← Quay lại trang sách

Khổ nạn của Timothy Cavendish

Vào một buổi hoàng hôn rực rỡ, cách nay bốn, năm, không, Chúa ơi, sáu mùa hè trước rồi, tôi đang tản bộ trong tâm trạng thư thái trên một đại lộ ở Greenwich rợp bóng hai hàng cây dẻ và nguyệt quế. Những khu dinh thự Regency đó nằm trong số các tài sản đắt đỏ nhất London, nhưng nếu thừa hưởng một căn như vậy, thì thưa độc giả yêu quý, hãy bán đi, đừng sống ở đấy mà làm chi. Những ngôi nhà kiểu này tiết ra một phép thuật kì bí làm cho chủ nhân bị biến thành những ổ bánh nhân mứt hoa quả. Nạn nhân điển hình là một cựu cảnh sát trưởng Rhodesia, vào một đêm bí ẩn, đã viết cho tôi một tờ séc béo bở như chính ông ta vậy, để biên tập và in tiểu sử của ông ta. Tâm trạng thư thái của tôi có được một phần nhờ vào tấm séc ấy, một phần nhờ vào chai Chablis 1983 từ vườn nho Duruzoi, một liều thuốc tiên làm cho những bi kịch khổng lồ của chúng ta teo tóp thành những hiểu lầm nhỏ nhặt.

Ba đứa con gái tuổi teen ăn mặc như Barbie Mãi Dâm tiến đến, giăng lưới hết chiều ngang của vỉa hè. Tôi bước xuống lòng đường để tránh đụng độ. Nhưng khi tiến đến gần, chúng lột vỏ những cây kẹo mút gớm ghiếc rồi ném xuống đất. Cảm giác về trách nhiệm xã hội của tôi tăng vọt như tên lửa. Đang đi ngang thùng rác mà! Tim Cavendish, Công dân Phẫn nộ, thốt lên với những kẻ vi phạm: “Này các cô, các cô nên nhặt rác lên.”

Một tiếng khịt mũi, “Đây không nhặt thì làm gì nhau nào?” liếc xéo sau lưng tôi.

Lũ khỉ cái trời đánh thánh đâm. “Tôi không có ý định làm gì cả,” tôi ngoái lại sửa lời, “tôi chỉ nói mỗi một điều là các cô...”

Đầu gối tôi khụy xuống, sau đó là vỉa hè đập nứt gò má tôi, làm long ra một kí ức thuở niên thiếu về một tai nạn xe ba bánh trước khi đau đớn xóa hết mọi thứ, chỉ để lại mỗi cơn đau. Một cái đầu gối bén ngót đè mặt tôi xuống đất bùn. Tôi nếm thấy vị máu. Cổ tay hơn sáu mươi tuổi đời của tôi bị kéo giật ra sau một góc chín mươi độ đầy thô bạo, chiếc đồng hồ Ingersoll Solar bị tháo móc khóa. Tôi nhớ đã tuôn ra một mớ hổ lốn những câu tục tĩu từ cổ chí kim, nhưng những kẻ cướp cạn chưa kịp móc ví tôi thì tiếng chuông của một chiếc xe bán kem mở bài “Cô gái đến từ Ipanema” vang lên khiến chúng nháo nhào bỏ chạy, như ma cà rồng vào thời khắc hừng đông.

“Thế mà ông không báo cảnh sát à? Sao ngốc thế!” Bà X rắc đường tổng hợp lên món yến mạch vào buổi sáng hôm sau. “Vì Chúa, hãy gọi điện cho cảnh sát đi. Ông còn đợi gì nữa? Mất hết manh mối rồi.” Trời ơi, tôi đã phóng đại sự thật và kể với bà ta rằng bọn cướp gồm có năm tên vô lại cạo đầu hình chữ thập ngoặc. Bây giờ làm sao tôi có thể báo cảnh sát rằng ba đứa con gái chưa dậy thì ngậm kẹo mút đã thắng tôi mà chẳng cần tốn chút công sức nào? Những cậu trai mặc sắc phục xanh sẽ mắc nghẹn trong lúc ăn bánh quy Penguin mất. Không, vụ tấn công của tôi đã không được bổ sung vào dữ liệu tội phạm do bị hại chủ động trình báo của quốc gia này. Nếu chiếc đồng hồ Ingersoll bị đánh cắp không phải là kỷ vật tình yêu từ thuở huy hoàng của cuộc hôn nhân nay đã lạnh lẽo như Bắc cực của chúng tôi thì tôi đã ngậm bồ hòn làm ngọt về sự cố này cho rồi.

Tôi đang nói đến đâu nhỉ? Thật quái lạ những câu chuyện không đâu lại cứ xen vào đầu ở tuổi này. Không phải quái lạ, mà là vô cùng đáng sợ. Tôi đã định bắt đầu phần kể chuyện này với Dermot Hoggins. Đó là rắc rối khi viết hồi ký bằng bút đấy. Bạn không thể quay lại để thay đổi những gì đã viết mà không làm mọi chuyện rối tung thêm.

Là thế này, tôi là biên tập viên của Dermot “Duster” Hoggins, chứ chẳng phải bác sĩ tâm lý hay thầy coi quẻ quái quỷ gì của hắn cả, vì vậy làm sao tôi được chuyện gì đang chờ đợi Ngài Felix Finch trong đêm định mệnh ấy? Ngài Felix Finch, Bộ trưởng Văn hóa và Lãnh tụ tối cao của tạp chí Điểm sách Trafalgar, ông ta vẫn chói lòa trên bầu trời truyền thông, tên tuổi ông ta đến nay vẫn hiển hiện trong mắt mọi người, dù mười hai tháng đã trôi qua. Các tờ báo lá cải đăng đầy tin tức về vụ đó trên trang nhất; những tờ báo khổ rộng in tràn trang khi đài Phát thanh số 4 đưa tin về cú ngã. Cái chuồng nhốt đầy lũ diều hâu se sẻ, “những cây bút bình luận”, tán tụng Ông hoàng Nghệ thuật đã mất trong những bài tưởng niệm liên tu bất tận.

Ngược lại, từ đầu chí cuối tôi vẫn giữ vị thế của một cố vấn danh dự. Tuy nhiên, tôi cần cảnh báo độc giả bận rộn rằng dư vị sau vụ Felix Finch chỉ thuần túy là món rượu khai vị cho cơn khốn khổ thần sầu của tôi. Khổ nạn của Timothy Cavendish, nếu bạn thích gọi như thế. Mà đấy có vẻ như là một tiêu đề hấp dẫn nhỉ.

Đó là Đêm trao giải Trái chanh, tổ chức ở quán bar Jake’s Starlight, vừa khai trương lại hoành tráng trên đỉnh một tòa nhà ở Bayswater, có vườn trên sân thượng phủ mái che. Toàn bộ chuỗi thức ăn trong ngành xuất bản chết tiệt đã bay lên không trung rồi đậu lại ở Jake’s. Những văn sĩ cuồng, đầu bếp nổi tiếng, những bộ comple, khách hàng có râu dê, cánh lái sách suy dinh dưỡng, bọn thợ viết thuê và thợ chụp ảnh hiểu ẩn ý “Cút đi!” thành “Tại sao không, tôi rất sẵn lòng!” Để tôi chặn đứng ngay lời xì xầm đồn thổi rằng việc mời Dermot đến là chủ trương của tôi, rằng, phải rồi, Timothy Cavendish biết tác giả của mình đang thèm khát một vụ trả thù đình đám, thế cho nên, toàn bộ tấn bi kịch này là một vụ xì căng đan để đánh bóng tên tuổi. Chuyện phi lý được những đối thủ ghen ăn tức ở tưởng tượng ra! Không một ai thừa nhận đã gửi thư mời đến Dermot Hoggins, và lúc này càng khó có chuyện ai đó bước ra thừa nhận.

