái bình bất diệt, thống trị những hòn đảo xa tít này. Ai có thể phủ nhận rằng xứ Cựu Rēkohu nằm gần với xã hội không tưởng của More[4] hơn các thể chế tiến bộ do những ông hoàng con thèm khát chiến tranh cai trị ở Versailles & Vienna, Washington & Westminster? “Đây,” ông D’Arnoq tuyên bố, “và chỉ có đây, mới có những cảnh không tưởng như thế, những con người mọi rợ quý tộc thượng lưu, bằng xương bằng thịt!” (Trên đường trở về Musket sau đó, Henry nhận xét, “Tôi không thể nào gọi một chủng tộc mọi rợ lạc hậu đến nỗi không biết ném lao thế nào cho thẳng là ‘quý tộc’ cả.”)

Thủy tinh & hòa bình đều để lộ đặc tính sự mong manh khi chịu những va chạm liên tiếp. Cú đánh đầu tiên vào người Moriori chính là quốc kỳ Anh, được Đại úy Broughton của tàu Hải quân Hoàng gia Anh mang tên Chatham cắm lên Vịnh Giao Tranh nhân danh Vua George cách nay năm mươi năm. Ba năm sau đó, phát hiện của Broughton được biết đến ở những công ty hàng hải ở Sydney & London & đã có lác đác những người định cư tự do (trong số đó có cụ thân sinh của ông Evans), những thủy thủ đắm tàu & “những tên tội phạm bất đồng với Văn Phòng Thuộc Địa New South Wales về thời gian giam giữ” bắt đầu thu hoạch bí ngô, hành tây, bắp ngô & cà rốt tại nơi đây. Họ bán những món này cho thợ săn hải cẩu, một cú đánh thứ hai vào độc lập tự chủ của người Moriori, bởi họ làm tan vỡ hy vọng thịnh vượng của người dân bản xứ khi nhuộm hồng nước biển với máu hải cẩu. (Ông D’Arnoq minh họa lợi nhuận bằng công thức – một tấm da hải cẩu bán được 15 shi-linh ở Quảng Châu & những người thợ săn tiên phong đó đã thu được hơn hai nghìn bộ da mỗi chuyến!) Chỉ trong vòng vài năm, loài hải cẩu chỉ còn tìm thấy ở những rặng đá xa bờ & cả những “thợ săn hải cẩu” cũng chuyển sang trồng khoai tây, nuôi cừu & lợn trên quy mô lớn đến nỗi Chatham được đặt tên là “Khu Vườn Thái Bình Dương.” Những nông dân mới phất này khai khẩn bằng cách đốt rừng, để lại tàn lửa âm ỉ dưới lớp than bùn qua nhiều mùa, biểu hiện qua những đợt hạn hán gieo rắc thêm tai ương mới.

Cú đánh thứ ba vào người Moriori là những thợ săn cá voi, giờ tấp nập ghé vào Vịnh Đại Dương, Waitangi, Owenga & Te Whakaru với số lượng lớn để tìm việc, sửa tàu & nghỉ ngơi. Mèo & chuột trên tàu săn cá voi sinh sôi nảy nở như Dịch hạch Ai Cập & ăn hết những con chim làm tổ trong hang, trứng của loài chim này là nguồn thức ăn quý của người Moriori. Thứ tư, những dịch bệnh tạp nham tiêu diệt các chủng tộc có màu da sậm hơn mỗi khi nền văn minh Da trắng tiến đến gần, càng khiến dân số người bản xứ suy giảm.

