← Quay lại trang sách

- 8 - Lâu đài Zedelghem,-14 – ix – 1931.-Sixsmith,

Ngài Edward Elgar[26] đến dùng trà chiều nay. Ngay cả anh cũng đã nghe nói đến ông ta đấy, chàng ngốc ạ. Thường khi có ai hỏi Ayrs nghĩ gì về âm nhạc Anh, lão sẽ đáp, “Âm nhạc nào của Anh? Làm gì có! Từ thời Purcell!” rồi sưng sỉa cả ngày, như thể cuộc Cải cách là chuyện riêng của ai. Thái độ khiêu khích này đã bị quên lãng trong tích tắc khi Ngài Edward gọi điện từ khách sạn ở Bruges sáng nay để hỏi xem Ayrs có thể dành cho ông ấy một, hai giờ không. Ayrs bộc lộ hết thói cộc cằn thô lỗ, nhưng tôi có thể nhận ra qua cách lão quở mắng bà Willems về việc sắp xếp tiệc trà, lão đang rất mãn nguyện như con mèo được xơi kem sữa. Vị khách lừng danh của chúng tôi đến lúc hai giờ rưỡi, khoác một chiếc áo choàng Inverness màu lục dù tiết trời khá mát mẻ. Tình trạng sức khỏe của ông ta cũng chẳng khá hơn V.A. là bao. J. & tôi chào đón ông ta ở bậc tam cấp dẫn vào Zedelghem. “Vậy cậu đây là đôi mắt mới của Vyv, phải không?” ông ta hỏi tôi, trong lúc chúng tôi bắt tay. Nói tôi đã thấy ông ta chỉ huy dàn nhạc vài chục lần tại các lễ hội, điều đó làm ông ta vui lòng. Dẫn nhà soạn nhạc vào Phòng đỏ, nơi Ayrs đang đợi. Họ chào nhau đầy thân ái, nhưng cẩn trọng như thể sợ làm đau lẫn nhau. Chứng đau hông của Elgar khiến ông ta không thoải mái, và ngay cả trong những ngày đỡ hơn, V.A. trông vẫn khá đáng sợ khi thoạt nhìn, và trông còn tệ hơn khi nhìn kỹ. Trà được dọn lên và họ nói chuyện nghề với nhau, gần như bỏ mặc J. & tôi, nhưng thật tuyệt khi làm con ruồi trên tường. Ngài E. thỉnh thoảng có đưa mắt nhìn chúng tôi để đảm bảo mình đang không làm chủ nhà mỏi mệt. “Không hề.” Chúng tôi mỉm cười đáp lại. Họ giao đãi quanh những đề tài như kèn saxophone trong dàn nhạc giao hưởng, Webern là Fraudster hay Messiah, sự đỡ đầu và chính trị trong âm nhạc. Ngài E. tuyên bố đang thực hiện một bản Giao hưởng thứ ba sau thời gian dài ngủ đông: - ông ta còn diễn ngay cho chúng tôi bản sơ thảo của một molto maestoso và một allegretto. Ayrs cũng rất hào hứng chứng tỏ lão chưa sẵn sàng chui vào quan tài, và bảo tôi biểu diễn một số phác thảo cho dương cầm vừa hoàn thiện gần đây – khá đáng yêu. Sau khi uống hết vài chai bia Trappist, tôi hỏi Elgar về Pomp & Circumstance Marches. “Ô, tôi cần tiền, chàng trai ạ. Nhưng đừng cho ai biết nhé. Đức Vua có thể muốn lấy lại danh hiệu tòng nam tước của tôi đấy.” Ayrs cười sặc sụa khi nghe điều này! “Tôi luôn bảo, Ted, để làm cho đám đông ca tụng, đầu tiên cậu phải tiến vào thành phố trên lưng lừa. Lý tưởng nhất là đi lùi, trong khi nói với quần chúng những chuyện mà họ muốn nghe.”