Tóm lại, người chiến thắng đã được xướng tên và tới lúc này chúng ta đều đã biết ai đoạt giải thưởng trị giá năm mươi nghìn bảng cả rồi. Hôm đấy tôi say bí tỉ. Guy the Guy giới thiệu tôi dùng món cocktail có tên gọi “Ground Control to Major Tom” (Mặt đất gọi thiếu tá Tom)[32]. Mũi tên Thời gian trở thành chiếc Boomerang Thời gian và tôi không đếm xuể mình đã uống bao nhiêu ly. Một ban nhạc jazz sáu người bắt đầu chơi điệu rumba. Tôi tiến ra ban công để thở chút không khí trong lành, và xem đám đông huyên náo từ bên ngoài. Chứng kiến văn đàn London khiến tôi nghĩ đến nhận định của Gibbon về Thời đại của những Antonine[33]. Một đám bòng bong những nhà phê bình, nhà biên soạn, nhà bình luận, làm tăm tối thêm bộ mặt học hành, và sự suy giảm thiên tài được tiếp nối bằng sự dễ dãi trong thị hiếu.

Dermot tìm ra tôi; tin xấu luôn nhất định tìm ra ta. Để tôi lặp lại, tình cờ gặp Giáo hoàng Pius XIII còn không làm tôi ngạc nhiên bằng. Kỳ thực, Đức Toàn Bích còn có thể hòa nhập tốt hơn – tay tác giả khó tính của tôi mặc một bộ đồ vest màu vàng, bên trong mặc áo sơ mi màu sô cô la và thắt cà vạt Ribena. Tôi cũng chẳng cần nhắc độc giả tò mò rằng lúc bấy giờ cuốn Đấm Vỡ Mồm vẫn chưa làm mưa làm gió trên thị trường sách. Kỳ thực, nó vẫn chưa có mặt ở nhà sách nào, trừ hiệu sách John Sandoe ở Chelsea, và những đại lý phát hành kém may mắn, một của dân Do Thái, sau đến của người Sikh, nay là người Eritrea, nằm ở xứ đạo khu Đông[34] của anh em nhà Hoggins. Kỳ thực, điều mà Dermot muốn bàn bạc ở khu vườn sân thượng ấy chính là chuyện quảng bá và phân phối sách. Tôi giải thích với hắn lần thứ một trăm rằng cơ chế đối tác - tác giả ở nhà xuất bản Cavendish không thể nào cho phép rải tiền in các catalogue giới thiệu sách xa hoa và tổ chức những chuyến dã ngoại tập thể cuối tuần tăng tình đoàn kết cho nhân viên chào hàng sách.

Tôi giải thích, một lần nữa, rằng các tác giả của tôi tìm thấy cảm giác mãn nguyện từ việc khoe những quyển sách đóng bìa đẹp đẽ của mình với bạn bè, gia đình, con cháu. Tôi giải thích, một lần nữa, rằng thị trường sách viết về xã hội đen đã bão hòa rồi; và rằng ngay cả Moby Dick cũng xịt ngóm vào thời đại của Melville[35], dù tôi không giải thích động từ đó nghĩa là gì. “Đó thực sự là một quyển hồi ký tuyệt hảo,” tôi trấn an hắn. “Hãy cho nó thời gian.”

Dermot, say khướt, lè nhè và điếc đặc, nhìn qua thanh chắn ban công. “Toàn là ống khói. Ở tít dưới đấy.”

Tôi tin rằng mối đe dọa chỉ là tưởng tượng. “Ừ.”

“Mẹ tôi từng đưa tôi đi xem Mary Poppins lúc tôi còn bé. Những người quét ống khói nhảy nhót trên mái nhà. Bà cũng xem lại băng ghi hình phim ấy nữa. Hết lần này đến lần khác. Trong trại dưỡng lão.”

“Tôi còn nhớ lúc phim mới phát hành. Nó in đậm trong tâm trí tôi.”

“Này.” Dermot nhíu mày rồi chỉ vào quầy bar nằm ở bên kia khung cửa sổ kiểu Pháp. “Ai kia?”

“Ai cơ?”

“Người đeo nơ đang nói chuyện với cô nàng mặc túi rác đấy.”

“Là người công bố giải thưởng, Felix... ồ, Felix gì ấy nhỉ?”

“Felix Finch chó chết! Thằng chó ỉa lên sách của tôi trên tờ tạp chí đắt như c** ấy hả?”

“Đó quả không phải là bài điểm sách tốt nhất dành cho anh, nhưng...”

“Đ.m., đó là bài điểm sách duy nhất về sách của tôi!”

“Bài đó đọc cũng không đến nỗi nào...”

“Thế hả? ‘ Những nhân tố mới không có nổi một tác phẩm hiện tượng nào như ông Hoggins chính là những cái chết do tai nạn giao thông của văn học hiện đại.’ Có để ý thấy người ta hay gọi kèm danh xưng ‘ông’ trước khi cắm mũi dao vào không? “Ông Hoggins nên xin lỗi những cây xanh đã bị chặt để in quyển ‘tiểu thuyết tự truyện’ tào lao của ông ta. Bốn trăm trang ba hoa vô nghĩa kết thúc bằng một cái kết dễ dãi và ngớ ngẩn đến mức không thể tin nổi.”

“Bình tĩnh đi, Dermot, thực tình chẳng có ai đọc tờ Trafalgar đâu.”

“Xin lỗi!” Tác giả của tôi túm cổ áo một người phục vụ. “Có nghe nói đến mục Điểm sách Trafalgar bao giờ chưa? ”

“Vâng, dĩ nhiên rồi ạ,” anh chàng phục vụ người Đông Âu đáp.

“Toàn bộ khoa của tôi đều dẫn nguồn từ đấy, nơi quy tụ những cây bút điểm sách thông minh nhất hiện nay.” Dermot ném ly rượu của hắn qua thanh chắn.

“Thôi mà, thế nào là một người điểm sách?” tôi lý luận. “Một kẻ đọc rất nhanh, rất qua loa, nhưng chẳng hề chiêm nghiệm...”

Ban nhạc jazz đã biểu diễn xong tiết mục của họ và Dermot bỏ dở câu nói của tôi. Tôi đã say đến nỗi nghĩ đến chuyện về nhà bằng taxi, và đang chuẩn bị về thật thì một tiếng gào toáng lên như người loan tin ở Cockney khiến toàn thể quan khách nín bặt: “Thưa quý ông và quý bà giám khảo! Xin mọi người chú ý!”

Xin thánh thần hộ mạng, Dermot đang đập hai cái khay vào nhau loảng xoảng. “Tối nay chúng ta có thêm một giải thưởng nữa, thưa các ông tiên bà tiên sách!” hắn gào lên. Mặc kệ những tiếng cười khẩy và những tiếng “Oooooo!”, hắn lôi từ túi áo khoác ra một phong bì, xé ra rồi giả vờ đọc: “Giải thưởng dành cho Nhà phê bình văn học nổi bật nhất.” Khán giả nhìn theo, cười nhạo, phản đối, hoặc quay mặt đi chỗ khác vì ngượng. “Cạnh tranh rất khốc liệt, nhưng ban giám khảo đã nhất trí cao trong việc chọn Hoàng Đế của Vương triều Điểm sách Trafalgar, ông – xin thứ lỗi, ngài – Hiệp sĩ Felix Finch, lên đây nào, ông bạn!”

Đám đông reo hò. “Chúc mừng, Felix! Chúc mừng!” Finch đã không trở thành nhà phê bình nếu không thích sự chú ý tự nhiên mà có. Khỏi phải nói ông ta đã chuẩn bị sẵn trong đầu một bài báo cho chuyên mục trên tờ Thời đại Chủ nhật với tựa “Finch được yêu mến.” Về phần Dermot, hắn cười sái cả quai hàm và làm ra vẻ hết sức thành thật. “Giải thưởng của tôi có thể là gì nhỉ?” Finch cười điệu đàng, trong lúc tiếng vỗ tay tắt dần. “Một bản có chữ ký của quyển ĐấmVỡ Mồm nguyên gốc chăng? Chắc chẳng còn nhiều bản đâu nhỉ!” Bạn bè của Finch cười vang chế giễu, khoái chí trước viên chính ủy của họ. “Hay là tôi giành được một chuyến bay miễn phí đến một đất nước Nam Mỹ với những hiệp ước dẫn độ đầy kẽ hở?”

“Phải rồi, bạn hiền,” Dermot nháy mắt, “một chuyến bay miễn phí chính xác là giải thưởng mà mày nhận được.”

Tác giả của tôi túm lấy ve áo của Finch, ngửa ra phía sau, đạp vào bụng Finch, rồi nhấc bổng nhân vật nổi tiếng có chiều cao thấp hơn số đông lên cao! Cao hơn cả những bồn hoa păng-xê dọc lan can.