Những bất hạnh này người Moriori vẫn có thể gánh chịu được, thế nhưng tin tức đã truyền đến Tân Tây Lan, mô tả Chatham như một xứ Canaan[5] có thật với những đầm phá đầy ắp cá tôm & cư dân chẳng biết gì về chiến đấu hay vũ khí. Với Ngati Tama & Ngati Mutunga, hai bộ lạc Maori thuộc bộ tộc Te Ati Awa ở Taranaki (ông D’Arnoq quả quyết với chúng tôi rằng phả hệ của người Maori cũng chi chít như những cây phả hệ mà giới quý tộc châu Âu vốn tôn kính; kì thực, bất kì bé trai nào của chủng tộc mù chữ ấy đều có thể gọi đúng tên của ông cụ ông kỵ & “thứ hạng” tổ tiên trong nháy mắt), những tin đồn này hứa hẹn sẽ bù đắp cho đất đai tổ tiên của họ bị mất trong các “Cuộc Chiến Hỏa Mai”[6] trước đó. Gián điệp được cử đến để thăm dò tính khí của người Moriori bằng cách vi phạm những điều cấm kỵ & cướp bóc các thánh tích. Người Moriori đối mặt với sự khiêu khích này như Chúa của chúng ta đã dạy, bằng cách “chìa má bên kia ra”, & những kẻ vi phạm trở về Tân Tây Lan để xác nhận rằng người Moriori rất nhu nhược. Những kẻ chinh phạt Maori với hình xăm đầy mình tìm ra đội tàu của Thuyền trưởng Harewood, chỉ huy của chiếc tàu hai buồm Rodney. Vào những tháng cuối năm 1835, Harewood đã đồng ý chở chín trăm người Maori & bảy chiếc xuồng chiến trên hai chuyến tàu, để đổi lấy khoai tây giống, vũ khí, lợn, một lượng lớn sợi lanh & một súng đại bác. (Cách đây năm năm, ông D’Arnoq đã gặp Harewood, nghèo kiết xác trong một quán rượu ở Vịnh Đa Đảo. Thoạt tiên ông ta phủ nhận mình là thuyền trưởng Harewood của tàu Rodney, sau đó lại thề rằng mình đã bị dụ dỗ để làm việc đó.)

Rodney khởi hành từ cảng Nicholas vào tháng 11, nhưng kiện hàng gồm năm trăm người đàn ông, đàn bà & trẻ con, nhét chặt như cá hộp trong suốt hành trình sáu ngày, chen chúc trong mùi hôi & say sóng & thiếu thốn thứ cơ bản nhất là nước, đã thả neo tại lạch Whangatete trong tình trạng thê thảm đến nỗi, nếu muốn, người Moriori đã có thể tiêu diệt những người anh em chiến binh của họ. Những người bản xứ hào hiệp đã chọn cách chia sẻ tài nguyên đang cạn kiệt của Rēkohu thay vì đánh mất mana bằng cách làm đổ máu & chăm sóc những người Maori ốm đau & hấp hối cho đến khi họ khỏe mạnh trở lại. “Người Maori trước đó từng đến Rēkohu rồi,” ông D’Arnoq giải thích, “nhưng sau đó lại đi, nên người Moriori cứ đinh ninh những kẻ thực dân này cũng sẽ ra đi trong hòa bình.”

Lòng quảng đại của người Moriori đã được tưởng thưởng khi thuyền trưởng Harewood trở lại từ Tân Tây Lan với thêm bốn trăm người Maori nữa. Lúc này những người lạ bắt đầu chiếm Chatham theo takahi, một tục lệ của người Maori dịch thành “Đi lên đất nào thì sở hữu đất ấy.” Và như thế Cựu Rēkohu đã bị chia năm xẻ bảy & người Moriori được thông báo từ nay họ đã trở thành chư hầu của người Maori. Vào đầu tháng 12, một số người bản xứ phản kháng đã bị trảm bằng rìu. Người Maori chứng tỏ họ là những học trò xuất sắc của người Anh trong “nghệ thuật thực dân hóa.”

Đảo Chatham bao quanh một phá nước mặn rộng lớn ở phía đông, tên là Te Whanga, gần giống như biển trong đất liền nhưng được bồi đắp bằng đại dương khi thủy triều lên thông qua “miệng” phá ở Te Awapatiki. Mười bốn năm trước, người Moriori đã tổ chức một nghị viện trên mảnh đất thiêng đó. Nghị viện kéo dài ba ngày, với mục tiêu tìm lời đáp cho câu hỏi: Liệu làm cho người Maori đổ máu có hủy hoại mana không? Các thanh niên lập luận rằng tín ngưỡng Hòa bình không bao hàm những kẻ ăn thịt người ngoại quốc mà tổ tiên họ chẳng hề biết đến. Người Moriori phải giết người nếu không muốn bị giết. Các bậc cao niên thì kêu gọi kiềm chế, vì chừng nào người Moriori còn gìn giữ mana với đất đai của họ, thì các thánh thần & tổ tiên sẽ giúp đưa chủng tộc này thoát khỏi tai ương. Các bậc cao niên dạy dỗ, “Hãy ôm kẻ thù của mình, để họ không tấn công ta.”(Henry nhạo thành, “Hãy ôm kẻ thù của mình, để thấy dao găm của hắn thọc vào thận ta.”)

