- 7 - Lâu đài Zedelghem,-29 – viii – 1931.-Sixsmith,
Đang mặc áo choàng trong nhà và ngồi ở bàn viết. Chuông nhà thờ điểm năm tiếng. Lại một bình minh khát cháy nữa. Nến trong phòng đã tàn hết. Một đêm rã rời đang lộn từ trong ra ngoài. J. đến giường tôi đêm qua, và trong quá trình vận động của chúng tôi, cửa phòng bị gõ mạnh. Hoảng sợ đến nực cười! Tạ ơn Chúa J. đã khóa cửa sau khi vào phòng. Nắm cửa rung lắc, tiếng gõ cửa liên hồi vang lên. Nỗi sợ có thể làm cho tâm trí tỉnh táo lẫn mù mịt, và, nhớ đến Don Juan, tôi giấu J. dưới đống chăn gối ga trên giường, kéo rèm một nửa để cho thấy chẳng có gì để giấu giếm. Tôi luống cuống chạy đến cửa, không tin nổi chuyện này lại đang xảy ra với mình, cố tình va vào hết món nọ đến món kia để kéo dài thời gian, đến cánh cửa, hỏi vọng ra, “Có chuyện quái quỷ gì đấy? Cháy nhà à?”
“Mở cửa ra, Robert!” Là Ayrs! Anh có thể tưởng tượng, tôi đã chuẩn bị né những viên đạn. Tuyệt vọng, tôi hỏi mấy giờ rồi, chỉ để kéo dài thêm một khoảnh khắc.
“Ai thèm bận tâm? Tôi không biết! Tôi có một giai điệu, chàng trai ạ, dành cho vĩ cầm, nó là một tuyệt tác, và nó không chịu để tôi ngủ yên, nên tôi cần cậu chép lại, ngay bây giờ!”
Tôi có thể tin lão không? “Không đợi đến sáng được à?”
“Không, tuyệt đối không được, Frobisher ạ! Tôi có thể làm mất nó!” Sao chúng ta không đến phòng âm nhạc?
“Như thế sẽ đánh thức cả ngôi nhà và, không được, từng nốt đã đâu ra đấy rồi, trong đầu tôi đây này!” Thế là tôi bảo lão đợi trong lúc tôi thắp nến. Mở cửa ra, thấy Ayrs đang đứng đấy, mỗi tay cầm một cây gậy, trông như xác ướp trong bộ đồ ngủ màu ánh trăng. Hendrick đứng phía sau lão, im lặng và dò xét như một totem của người da đỏ. “Tránh đường, tránh đường!” Ayrs đẩy tôi qua để đi vào. “Tìm bút đi, lấy vài tờ giấy ký âm, mở đèn lên, nhanh nào. Cậu khóa cửa làm quái gì trong khi mở cửa sổ hử? Quân Phổ chết rồi, hồn ma của chúng sẽ chỉ cần chui qua khe cửa thôi.” Bịa đôi ba câu về việc không ngủ được trong phòng không khóa cửa, nhưng lão chẳng buồn nghe. “Cậu có giấy chép nhạc ở đây chưa, có cần tôi bảo Hendrick đi lấy không?”
Cảm giác nhẹ nhõm vì V.A. không đến để bắt quả tang tôi đang tằng tịu với vợ lão khiến cho sự đòi hỏi quá đáng của lão trở nên đỡ lố bịch hơn, nên được thôi, tôi đáp, vâng, tôi có giấy, tôi có bút, chúng ta hãy bắt đầu. Mắt của Ayrs rất kém không thể thấy gì khả nghi trong đống lùng nhùng ở chân giường tôi, nhưng Hendrick vẫn còn là một mối nguy hiểm tiềm ẩn. Nên tránh lệ thuộc vào sự toàn quyền quyết định của người hầu. Sau khi Hendrick đỡ ông chủ đến ghế và khoác chăn quanh vai lão, tôi bảo hắn tôi sẽ gọi khi chúng tôi xong việc. Ayrs không phản đối – lão đã bắt đầu ngân nga giai điệu. Một tia mưu mô lóe lên trong mắt H.? Phòng quá tối nên không chắc lắm. Gã người hầu khẽ cúi chào, lướt ra khỏi phòng như chân có lắp bánh bôi dầu, rồi nhẹ nhàng đóng cửa lại.