Ngài E. đã nghe nói về sự đón nhận dành cho “Todtenvogel” ở Cracow (có vẻ như toàn thể London đã nghe thấy), nên V.A. bảo tôi đi tìm bản ký âm. Trở lại Phòng màu đỏ, vị khách đem Con chim chết của chúng tôi đến bệ cửa sổ để đọc với sự giúp đỡ của chiếc kính một mắt trong khi Ayrs và tôi giả vờ bận bịu việc riêng. “Ayrs này, một người ở thời đại của chúng ta,” cuối cùng E. cũng lên tiếng, “không có quyền đưa ra những ý tưởng táo bạo thế này. Ông lấy chúng từ đâu?” V.A. xù lên đầy tự mãn. “Tôi cho rằng mình hãy còn một, hai đạo quân hậu tập trong cuộc chiến chống tuổi già sức yếu của mình. Chàng trai Robert đây chứng tỏ là một sĩ quan phụ tá đắc lực cho tôi đấy.” Sĩ quan phụ tá? Tôi mới là tướng quân còn lão chỉ là lão già người Thổ đang ôm mộng về thời vàng son đã mất! Mỉm cười ra vẻ đáng yêu hết sức có thể (như thể mái nhà che thân tôi phụ thuộc vào nó. Hơn nữa, biết đâu một ngày nào đó ngài E. sẽ trở nên có ích nên chẳng dại gì gây ấn tượng là kẻ phá bĩnh.) Trong suốt bữa trà, Elgar nêu lên sự tương phản giữa vị trí của tôi ở Zedelghem với công việc đầu tiên của ông ta khi làm giám đốc âm nhạc tại một nhà thương điên ở Worcestershire[27]. “Sự chuẩn bị tuyệt vời cho công việc chỉ huy dàn nhạc Philharmonic London, phải không nhỉ?” V.A. ra đòn. Chúng tôi cùng cười và tôi tha thứ một nửa cho lão già ba hoa ích kỷ vì sống thật với lòng. Cho thêm một, hai khúc củi vào lò sưởi. Trong ánh lửa mờ khói, hai lão già ngủ gà gật như hai vị vua cổ đại đang trải qua các niên đại trong nấm mồ. Ghi chú âm nhạc về tiếng ngáy của họ. Tiếng của Elgar nên được chơi bằng kèn tuba bass, còn Ayrs thì kèn bassoon. Tôi sẽ làm thế với Fred Delius và John Mackerras rồi xuất bản tất cả trong một tác phẩm nhan đề Bảo tàng ngầm của những xác nhồi thuộc triều đại Edward.

Ba ngày sau.

Vừa về nhà sau một chuyến tản bộ khoan thai với V.A. trên Con đường Tu sĩ đến nhà người gác cổng. Tôi đẩy xe lăn cho lão. Tối nay cảnh vật r. thoáng đãng; lá thu bay lượn thành những vòng xoắn ốc vội vã, tựa như V.A. là nhà giả kim còn tôi là người học việc của lão vậy. Những cái bóng dài của hàng bạch dương đổ ngang bãi cỏ tỉa tót. Ayrs muốn tiết lộ những ý tưởng cho một tuyệt tác hòa âm cuối cùng, sẽ được đặt tên là Luân hồi vĩnh cửu để tưởng nhớ đến Nietzsche mà ông ta vốn ưu ái. Một số đoạn nhạc sẽ được trích từ vở opera viết dở dựa trên tác phẩmHòn đảo của bác sĩ Moreau mà việc sản xuất ở Vienna bị hủy do chiến tranh, một số đoạn nhạc V.A. tin rằng sẽ “đến” với lão, và xương sống của tác phẩm này sẽ là bản “nhạc trong mơ” mà lão đọc cho tôi trong phòng vào cái đêm sởn tóc gáy tháng trước, tôi kể với anh về chuyện đó. V.A. muốn tác phẩm có bốn phần, một đội hợp xướng nữ, và một dàn nhạc lớn chơi toàn nhạc cụ hơi theo phong cách Ayrs. Thật sự, một công trình đồ sộ. Muốn tôi ở lại thêm nửa năm nữa. Nói tôi sẽ suy nghĩ về chuyện này. Lão nói sẽ tăng lương cho tôi, thật là một lão già huỵch toẹt và xảo quyệt. Nhắc lại, tôi cần thời gian. V.A. rất bực bội vì tôi không đưa ra câu trả lời ‘Được!” ngay lúc đó – nhưng tôi muốn lão già sâu bọ này phải thừa nhận rằng lão cần tôi hơn là tôi cần lão.

Thân mến,

R.F.

Lâu đài Zedelghem,

28 – ix – 1931.