Những bậc cao niên đã thắng thế ngày hôm đó, nhưng điều này chẳng có ý nghĩa gì. “Dù không giành thế thượng phong về quân số,” ông D’Arnoq nhận định, “nhưng người Maori lại tận dụng lợi thế là kẻ tấn công đầu tiên & mạnh nhất, như nhiều người Anh & Pháp vắn số có thể xác nhận từ đáy mồ.” Bộ lạc Ngati Tama & Ngati Mutunga đã lập ra những hội đồng riêng. Trở về sau buổi họp nghị viện, người Moriori bị mai phục & trải qua một đêm tồi tệ hơn cả ác mộng, bị tàn sát, làng mạc bị đốt, cướp bóc, đàn ông & đàn bà bị đóng cọc xuyên qua người thành hàng trên bãi biển, trẻ con trốn trong hang hốc, bị chó săn đánh hơi & xé xác. Một vài tộc trưởng biết tính toán đến mai sau & chỉ sát hại vừa đủ để những người còn lại biết sợ mà phục tùng. Những tộc trưởng khác thì không kiềm chế như vậy. Trên bãi biển Waitangi, năm mươi người Moriori đã bị chặt đầu, lóc thịt, gói bằng lá cây lanh rồi nướng trong một lò nướng bằng đất khổng lồ cùng khoai sắn. Trong số những người Moriori được nhìn thấy hoàng hôn cuối cùng của Cựu Rēkohu, chưa đến một nửa còn sống để thấy bình minh đầu tiên của Maori. (“Hiện nay có chưa tới một trăm người Moriori thuần chủng còn sống,” ông D’Arnoq cảm thán, “Trên giấy tờ Vương triều Anh Quốc đã giải phóng những con người này khỏi ách nô lệ nhiều năm trước, nhưng người Maori chẳng quan tâm gì đến giấy tờ. Từ đây đến Dinh Thống đốc mất một tuần đi tàu & Nữ hoàng không cử quân đồn trú trên Chatham.”)

Tôi hỏi, tại sao người da trắng không ngăn chặn người Maori trong cuộc thảm sát đó?

Ông Evans không còn ngủ nữa & không đến nỗi nặng tai như tôi tưởng. “Ông có bao giờ thấy các chiến binh Maori trong cơn khát máu chưa, ông Ewing?”

Tôi trả lời chưa.

“Nhưng ông đã nhìn thấy cá mập trong cơn khát máu rồi, phải không?”

Tôi đáp mình đã thấy.

“Gần giống như vậy. Hãy tưởng tượng một bắp chân chảy máu nhúng xuống vùng nước có nhiều cá mập. Phải làm gì – tránh xa vùng nước đó hay cố gắng ngăn chặn bầy cá mập? Đó là lựa chọn của chúng tôi. Cơ mà, chúng tôi cũng giúp một số ít những người tìm đến chúng tôi đấy chứ – gã chăn cừu Barnabas của chúng tôi là một trong số đó – nhưng nếu chúng tôi bước ra ngoài đêm hôm đó thì giờ đây chúng tôi đâu còn ngồi đây nữa. Hãy nhớ, có chưa đến năm mươi người da trắng trên Chatham vào lúc đó. Có tổng cộng chín trăm người Maori. Người Maori phục tùng Pakeha, nhưng họ căm ghét chúng ta, ông Ewing ạ. Đừng bao giờ quên điều đó.” Chân lý rút ra là gì? Hòa bình, dù với tình yêu của Chúa, là một giá trị cốt lõi chỉ khi nào láng giềng có cùng lương tâm với ta.