Vã một ít nước lên mặt tại thau rửa rồi ngồi đối diện với Ayrs, lo lắng J. có thể quên rằng sàn nhà kêu cót két và tìm cách nhón chân lẻn ra ngoài. “Sẵn sàng.”
Ayrs ngân nga bản sonata, từng nhịp một, rồi đọc tên các nốt nhạc. Sự kì quặc của tiểu khúc này nhanh chóng hút hồn tôi, dù trong tình cảnh như thế. Nó là một thứ âm nhạc bấp bênh, tuần hoàn, trong vắt như pha lê. Lão kết thúc sau nhịp thứ 96 và bảo tôi ghi chú lên bản chép nhạc thể loại triste. Sau đó lão hỏi tôi, “Thế cậu nghĩ sao?”
“Không biết nữa,” tôi đáp. “Không giống ông chút nào. Không giống ai cả. Nhưng nó thật mê hoặc.”
Ayrs lúc này đang khom lưng trước một bức tranh sơn dầu phong cách Tiền-Raphael tiêu đề Behold the Sated Muse Discards Her Puppet. Tiếng chim hót phập phồng trong vườn trước bình minh. Nghĩ đến những đường cong của J. trên giường, cách đấy chỉ vài mét, thậm chí cảm thấy tâm trạng hồi hộp mất kiên nhẫn đầy nguy hiểm đối với bà ta. V.A. lần đầu tiên tỏ ra không chắc chắn về bản thân. “Tôi mơ thấy một... quán café kinh dị, sáng choang, nhưng nằm dưới mặt đất, không có lối ra. Lúc ấy tôi đã chết lâu lắm rồi. Tất cả nữ phục vụ đều có khuôn mặt giống nhau. Thức ăn là xà phòng, nước uống duy nhất là những cốc bọt. Âm nhạc trong quán là,” lão phẩy một ngón tay rã rời vào giấy chép nhạc, “cái này.” Rung chuông gọi H. Muốn Ayrs rời khỏi phòng trước khi ánh mặt trời tố cáo vợ của lão đang nằm trên giường tôi. Một phút sau, H. gõ cửa. Ayrs đứng dậy rồi ngả về trước – lão ghét bị người khác nhìn thấy lão cần được trợ giúp. “Làm tốt lắm, Frobisher.” Giọng lão vọng lên từ cuối hành lang. Tôi đóng cửa và thở một hơi nhẹ nhõm rõ to. Leo lên giường trở lại để con cá sấu ẩn nấp trong vũng lầy chăn ga gối cắm những chiếc răng bé nhỏ vào con mồi trẻ của bà ta.
Chúng tôi vừa dành cho nhau nụ hôn chia tay xa xỉ thì, mẹ kiếp, cửa lại mở ra. “Còn điều này nữa, Frobisher!” Trời đất thánh thần thiên địa ơi, tôi quên khóa cửa! Ayrs tiến đến giường tôi như xác tàu Hesperus. J. chui xuống ga giường trong khi tôi bật ra mấy tiếng bất ngờ, hốt hoảng. Tạ ơn Chúa, Hendrick đang đợi bên ngoài – tình cờ hay chủ ý? V.A. lần đến cuối giường tôi, rồi ngồi xuống, chỉ cách J. vài centimet. Nếu bây giờ mà J. hắt hơi hoặc ho thì ngay cả lão Ayrs mù lòa cũng sẽ biết. “Một vấn đề tế nhị, nên tôi cứ nói luôn cho rồi. Jocasta. Bà ta không được chung thủy cho lắm. Ý tôi là về mặt hôn nhân ấy. Bạn bè bóng gió với tôi về sự vô ý của bà ta, kẻ thù thì báo với tôi về những chuyện ngoại tình. Bà ấy có bao giờ... đối với cậu... cậu biết ý tôi là gì chứ?”
Để cho giọng mình đanh lại, đầy bản lĩnh. “Không, thưa ông, tôi cho là tôi không hiểu ý ông.”
“Đừng e ngại nữa, chàng trai!” Ayrs chồm đến sát hơn. “Vợ tôi có bao giờ tiến tới chưa? Tôi có quyền được biết!”