Tiếng kêu thét của Finch – lẫn cuộc đời của ông ta – kết thúc trong đống kim loại rúm ró, ở mặt đất cách đó mười hai tầng.

Ai đó làm đổ nước uống xuống thảm.

Dermot “Duster” Hoggins phủi ve áo, rướn người qua ban công, hét lên: “VẬY BÂY GIỜ AI MỚI LÀ KẺ KẾT THÚC BẰNG MỘT CÁI KẾT DỄ DÃI VÀ NGỚ NGẨN ĐẾN MỨC KHÔNG THỂ TIN NỔI NÀO?”

Đám đông nín lặng vì sửng sốt tách ra khi kẻ giết người tiến đến bàn đặt thức ăn nhẹ. Một số nhân chứng sau đó thuật lại họ nhìn thấy một vòng hào quang tối sẫm. Hắn chọn một chiếc bánh quy Bỉ trên có miếng cá trổng Biscay và rau mùi tây rưới dầu mè.

Đám đông nhận thức trở lại. Những tiếng nôn khan, lạy Chúa tôi và một cuộc giẫm đạp tháo thân ở cầu thang. Cơn chấn động kinh hoàng nhất! Suy nghĩ của tôi? Nói thật ư? Kinh hoảng. Chắc chắn. Sốc? Còn phải hỏi. Không thể tin được? Dĩ nhiên. Sợ hãi? Không hẳn.

Tôi sẽ không phủ nhận rằng mình đã cảm thấy một niềm an ủi trong bước ngoặt bi kịch này. Phòng làm việc của tôi ở Haymarket đang chứa chín mươi lăm quyển Đấm Vỡ Mồm bọc màng co chưa bán được của Dermot Hoggins, quyển hồi ký đình đám của kẻ sắp trở thành tên sát nhân nổi tiếng nhất Anh quốc. Frank Sprat – giám đốc nhà in Sevenoaks, người mà tôi còn nợ rất nhiều tiền đến nỗi anh chàng tội nghiệp ấy đã bị đẩy vào cảnh khó xử - vẫn còn giữ bản kẽm và sẵn sàng in khi có thông báo.

Sách bìa cứng, thưa quý vị.

Mười bốn bảng chín mươi chín xu một quyển.

Ngọt tựa mật ong!

Là một biên tập viên từng trải, tôi không tán thành lối viết hồi tưởng quá khứ, gợi ý chuyện sắp xảy ra, và giăng bẫy, chúng thuộc về thập niên 1980 với những Thạc sĩ Nghệ thuật trong chủ nghĩa Hậu hiện đại và Thuyết hỗn mang. Tuy nhiên, tôi không xin lỗi vì đã (lại) bắt đầu đoạn kể chuyện từ vai của tôi về sự kiện chấn động đó. Bạn thấy đấy, nó đặt nền tảng cho ý định tốt đẹp đầu tiên của tôi trên đường đến Hull, hay nói chính xác hơn là vùng nội địa của Hull, nơi mà nỗi thống khổ của tôi sẽ diễn ra như định mệnh đã an bài. Vận may của tôi đổi chiều đúng như tôi đã tiên đoán sau Cú ngã cuối cùng của Felix Finch. Trên đôi cánh của hoạt động tiếp thị miễn phí tuyệt vời, con gà tây Đấm Vỡ Mồm của tôi bay vút lên cao trên bảng xếp hạng sách bán chạy và đậu ở đó cho đến khi Dermot bị kết án mười lăm năm trong khám Wormwood Scrubs. Phiên tòa được đưa tin trong tất cả những bản tin Thời sự chín giờ ở khắp nơi trong thành phố. Sau khi ra người thiên cổ, Ngài Felix biến từ một kẻ khó chịu hợm hĩnh, với bàn tay Stalin siết chặt tiền của Hội Mỹ thuật thành chuyên gia mỹ thuật được yêu mến nhất nước Anh từ sau người được yêu mến gần nhất trước đó, ôi chao!

Trên bậc tam cấp tại tòa Old Bailey, bà vợ góa của Finch nói với báo chí rằng mười lăm năm là bản án “nhẹ đến mức kinh tởm”, và ngay ngày hôm sau một chiến dịch ‘Duster Hoggins, Chết mục ở địa ngục đi!’ được phát động. Gia đình của Dermot công kích trên các show đối thoại, quan điểm xúc phạm của Finch bị lôi ra mổ xẻ, BBC2 thực hiện một phim tài liệu đặc biệt trong đó cô nàng đồng tính phỏng vấn tôi đã cắt xén hoàn toàn lời nhận xét tế nhị của tôi ra khỏi ngữ cảnh. Ai quan tâm cơ chứ? Nồi tiền sôi đang cạn dần – không, nó đã cạn nước và khiến toàn bộ căn bếp đáng nguyền rủa bốc cháy theo. Nhà xuất bản Cavendish – nghĩa là bà Latham và tôi – không biết thời vận gì rơi trúng. Chúng tôi phải nhận thêm hai cô cháu gái của bà ta (tất nhiên là làm việc bán thời gian mà thôi, tôi không để cho Bảo hiểm quốc gia sờ gáy đâu). Những quyển Đấm Vỡ Mồm bọc màng co đầu tiên đã bốc hơi trong vòng ba mươi sáu giờ, và Frank Sprat phải in tái bản gần như mỗi tháng. Bốn thập niên làm trong ngành xuất bản, chưa bao giờ có điều gì đẩy chúng tôi đến thành công được như thế. Chi phí vận hành toàn được bù đắp bằng đóng góp của tác giả - chứ không phải từ tiền bán sách bèo bọt! Nghe có vẻ thật vô đạo đức. Vậy mà bây giờ tôi đang có trong tay quyển sách bán chạy có tỉ lệ mười- năm-có-một trong đời. Mọi người hỏi tôi, “Tim, làm thế nào ông đạt được sự thành công chóng mặt đó?”

Đấm Vỡ Mồm thực sự là một hồi ký hư cấu đầy giông bão được viết khá hay. Đám diều hâu văn hóa thảo luận về bối cảnh chính trị - xã hội của nó trước tiên trên những show buổi tối, sau đó trong chương trình tivi buổi sáng. Bọn tân phát xít mua sách vì nó viết mạnh tay về bạo lực. Các bà nội trợ Worcestershire mua vì thấy đọc cũng hay phết. Đám đồng tính mua vì ưu ái tác giả cùng hội cùng thuyền. Nó nhảy lên con số chín mươi nghìn, đúng, chín mươi nghìn bản trong bốn tháng, và đúng, toàn là bản bìa cứng đấy. Trong lúc tôi viết những dòng này, bộ phim chuyển thể từ sách hẳn đang được sản xuất rồi. Ở buổi chia sẻ cảm tưởng tại Hội chợ sách Frankfurt, tôi được tán tụng bởi những người mà trước đó còn không thèm dừng lại để phủi tôi khỏi mũi giày. Cái nhãn mác ghê tởm “Nhà xuất bản hư danh” trở thành “Nhà tài chính sáng tạo”. Bản quyền dịch thuật rơi ào ào như những lãnh thổ chiếm được trong vòng cuối trò chơi Risk[36]. Các nhà xuất bản Mỹ, ơn Chúa lòng lành, họ yêu thích cái tiếng tăm Quý-tộc-Anh-bị-trừng-phạt-bởi-đứa-con-xứ-sở-bị-áp-bức, và một cuộc đấu giá xuyên đại dương đã đẩy số tiền tác quyền trả trước lên con số cao chóng mặt. Tôi, vâng, chính tôi, sở hữu độc quyền con ngỗng bĩnh phân bạch kim bị tiêu chảy nặng này! Tiền đổ vào tài khoản ngân hàng vốn rỗng hun hút của tôi như nước Biển Bắc qua kênh đào Hà Lan. “Chuyên gia tư vấn ngân hàng” riêng của tôi, một tay áp phe tên là Elliot McCluskie, gửi cho tôi một tấm thiệp Giáng sinh là hình chụp hậu duệ Midwich Cuckoo của hắn. Những động vật linh trưởng ở cửa Câu lạc bộ Groucho đón tôi với lời chào “Chúc buổi tối tốt lành, thưa ông Cavendish,” thay vì nói “Này, ông phải được một thành viên bảo lãnh mới được!” Khi tôi tuyên bố sắp phát hành sách bìa mềm, các trang điểm sách của những báo ra ngày Chủ nhật đăng bài mô tả Nhà xuất bản Cavendish như một tay chơi có số má giữa đám người khổng lồ già yếu hom hem. Thậm chí tôi còn được lên Thời báo Tài chính nữa.