Sixsmith,

J. ngày càng tỏ ra r. phiền toái. Sau khi làm tình, bà ta nằm xã xoài trên giường như một thứ quái thai và hỏi về những người đàn bà mà tôi đã chạm cung tơ. Giờ thì bà ta tìm cách khiêu khích để moi cho ra những cái tên, những câu đại loại, “Ô, tôi đoán là Frederica dạy anh chiêu đó phải không?” (Bà ta vuốt vết chàm trên hõm vai tôi, vết chàm mà anh nói là giống hình sao chổi ấy – không thể chịu nổi người đàn bà vờn vỗ da tôi.) J. gây ra những chuyện cãi vã nhỏ nhặt để tôi phải làm lành và rồi, một cách đầy lo lắng, bắt đầu để những bi kịch ánh trăng len lỏi vào đời sống ban ngày. Ayrs không thấy gì khác ngoài Luân hồi vĩnh cửu, nhưng Eva sắp quay lại sau mười ngày nữa và sinh vật có đôi mắt diều hâu ấy sẽ đánh hơi ra một bí mật đang bốc mùi chỉ trong tích tắc.

J. nghĩ rằng thỏa thuận công việc mới giúp bà ta buộc chặt tương lai của tôi vào Zedelghem hơn – bà ta nói, nửa đùa, nửa nghiêm túc, rằng bà ta sẽ không để tôi “bỏ rơi” bà ta hoặc chồng, vào lúc “họ” cần tôi. Cái ác nằm trong những đại từ như thế, Sixsmith ạ. Tệ hại nhất là, bà ta đã bắt đầu nói tiếng “Y” với tôi rồi, và muốn nghe tôi đáp lại. Người đàn bà này bị làm sao vậy? Bà ta gần gấp đôi tuổi tôi cơ mà! Bà ta muốn gì? Trấn an bà ta rằng tôi chưa từng yêu ai ngoài bản thân và không có ý định bắt đầu yêu ai lúc này, nhất là với vợ người khác, và nhất là khi người đó có thể hủy hoại tên tuổi tôi trong xã hội âm nhạc châu Âu chỉ bằng cách viết năm, sáu lá thư. Vì vậy, tất nhiên, người đàn bà giở chiêu trò riêng, úp mặt vào gối khóc lóc, cáo buộc tôi “lợi dụng” bà ta. Tôi đồng ý, tất nhiên là tôi đã “lợi dụng” bà ta, cũng như bà ta “lợi dụng” tôi vậy thôi. Đó chính là thỏa thuận. Nếu bà ta không còn vui vẻ với điều đó nữa, thì bà ta chẳng phải là tù nhân của tôi. Thế là bà ta tức tối bỏ đi, dỗi được vài ngày, cho đến khi con cừu cái già lại đói cồn cào trước con cừu đực trẻ, và bà ta quay lại, gọi tôi là chàng trai yêu quý, cám ơn tôi vì đã “đem âm nhạc trở lại cho Vyvyan”, và cái vòng lẩn quẩn ngu ngốc lại bắt đầu trở lại. Tôi tự hỏi trước đây bà ta có tìm đến Hendrick hay không? Với người đàn bà này thì điều gì cũng có thể. Nếu một bác sĩ người Áo tài năng bổ đầu bà ta ra, thì cả một tổ ong loạn trí sẽ tràn ra. Nếu biết bà ta bất ổn thế này thì tôi đã không bao giờ để cho bà ta lên giường mình trong đêm đầu tiên ấy. Kiểu ái ân với bà ta chẳng có gì vui. Không, là tàn bạo mới đúng.

Đã đồng ý với lời đề nghị của V.A. là tôi sẽ ở lại đến mùa hè năm sau, ít nhất là thế. Không có tiếng vọng vũ trụ nào ảnh hưởng đến quyết định của tôi – chỉ là lợi ích nghệ thuật, thực tế tài chính, và vì J. có thể suy sụp nếu tôi đi. Những hậu quả mà chuyện đó đem lại sẽ không tốt chút nào.

Sau đó, cùng ngày

Người làm vườn sau khi gom đốt lá khô vừa trở về phòng. Hơi nóng trên mặt, trên tay, làn khói buồn, đám lửa lách tách khò khè. Gợi nhớ đến túp lều của người quản sân ở Gresham. Tóm lại, nghĩ ra được một đoạn tuyệt vời nhờ đám lửa – trống cho tiếng lách tách, alto bassoon cho gỗ, và tiếng sáo phiêu linh cho ánh lửa. Đã chuyển thể nó xong ngay lúc này. Không khí trong lâu đài ẩm ương như quần áo không chịu khô. Tiếng cửa đóng sầm dọc các lối đi. Mùa thu đang để lại sự dịu ngọt sau lưng để chuyển sang giai đoạn châm chích, mục nát. Không nhớ mùa hạ có từng nói lời tạm biệt.

Thân mến,

R.F.