Tránh một tiếng cười hồi hộp trong tích tắc. “Tôi thấy câu hỏi của ông thật không chấp nhận nổi.” Hơi thở của Jocasta làm đùi tôi ẩm ướt. Bà ta hẳn đã bị nướng chín dưới lớp ga giường. “Tôi sẽ không gọi những kẻ tung tin đồn nhảm như thế là ‘bạn’ đâu. Trong trường hợp của bà Crommelynck, thành thật mà nói, tôi chưa hề nghĩ đến việc ấy, mà cũng không thấy thoải mái gì. Nếu, nếu, thông qua một vài, tôi không biết gọi là gì nữa, cơn suy sụp tinh thần, mà bà nhà từng có ý hành xử không đúng đắn như thế, thì, ừm, thật lòng, thưa ông Ayrs, có lẽ tôi sẽ xin lời khuyên của Dhondt, hoặc nói chuyện với Bác sĩ Erget.” Sự ngụy biện tạo ra một màn khói mỏng.
“Vậy là cậu sẽ không cho tôi câu trả lời chỉ một từ?”
“Ông có câu trả lời với hai từ. ‘Dứt khoát, không!’ Và tôi rất hi vọng rằng chủ đề này khép lại ở đây.”
Ayrs để cho những khoảnh khắc dài trôi đi. “Cậu còn trẻ, Frobisher à, cậu giàu có, cậu có đầu óc, và cậu chắc chắn không phải là một kẻ không biết lý lẽ. Tôi không hiểu tại sao cậu ở lại đây.”
Tốt. Lão đang làm bộ sướt mướt. “Vì ông là Verlaine của tôi.”
“Phải không, chàng Rimbaud trẻ tuổi[25]? Vậy thì ‘saison en enfer’ của cậu đâu?”
“Trong các phác thảo, trong đầu tôi, trong ruột tôi, ông Ayrs ạ. Trong tương lai của tôi.”
Không biết Ayrs cảm thấy thế nào, buồn cười, thương hại, hoài niệm hay khinh bỉ. Lão bỏ đi. Khóa cửa và leo lên giường lần thứ ba trong đêm. Chuyện hài chốn phòng the khi thực sự xảy ra thì buồn vô hạn. Jocasta có vẻ giận tôi. “Chuyện gì?” tôi cáu.
“Chồng tôi yêu anh rồi,” người vợ nói trong lúc mặc quần áo.
Zedelghem đang xao động. Tiếng máy bơm ồn ào như những bà cô già. Nghĩ đến ông nội, người có gene thông minh ương ngạnh bị thất lạc ở thế hệ ông bô. Có lần, ông nội cho tôi xem bản khắc hình một ngôi chùa xứ Xiêm La. Không nhớ nó tên gì, nhưng kể từ ngày một đệ tử của Phật thuyết pháp ở nơi này nhiều thế kỉ trước, thì tất cả những tướng cướp, bạo chúa và hoàng thân của vương quốc đó đã xây đắp lên đó cơ man nào là tháp ngà, vườn thượng uyển, mái vòm dát vàng, tranh tường dài rộng, cẩn ngọc vào mắt những bức tượng. Tương truyền rằng chừng nào ngôi chùa cuối cùng trông giống được như ngôi chùa ở Cực lạc thì ngày đó loài người sẽ làm tròn bổn phận và Thời gian sẽ ngừng trôi.
Tôi nhận ra, với những người như Ayrs, ngôi chùa này chính là nền văn minh. Quần chúng, nô lệ, nông dân và binh lính tồn tại trong những kẽ hốc của phiến đá lát đường cho văn minh, không hay biết gì về chính sự vô minh của họ. Khác với họ, những chính khách, nhà khoa học, nghệ sĩ và, quan trọng hơn hết, những nhà soạn nhạc của thời đại, bất kỳ thời đại nào, là những kiến trúc sư, thợ xây và giáo sĩ của nền văn minh đó. Ayrs xem vai trò của chúng tôi là làm cho nền văn minh trở nên rực rỡ hơn. Mơ ước sâu sắc nhất, hay duy nhất, của ông chủ tôi là tạo ra một tháp ngà giáo đường để cho những hậu duệ của tiến bộ nhân loại một nghìn năm sau phải chỉ tay và thốt lên, “Nhìn đi, Vyvyan Ayrs kìa!”
Thật tầm thường, sự thèm khát bất tử ấy, thật phù phiếm, thật sai lầm. Nhà soạn nhạc chỉ là những kẻ vẽ tranh nguệch ngoạc lên vách hang động. Người ta viết nhạc chỉ vì mùa đông dài bất tận và bởi vì nếu không viết, lang sói và bão tuyết sẽ kề bên cổ họng ta bất kỳ lúc nào.
Thân mến,
R.F.