Thế có lạ gì chăng khi bà Latham và tôi bận bịu – chỉ một chút thôi – trên mặt trận sổ sách kế toán?

Sự thành công đầu độc tay chơi mới nổi chỉ trong nháy mắt. Tôi in hẳn danh thiếp: Cavendish-Redux[37], Nhà xuất bản Tiểu thuyết Tiên phong. E hèm, tôi nghĩ, tại sao không bán nhiều ấn phẩm thay vì chỉ một ấn phẩm? Tại sao không trở thành một nhà xuất bản nghiêm túc như thế giới đã tung hô? Than ôi! Những tấm danh thiếp bé nhỏ xinh xắn ấy chính là lá cờ đỏ vẫy trước mũi con bò tót mang tên Định mệnh. Ngay khi tin đồn lan xa rằng Tim Cavendish đang rủng rỉnh, thì bọn chủ nợ hổ báo cáo chồn đã dồn dập tấn công văn phòng của tôi. Như thường lệ, tôi để việc tính toán tài tình về chuyện trả gì cho ai và khi nào cho bà Latham vô giá của tôi. Cứ thế, tôi hoàn toàn không phòng bị gì về mặt tinh thần lẫn tài chính khi những người khách nửa đêm viếng thăm, gần một năm sau Đêm Felix Finch. Tôi thú nhận rằng kể từ ngày Bà X bỏ tôi (kẻ cắm sừng tôi là một nha sĩ, tôi sẽ tiết lộ sự thật cho dù nó đau đớn ra sao) Tình trạng Vô chủ đã thống trị tư dinh Putney của tôi (ôi, thôi được rồi, tên khốn ấy là người Đức), vì vậy bồn cầu bằng sứ từ lâu đã là ghế ngồi làm việc thực sự của tôi. Một chai Cognac tử tế đặt dưới tấm che giấy cuộn, tôi để cửa mở để nghe được radio trong nhà bếp.

Vào đêm ấy, tôi gác quyển sách đọc trong nhà vệ sinh sang một bên, Sự suy tàn và diệt vong của đế chế La Mã, để xử lý chồng bản thảo (những quả cà chua xanh chưa ăn được) gửi đến Cavendish-Redux, niềm tự hào mới của tôi. Ước chừng lúc ấy tầm mười một giờ, tôi nghe có tiếng can thiệp vào cửa trước. Đám quái lùn nào gõ cửa chơi trò “cho kẹo hay bị ghẹo” ư?

Hay bọn phá đám? Tiếng gió?

Tôi chưa kịp định thần thì cánh cửa đã văng ra khỏi cái bản lề khốn khổ! Tôi tưởng là Al-Qaeda, tôi tưởng là sét hòn dội xuống, nhưng không. Từ hành lang rầm rập tiến vào là một toán người trông như cả một đội bóng bầu dục, dù thực ra chúng chỉ có ba tên. (Quý vị thấy đấy, tôi toàn bị những bộ ba tấn công.) “Timothy,” gã có đầu giống đầu thú gắn trên miệng máng xối dõng dạc gọi, “Cavendish, tôi nói đúng chứ. Quả tang lúc ngồi bô nhé.”

“Giờ làm việc của tôi là mười một giờ đến hai giờ, thưa các quý ông,” Bogart hẳn sẽ nói như thế, “với khoảng giải lao ba giờ để ăn trưa. Làm ơn đi cho.” Còn tôi thì chỉ biết lúng búng, “Ôi! Cửa của tôi! Cái cửa khốn khổ khốn nạn của tôi!”

Tên du đãng thứ hai châm một điếu thuốc. “Bọn này đã đến thăm Dermot hôm nay. Lão ấy hơi cáu rồi đấy. Thử hỏi ai mà không cáu?”

Những mảnh ghép dần khớp lại. Tôi thì vỡ thành trăm mảnh. “Anh em của Dermot!” (Tôi đã đọc về tất cả bọn chúng trong sách của Dermot. Eddie, Mozza, Jarvis.)

Tàn thuốc nóng khiến đùi tôi bỏng ran, và tôi không còn nhớ khuôn mặt nào nói cái gì nữa. Giống như bức tranh bộ ba của Francis Bacon biến thành người thật. “Đấm Vỡ Mồm bán tốt đấy chứ, nhìn tình hình thì biết.”

“Sách vẫn chất chồng trong các hiệu sách ở sân bay.”

“Ông ít ra cũng phải nghi là bọn này sẽ đến chứ.”

“Người nhạy bén làm ăn như ông cơ mà.”

Người Ireland ở London luôn khiến tôi bấn loạn vào những thời điểm trọng đại nhất. “Các anh, các anh. Dermot đã ký hợp đồng chuyển nhượng tác quyền. Nghe này, nghe này, đó là chuẩn mực trong ngành, tôi có một bản trong cặp đây này...” Quả thực tôi có giữ tài liệu đó trong tay. “Điều mười tám, về tác quyền... có nghĩa là Đấm Vỡ Mồm, về mặt pháp lý, đã... à ừ...” Thật chẳng dễ để nói với bọn chúng chuyện này khi mà quần đùi tôi đang nằm trên mắt cá chân. “À ừ, về mặt pháp lý là tài sản của Nhà xuất bản Cavendish.”

Jarvis Hoggins đọc lướt qua bản hợp đồng một lúc nhưng rồi xé toạc khi nhận ra nó dài hơn khả năng tập trung của hắn. “Dermot ký cái quần què này khi sách của lão chỉ để đọc cho vui thôi.”

“Một món quà tặng bà mẹ già đang lâm bệnh của bọn tao, Chúa phù hộ linh hồn bà.”

“Một kỉ niệm về thời vàng son của Bố.”

“Dermot chẳng ký hợp đồng chó chết nào cho sự kiện đặc biệt chó chết nào cả.”

“Bọn tao đã ghé thăm người in sách của ông, Sprat đấy. Hắn đã giải thích chuyện tiền nong cho bọn tao rồi.”

Bông giấy hợp đồng bay lả tả. Mozza đứng gần đến nỗi tôi có thể ngửi thấy mùi bữa ăn tối của hắn. “Xem ra ông đang bỏ túi cả một gia tài chứ chẳng chơi.”

“Tôi tin chắc rằng chúng ta có thể nhất trí về một, ờ, ừm, ừm, biểu đồ ngân sách, từ đó sẽ...”

Eddie ngắt lời: “Thỏa thuận là ba nhé.”

Tôi giả vờ nheo mắt. “Ba nghìn bảng ư? Các anh à, tôi không nghĩ là...”

“Đừng vờ vịt nữa.” Mozza véo má tôi. “Ba giờ. Chiều mai. Ở văn phòng của ông.”

Tôi không còn lựa chọn nào khác. “Hay là chúng ta có thể... ờ... bàn bạc một số tiền để kết thúc cuộc gặp này, làm cơ sở cho... những thỏa thuận tiếp theo.”

“Được thôi. Mình bàn bạc con số bao nhiêu nhỉ, Mozza?”

“Năm mươi nghìn nghe cũng hợp lý đấy.”

Tiếng rên đau đớn của tôi không phải là vờ vịt. “Năm mươi nghìn bảng ư?”

“Là khởi điểm.”

Ruột tôi sôi ùng ục, lặc lè và khó chịu. “Các anh thật sự nghĩ rằng tôi cất chỗ tiền lớn thế trong mấy hộp đựng giày quanh nhà?” Tôi lên giọng cứng cỏi cho giống Dirty Harry[38] nhưng lại nghe giống như Baggins Nói Đớt[39] hơn.

“Tôi hi vọng ông cất tiền ở đâu đó, ông ngoại à.”

“Tiền mặt.”

“Không lộn xộn. Không séc siếc gì hết.”

“Không hứa hẹn. Không trì hoãn.”

“Tiền theo cách cổ điển đó giờ. Trong hộp đựng giày cũng được.”

“Thưa các anh, tôi rất sẵn lòng trả số tiền mà các anh cân nhắc thương lượng, nhưng mà luật...”

Jarvis huýt sáo qua kẽ răng. “Luật có giúp một lão già như ông đứng dậy khi có nhiều vết nứt trên cột sống không hở Timothy?”

Eddie: “Những người ở tuổi ông không đứng dậy đâu. Họ ngủm luôn.”

Tôi cố hết sức bình sinh để nín lại, nhưng cơn co thắt đã không còn chịu sự kiểm soát của tôi nữa và một loạt súng đại bác bắn ra. Sự cười nhạo hay lịch sự tôi còn có thể chịu đựng nổi, nhưng sự thương hại từ những kẻ tra tấn tôi cho thấy tôi đã bị đánh bại hoàn toàn. Dây xả nước được giật.

“Ba giờ.” Cavendish-Redux tiêu tùng. Đám du đãng bỏ đi, bước lên cánh cửa sõng soài của tôi. Eddie quay lại để nói lời cuối. “Dermot có viết một đoạn khá hay trong sách. Về những kẻ quỵt nợ đấy.”

Tôi đề nghị độc giả tò mò hãy đọc trang 244 của quyển Đấm Vỡ Mồm, hiện có bán tại quầy sách ở khu vực của quý vị. Không nên đọc lúc ăn no.

Bên ngoài văn phòng Haymarket của tôi, những chiếc taxi đang nối đuôi nhau lao đi. Bên trong phòng riêng của tôi, đôi hoa tai Nefertiti của bà Latham (một món quà do tôi tặng để đánh dấu mười năm bà ấy làm việc ở Nhà xuất bản Cavendish, tôi tìm thấy chúng trong sọt hàng giảm giá ở một Cửa hàng quà lưu niệm trong Bảo tàng Anh quốc) kêu leng keng khi bà lắc đầu, không, không, không. “Và tôi nói cho ông biết này, ông Cavendish, tôi không thể tìm được cho ông năm mươi nghìn bảng trước ba giờ chiều nay. Tôi không thể tìm cho ông ngay cả năm nghìn bảng. Từng đồng kiếm được từ Đấm Vỡ Mồm đã bị hút sạch bởi những khoản nợ dài hạn rồi.”

“Không có ai nợ tiền chúng ta hết à?”

“Tôi luôn nhấn mạnh với ông về chuyện hóa đơn chứng từ mà, có đúng không nào, ông Cavendish?”

Tuyệt vọng khiến tôi xuống nước. “Bây giờ là thời đại của tín dụng linh hoạt mà!”

“Bây giờ là thời đại của hạn mức tín dụng, ông Cavendish à.”

Tôi lui về phòng làm việc, rót một ly whisky rồi nuốt trôi những viên thuốc trợ tim, sau đó lần theo chuyến hải hành cuối cùng của Thuyền trưởng Cook trên quả địa cầu cổ lỗ. Bà Latham đem thư từ vào rồi lẳng lặng đi ra. Hóa đơn, thư rác, giả nhân giả nghĩa từ những quỹ từ thiện và một gói đề “Kính gửi Biên tập viên nhìn xa trông rộng của Đấm Vỡ Mồm chứa một bản thảo nhan đề Những chu kỳ bán rã – thật là một tựa đề nhảm nhí cho tiểu thuyết – và phụ đề Bí ẩn đầu tiên về Luisa Rey. Từ nhảm đến nhảm. Nữ tác giả của nó, một người có cái tên rất mơ hồ Hilary V. Hush, mở đầu thư ngỏ như sau: “Năm lên chín tuổi, tôi được mẹ đưa đến Lourdes để cầu nguyện cho tôi đừng đái dầm nữa. Hãy tưởng tượng xem tôi đã ngạc nhiên thế nào khi hiện ra trong giấc mơ của tôi tối hôm đó không phải là Thánh Bernadette mà là Alain-Fournier.”

Tâm thần nặng rồi. Tôi ném lá thư vào khay “Việc khẩn” rồi mở chiếc máy tính bộ nhớ mới toanh đầy ắp gigabyte lên để chơi trò Gỡ mìn. Sau khi bị nổ tung hai lần, tôi gọi điện đến Sotheby’s để đăng ký đấu giá chiếc bàn viết chính hiệu của Charles Dicken với mức khởi điểm sáu mươi nghìn. Một thẩm định viên rất lịch sự tên là Kirpal Singh ái ngại cho hay chiếc bàn của tiểu thuyết gia này đã được bảo tàng Nhà Dicken kiểm kê rồi, và hi vọng tôi đã không bị lừa một vố quá đau. Phải thú nhận, tôi dựng chuyện cũng chẳng có đầu đuôi thuyết phục cho lắm. Kế đến tôi gọi Elliot McCluskie rồi hỏi thăm những đứa con hay ho của ông ta. “Khỏe, cám ơn ông.” Ông ta hỏi thăm việc làm ăn hay ho của tôi. Tôi hỏi vay tám mươi nghìn bảng. Ông ta đáp bằng cụm từ đầy nghĩ ngợi “Phải rồi...” Tôi hạ mức trần xuống sáu mươi. Elliot nhắc lại đợt vay nợ trước của tôi vẫn còn hạn mười hai tháng nữa mới được xem xét khả năng điều chỉnh quy mô. Ôi, sao mà tôi nhớ cái thời người ta cười như con linh cẩu, bảo ta đi chết đi rồi cúp máy. Tôi lần theo hành trình của Magellan trên quả địa cầu và thèm một thế kỷ nơi mà một sự khởi đầu mới chẳng xa hơn chuyến tàu kế tiếp rời Deptford. Lòng tự trọng của tôi đã nát nhàu, tôi gọi cho Bà X. Bà đang ngâm mình tắm sáng. Tôi giải thích tình hình nghiêm trọng của mình. Bà ta cười như một con linh cẩu, bảo tôi đi chết đi rồi cúp máy. Tôi xoay quả địa cầu. Tôi xoay quả địa cầu.

Bà Latham nhìn tôi dò xét như con diều hâu quan sát con thỏ khi tôi bước ra. “Không, không vay tiền xã hội đen, ông Cavendish ạ. Thật chẳng đáng làm thế chút nào.”

“Đừng sợ, bà Latham, tôi chỉ định đi thăm người duy nhất trên thế gian này tin tưởng ở tôi, bất kể thịnh suy.” Trong thang máy tôi nhắc hình ảnh phản chiếu của mình, “Một giọt máu đào hơn ao nước lã”, trước khi xòe tay nắm lấy cán ô.

“Ôi, thật là oan gia trái chủ, không phải chú mày chứ. Nghe đây, làm ơn biến giùm đi và để bọn ta yên.” Anh trai tôi trừng mắt nhìn từ phía bên kia hồ bơi trong lúc tôi bước vào sân. Denholme không bao giờ bơi trong chiếc hồ này, theo như tôi biết, nhưng anh ấy làm đủ mọi việc tẩy rửa xả nước hàng tuần, ngay cả khi mưa gió. Anh ấy dùng cái vợt to gắn vào cây sào để vớt lá khô. “Tôi sẽ không cho chú mượn một xu teng nào cho đến khi chú trả lại số tiền lần trước. Tại sao tôi cứ phải bố thí cho chú hoài vậy? Thôi. khỏi trả lời.” Denholme nhặt nắm lá ướt sũng trong cái vợt. “Làm ơn quay lại xe taxi rồi biến đi cho. Tôi sẽ chỉ lịch sự yêu cầu chú một lần duy nhất thôi.”

“Georgette khỏe không?” Tôi phủi mấy con rệp ra khỏi những cánh hoa hồng run rẩy trong vườn.

“Georgette đang phát điên, chắc chắn và từ từ, những lúc không cần tiền chả bao giờ thấy chú tỏ ra ân cần quan tâm gì cả.”

Tôi nhìn một con sâu trở về cát bụi và ước chi mình là nó. “Denny này, em đang gặp chút rắc rối với hạng người không đàng hoàng cho lắm. Nếu không có sáu mươi nghìn bảng trong tay thì em sẽ bị đánh nhừ tử.”

“Bảo bọn chúng quay phim cho tôi xem với nhé.”

“Em không đùa đâu, Denholme à.”

“Tôi cũng thế! Vậy ra chú không chịu nổi khi bị lừa à. Cảm giác thế nào? Tại sao chuyện này lại là vấn đề của tôi?”

“Chúng ta là anh em mà! Anh không có lương tâm hay sao?”

“Tôi đã ngồi trong ban quản trị của một ngân hàng thương mại ba mươi năm rồi.”

Một cây tiêu huyền bị mé nhánh thả rơi những chiếc lá đỏ một thời xanh tươi như những con người tuyệt vọng thả rơi những quyết định một thời không nao núng. “Giúp em đi mà, Denny, làm ơn đi. Ba mươi nghìn cũng được.”

Tôi đã đi quá giới hạn. “Đi chết đi cho rồi, Tim, ngân hàng của tôi sụp đổ rồi! Tôi khô kiệt bởi những kẻ hút máu ở Lloyds rồi! Những ngày tôi búng ngón tay là có tiền đã qua rồi, qua thật rồi! Nhà cửa bị đem thế chấp, hai lần rồi đấy! Tôi tổn thất nặng nề, còn mất mát của chú chỉ như ruồi muỗi mà thôi. Dù sao chú còn có quyển sách chết toi gì đấy bay lượn khắp các nhà sách trên thế giới cơ mà!”

Nét mặt tôi nói lên điều mà không từ nào diễn tả được.

“Ôi Chúa ơi, đồ ngốc. Hạn thanh toán là khi nào?”

Tôi nhìn đồng hồ. “Ba giờ chiều này.”

“Quên đi.” Denholme thả vợt xuống hồ. “Đệ đơn phá sản đi. Reynard sẽ lo giấy tờ cho chú, anh ta làm ăn được lắm. Vụ này khó nhằn lắm, tôi biết, nhưng dù sao nó cũng sẽ giúp đẩy lùi các chủ nợ. Luật quy định rõ...”

“Luật ư? Kinh nghiệm duy nhất mà các chủ nợ của em có về luật là ngồi xổm trên một cái lon khi phòng giam quá tải.”

“Vậy thì bỏ trốn đi.”

“Bọn này rành rẽ địa bàn lắm.”

“Cũng không quá khỏi vành đai đường cao tốc M25 đâu, tôi dám cá đấy. Đến ở nhà bạn của chú đi.”

Bạn ư? Tôi gạch bỏ những cái tên mà tôi mắc nợ, những người đã lìa trần, những người biến mất không tăm tích, và tôi chỉ còn lại có...

Denholme đưa ra đề nghị cuối cùng. “Tôi không thể cho chú mượn tiền. Tôi chẳng còn đồng nào cả. Nhưng có một nơi rất tiện nghi còn nợ tôi và chú có thể đến đó để tạm lánh.”

Đền của Vua Chuột. Thuyền của Chúa bồ hóng. Cơ thắt của Hades. Vâng, ga King’s Cross nơi mà, theo Đấm Vỡ Mồm, một lần “thổi kèn” có giá chỉ năm bảng – trong ba buồng xa nhất ở mé trái dãy nhà vệ sinh nam ở tầng dưới, suốt hai mươi tư giờ. Tôi gọi điện cho bà Latham để giải thích rằng tôi sẽ đi họp ở Prague trong ba tuần với Vaclav Havel, một lời nói dối mà hậu quả sau này bám chặt lấy tôi như bệnh mụn rộp. Bà Latham chúc tôi thượng lộ bình an. Bà có thể giải quyết đám Hoggins. Bà Latham có thể xử lý mười Đại dịch Ai Cập. Tôi không xứng đáng thuê bà, tôi biết điều đó. Tôi thường tự hỏi tại sao bà ấy ở lại với Nhà xuất bản Cavendish. Không phải vì khoản tiền tôi trả cho bà.

Tôi dò dẫm xác định những loại vé trên máy bán vé: Vé ngày khứ hồi với thẻ đi tàu giờ thấp điểm, Vé ngày một chiều giá rẻ không gồm thẻ đi tàu giờ cao điểm, và cứ thế cứ thế, nhưng mà trời ôi, tôi cần mua loại nào mới được chứ? Một ngón tay đáng sợ gõ lên vai khiến tôi nhảy dựng lên cả nửa mét – hóa ra đó là một bà cụ nhỏ nhắn cho tôi lời khuyên mua Khứ hồi thì rẻ hơn Một chiều. Tôi tưởng bà ta bị tâm thần nhưng chẳng qua tôi có tật giật mình thôi. Tôi nhét tờ tiền vào khe, mặt có hình của nữ hoàng ngửa lên, rồi úp xuống, rồi đổi đầu, nhưng lần nào cái máy cũng phun tờ tiền ra.

Thế là tôi đành đứng xếp hàng để mua vé ở quầy. Ba mươi mốt người đứng trước tôi, vâng, tôi đếm từng người một. Những người bán vé thoắt ẩn thoắt hiện trong quầy của họ. Một đoạn quảng cáo lặp đi lặp lại trên màn hình kêu gào tôi đầu tư vào một chiếc thang nâng. Cuối cùng, cuối cùng, đã đến lượt tôi: “Xin chào, tôi cần một vé đi Hull.”

Người phụ nữ bán vé nghịch chiếc nhẫn dân tộc to tổ bố trên tay. “Chừng nào đi?”

“Càng sớm càng tốt.”

“Có nghĩa là ‘hôm nay’ phải không?”

“‘Hôm nay’ thường có nghĩa là ‘càng sớm càng tốt’, vâng.”

“Tôi không bán vé ngày hôm nay. Vé đấy có bán ở mấy quầy đằng kia. Quầy này chỉ bán vé mua trước thôi.”

“Nhưng bảng hiệu chớp đèn đỏ chỉ tôi đến quầy của cô mà.”

“Không thể nào. Bây giờ xin ông đi giùm cho. Ông đang làm người ta xếp hàng đấy.”

“Không, bảng hiệu đó quả thật bảo tôi đến quầy này! Tôi đã xếp hàng hai mươi phút rồi!”

Lần đầu tiên kể từ đầu đến giờ, mụ ta tỏ vẻ quan tâm. “Ông muốn tôi thay đổi quy định vì quyền lợi của ông à?”

Cơn giận tóe lửa trong Timothy Cavendish như những chiếc nĩa trong lò vi ba. “Tôi muốn cô tiến hóa trí khôn xử lý vấn đề và bán cho tôi một vé đến Hull!”

“Tôi không chấp nhận bị nói bằng giọng điệu như thế.”

“Tôi là khách hàng cơ mà! Tôi mới không chấp nhận bị nói bằng giọng điệu như thế! Tìm người quản lý chết tiệt của cô lại đây!”

“Tôi là quản lý của tôi.” Gầm gừ lời nguyền rủa trong một sử thi Iceland, tôi bám trụ vị trí đứng đầu hàng của mình.

“Trời ơi là trời!” một gã ăn mặc như dân chơi nhạc punk-rock có gắn khuyên trên hộp sọ hét lên. “Người ta đang xếp hàng mệt chết mẹ đây này!”

Không bao giờ xin lỗi, Lloyd-George[40] đã khuyên như vậy. Nói lại lần nữa, chỉ lần này thôi, cộc lốc hơn. “Tôi biết là xếp hàng ‘mệt chết mẹ’! Tôi đã xếp hàng trong đó một lần và tôi sẽ không xếp lại lần nữa chỉ vì bà Nina Simone[41] ở kia không chịu bán cho tôi cái vé chết toi đó!”

Một gã người tuyết da màu mặc đồng phục trờ tới. “Wassa bovver?” [42]

“Lão già này tưởng chiếc túi hậu môn của lão cho lão có cái quyền nhảy lên đầu hàng,” gã đầu trọc nói, “và phát ngôn phân biệt chủng tộc về người phụ nữ gốc Phi-Caribê ở quầy bán vé phía trước.” Tôi không thể tin nổi mình đang nghe thấy điều này.

“Nghe này, ông bạn,” gã người tuyết nói với tôi bằng một sự nhã nhặn dành riêng cho người khuyết tật hoặc cao tuổi, “ở đất nước này chúng ta xếp hàng để đảm bảo công bằng, được chưa, và nếu ông không thích thế thì ông nên quay lại nơi mà ông đã đến đây, hiểu chứ?”

“Trông tôi giống dân Ai Cập trời đánh lắm à? Phải không? Tôi biết là có hàng! Vì sao? Vì tôi đã xếp trong hàng đó rồi, cho nên...”

“Quý ông này nói ông không xếp hàng.”

“Hắn à? Hắn có còn là ‘quý ông’ khi hắn vẽ chữ Ăn xin tị nạn lên căn hộ nhà ở xã hội của anh không?”

Tròng mắt hắn giãn to, thực sự là rất to. “Cảnh sát giao thông có thể tống cổ ông ra khỏi ga, hoặc là ông có thể đứng vào hàng này như thành viên của một xã hội văn minh. Với tôi thì thế nào cũng được cả. Cắt ngang hàng thì không được với tôi.”

“Nhưng nếu tôi lại xếp hàng từ đầu thì tôi sẽ lỡ chuyến mất!”

“Nan giải,” hắn phát biểu, “hết thuốc chữa!”

Tôi cầu cứu những người đứng phía sau cái gã trông giống hệt như Sid Rotten đó. Có thể họ đã thấy tôi xếp hàng, có thể không, nhưng không ai nhìn vào mắt tôi. Nước Anh đã suy tàn, ôi, tàn rồi, tàn thật rồi.

Hơn một giờ sau, London lao về phía nam, đem theo Lời nguyền của Anh em nhà Hoggins. Những hành khách, những linh hồn đáng thương tham gia trò chơi xổ số với tử thần hai lần mỗi ngày trên hệ thống đường sắt già yếu hom hem của Anh, chen chúc trên chuyến tàu bẩn thỉu. Máy bay lượn vòng vòng trên sân bay Heathrow, dày đặc như bầy ruồi nhặng trên một vũng ao tù nước đọng mùa hè. Quá nhiều vấn đề trong thành phố chết tiệt này. Dẫu vậy. Tôi cảm thấy niềm hồ hởi của một hành trình mới bắt đầu, và tôi trút bỏ sự cảnh giác. Một quyển sách tôi từng xuất bản, Những chuyện kể có thật của một quan tòa ở vùng Bắc địa, nói rằng nạn nhân của cá mập trải qua ảo giác trôi vào làn nước xanh bất tận của Thái Bình Dương, mọi nguy hiểm tan biến, ngay khoảnh khắc họ bị nghiền nát trong hàm răng lổn nhổn ấy. Tôi, Timothy Cavendish, chính là người đi bơi đó, chứng kiến London lùi dần, đúng, là mi, thành phố xảo trá, như một người dẫn chương trình đội tóc giả trong trò chơi hỏi đố trên truyền hình, mi và những khu nhà tồi tàn của người Somalia; những chiếc cầu cạn của Kingdom Brunel[43] ; những khu thương mại của người lao động bình dân; tầng tầng lớp lớp những viên gạch phủ bồ hóng và những khúc xương dính đầy bùn đất của pháp sư Dee[44], bác sĩ Crippen[45] v.v; những tòa nhà văn phòng lắp kính nóng nực nơi những đóa hoa tuổi trẻ khô héo thành những cây xương rồng già cỗi như người anh trai bủn xỉn của tôi.

Essex ngẩng mái đầu xấu xí lên. Khi tôi còn là một cậu bé được học bổng ở trường trung học gần nhà, con trai một người lao động ở tòa thị chính đang trên đường nỗ lực khẳng định vị trí, thì hạt này còn đồng nghĩa với tự do, thành đạt và Cambridge. Giờ thì nhìn nó mà xem. Những trung tâm thương mại và chung cư nối đuôi nhau xâm lấn đất đai tổ tiên chúng tôi. Một cơn gió Biển Bắc đớp những đám mây xếp diềm, ngậm chặt giữa hai hàm răng rồi bỏ chạy ra Midlands. Đồng quê cuối cùng cũng hiện ra. Mẹ tôi có một người họ hàng ngoài này, gia đình ấy có một căn nhà rất to, tôi nghĩ họ đã dọn đến Winnipeg để có cuộc sống tốt hơn. Ở đó! Ở đó, trong bóng râm của gian nhà kho tự dựng lên đó, trước đây từng có một hàng cây óc chó, nơi tôi và Pip Oakes – đứa bạn thân thời thơ ấu đã ra đi ở tuổi mười ba dưới bánh xe tải chở dầu – đã sơn vécni một chiếc xuồng vào mùa hè nọ rồi chèo nó dọc bãi Say. Những con cá gai trong lọ thủy tinh. Đấy, ở ngay đấy, sau góc quanh đấy, chúng tôi đã nhóm một đống lửa rồi nướng đậu và khoai tây bọc giấy bạc! Quay về đi, ôi, quay về đi! Tôi chỉ có thể nhìn thoáng qua thế này thôi sao? Những cánh đồng không rào chắn, bằng phẳng. Giờ đây, Essex là Winnipeg rồi. Gốc rạ đốt, không khí có mùi bánh mì kẹp thịt xông khói giòn rụm. Suy nghĩ của tôi cất cánh với những chuyện thần tiên khác, rồi tàu dừng xịch lại khi chúng tôi đang đi ngang qua Saffron Walden. “Ừm...” tiếng máy bộ đàm. “John, máy mở chưa vậy? John, tôi phải bấm nút nào đây?” Tiếng hắng giọng. “Đường sắt SouthNet rất lấy làm tiếc rằng dịch vụ này phải dừng ngoài kế hoạch ở trạm tiếp theo do... một lái tàu mất tích. Chặng dừng ngoài kế hoạch này sẽ tiếp diễn trong suốt khoảng thời gian cần thiết để tìm được người thay thế thích hợp. Đường sắt SouthNet đảm bảo với quý vị rằng chúng tôi đang nỗ lực hết sức...” Tôi cảm nhận rõ một tiếng cười khẩy ở sau lưng người nói! “... để khôi phục tiêu chuẩn dịch vụ xuất sắc của chúng tôi như thường lệ.” Cơn thịnh nộ đường sắt phản ứng liên hoàn qua các toa tàu, dù ở thời đại của chúng ta tội ác không gây ra bởi những tên tội phạm tiện đâu làm đấy mà bởi những ông chủ ở xa tít ngoài tầm với của đám đông, ở tận những tổng hành dinh bằng kính và thép xây kiểu hậu hiện đại ở London. Dù sao thì một nửa đám đông đang sở hữu cổ phần trong thứ mà họ sẽ nghiền nát thành nguyên tử này.

Thế là chúng tôi ngồi đấy. Tôi ước gì mình đã đem theo thứ gì đó để đọc. Ít nhất tôi có một chỗ ngồi, và tôi sẽ không nhường ghế cho dù là Helen Keller. Bầu trời đêm xanh màu chanh. Những cái bóng gần đường ray trở thành hình khối. Hành khách gọi điện thoại di động cho gia đình. Tôi tự hỏi ông quan tòa người Úc ranh mãnh đó làm sao mà biết được chuyện gì lóe lên trong đầu những kẻ bị cá mập ăn thịt. Những chuyến tàu tốc hành may mắn, không có lái tàu mất tích, lao qua. Tôi cần đi vệ sinh, nhưng nghĩ đến thôi cũng đã chịu không nổi rồi. Tôi mở cặp ra để tìm kẹo Werner nhưng lại thấy Những chu kỳ bán rã – Bí ẩn đầu tiên về Luisa Rey. Tôi xem qua vài trang đầu. Quyển sách này sẽ hay hơn nếu Hilary V. Hush không làm ra vẻ quá thông minh và gượng ép nghệ thuật. Cô ta chia cuốn sách thành từng chương rất gọn gàng, chắc chắn là vừa viết vừa nghĩ đến ngày chuyển thể nó thành kịch bản Hollywood. Tiếng rè rít lên trong loa. “Đây là thông báo gửi đến hành khách. Đường sắt SouthNet lấy làm tiếc rằng không thể tìm thấy một lái tàu phù hợp cho chuyến tàu này nên chúng ta sẽ đến ga Little Chesterford rồi sắp xếp một chuyến xe đò miễn phí đưa hành khách đi tiếp đến Cambridge. Những ai có điều kiện được khuyến khích sắp xếp cách di chuyển khác, vì xe đò dự kiến đến ga Little Chesterford (cái tên ấy cứ ngân nga trong ký ức tôi!) sau... một khoảng thời gian không xác định. Để biết thêm chi tiết xin tìm trên trang web của chúng tôi.” Chiếc tàu bò một dặm trong ánh chiều chạng vạng. Dơi và rác rưởi cuộn theo gió lướt qua chúng tôi. Ai đang điều khiển tàu lúc này nếu họ không có một người lái tàu?

Dừng, rùng mình, cửa mở ra. Những cơ thể khỏe mạnh hơn tràn ra khỏi tàu, lên trên cầu bộ hành, để lại tôi và một vài kẻ vô dụng lề mề với tốc độ bằng một phần tư. Tôi nhọc nhằn đi lên các bậc thang, và dừng lại để thở. Tôi ở đấy. Đứng trên cây cầu bộ hành ở nhà ga Little Chesterford. Quỷ tha ma bắt, bị bỏ rơi ở đây, chứ chẳng phải nhà ga vùng sâu vùng xa nào khác. Lối xưa xe ngựa dẫn đến nhà cũ của Ursula vẫn nằm ven theo cánh đồng ngô. Tôi chẳng còn nhận ra gì nhiều. Kho thóc thiêng liêng nơi chứng kiến Nụ hôn dài nhất nay đã thành Câu lạc bộ thẩm mỹ hạng nhất của Essex. Ursula đã gặp tôi trong chiếc Citroen đêm hôm đó vào tuần lễ đọc sách ở học kỳ đầu tiên, đúng rồi... ở tam giác rải sỏi này, ngay đây. Thật du mục làm sao, chàng trai Tim khi ấy từng nghĩ thế, khi được một cô gái gặp trong xe ô tô. Tôi là Tutankhamun IV trong chiếc thuyền hoàng gia, được chèo bởi những tên nô lệ Nubian đến Đền Tế lễ. Ursula lái xe chở tôi vài trăm mét đến Dockery House, do một quan viên người vùng Scandinavi xây theo phong cách nghệ thuật cách tân. Ở đó chẳng có ai ngoài chúng tôi, lúc bấy giờ bố mẹ nàng đang ở Hi Lạp nghỉ mát với Lawrence Durrell, nếu tôi nhớ không nhầm. (“Nhớ không nhầm.” Thật là một cặp từ biết đánh lừa.)

Bốn thập niên sau, ánh đèn từ những chiếc xe trong bãi đỗ xe chiếu sáng nhung nhúc những cô gái chân dài, và một quý ông ngành xuất bản đang tị nạn trong chiếc áo mưa phần phật, bước lang thang một cánh đồng đang bị bỏ hoang chờ trợ cấp từ EU. Hẳn bạn cho rằng một nơi có diện tích bằng nước Anh thì dễ dàng chứa đựng mọi biến cố trong một đời người nhỏ nhoi mà không bị trùng lặp nhiều, ý tôi là mình đâu phải đang sống trong xứ Luxembourg nhỏ xíu chứ, nhưng không, chúng tôi băng ngang, băng dọc, băng xéo qua những con đường cũ của mình như những nghệ sĩ trượt băng. Dockery House vẫn ở đó, cách biệt với hàng xóm láng giềng bởi một hàng rào cây thủy lạp. Ngôi nhà này từng khiến tôi cảm thấy mình sang trọng làm sao so với cái hộp tẻ nhạt ở vùng ngoại ô của bố mẹ – Một ngày nào đó, tôi tự nhủ, mình sẽ sống trong một ngôi nhà như thế này. Một lời hứa nữa mà tôi đã không giữ được; cũng may đó chỉ là lời tôi tự hứa với mình. Tôi vòng qua phía bên hông ngôi nhà, xuôi con đường dẫn đến một công trường.

Một bảng hiệu đề chữ: Hazle Close – Nhà giá trị cao tại trung tâm nước Anh. Ở các tầng trên Dockery, đèn điện bật sáng. Tôi tưởng tượng một đôi vợ chồng không con cái đang nghe đài. Cánh cửa kính màu cũ đã được thay thế bằng cửa chống trộm. Tuần lễ đọc sách đó, tôi đã bước vào Dockery, sẵn sàng để lột bỏ sự trinh trắng đáng xấu hổ của mình, nhưng tôi đã quá sửng sốt trước Nữ thần Cleopatra của mình, quá hồi hộp, quá mở to mắt dán vào chai rượu whisky của bố nàng, quá căng tràn nhựa sống đến nỗi, ái chà, tôi thà kéo bức màn che lại đêm đáng xấu hổ ấy, ngay cả sau bốn mươi năm. Thôi được, bốn mươi bảy năm. Cũng cây sồi lá trắng đó đã cào vào cửa sổ nhà Ursula khi tôi nỗ lực thể hiện, rất lâu sau khi tôi tử tế giả vờ rằng tôi vẫn còn đang khởi động. Ursula có một đĩa hát bản concerto cho đàn piano của Rachmaninov trong phòng ngủ, căn phòng ở hướng đó, nơi ngọn nến điện phát sáng qua khung cửa sổ.

Đến tận hôm nay tôi vẫn không thể tránh gờn gợn trong lòng mỗi khi nghe Rachmaninov.

Khả năng Ursula vẫn còn sống ở Dockery House gần như là số không, tôi biết. Lần gần đây nhất, tôi nghe nói nàng đang điều hành một văn phòng chuyên lo quan hệ công chúng ở Los Angeles. Dẫu vậy, tôi vẫn chui qua hàng rào cây xanh rồi dán mũi lên cửa sổ phòng ăn không có rèm, không mở đèn, cố gắng nhìn vào bên trong. Vào một đêm mùa thu rất lâu về trước, Ursula mời tôi món ức gà phủ thịt hun khói và phô mai nướng. Ở ngay đấy – ngay tại đây. Tôi vẫn còn có thể nếm được mùi vị đó. Tôi vẫn còn có thể nếm được nó trong lúc viết những từ này.

Chói lòa!

Căn phòng bật sáng trong ánh đèn điện màu vàng, và bằng những bước như điệu van – bước lùi, may mắn cho tôi – một cô phù thủy tí hon có những lọn tóc xoăn tít màu đỏ bước vào. “Mẹ ơi!” tôi nửa nghe, nửa đọc khẩu hình qua cửa kính. “Mẹ ơi!” và người mẹ bước vào, với mái tóc cũng xoăn tít y hệt. Điều này đã đủ làm bằng chứng cho thấy gia đình Ursula đã dọn khỏi ngôi nhà từ lâu, tôi lùi ra bụi rậm – nhưng tôi quay lại một lần nữa và tiếp tục rình mò vì... à, vì, e hèm, je suis un homme solitaire (Tôi là một người cô đơn). Người mẹ đang sửa cán chổi bị hỏng trong khi cô bé ngồi đung đưa chân trên bàn. Một người sói bước vào và tháo mặt nạ ra, và, thật kỳ lạ, dù xét kỹ cũng không lấy gì làm lạ, tôi nhận ra anh ta – anh chàng dẫn chương trình thời sự trên truyền hình, một thành viên của bộ lạc Felix Finch. Jeremy Gì đó, lông mày Heathcliff, phong cách rất ngầu, hẳn bạn hình dung kiểu đàn ông đó. Anh ta lấy một ít băng dán từ ngăn kéo chiếc tủ quần áo xứ Wales rồi xắn tay tham gia vào công việc sửa cán chổi. Rồi người bà bước vào câu chuyện gia đình này và trời đất thánh thần thiên địa ơi, đó là Ursula. Ursula đó. Ursula của tôi.

Hãy nhìn người phụ nữ lớn tuổi nhanh nhẹn đó! Trong trí nhớ của tôi, bà vẫn không già đi một ngày nào – nghệ sĩ trang điểm nào đã tàn phá tuổi thanh xuân mơn mởn của bà? (Cũng chính là kẻ đã tàn phá tuổi thanh xuân của mi đó, Timbo à.) Bà nói chuyện, khiến con gái và cháu ngoại cười khúc khích, đúng thế, cười khúc khích, và tôi cười theo... Cái gì? Bà ấy nói cái gì? Hãy kể cho tôi nghe chuyện cười đó! Bà nhét những quả bóng giấy báo vào một chiếc tất màu đỏ. Đuôi con quỷ. Bà gắn nó vào sau mông bằng kim băng, và một ký ức từ một Lễ hội Halloween ở trường đại học làm nứt một vết trên rìa cứng của trái tim tôi, khiến thứ bên trong tràn ra – hồi đó bà cũng hóa trang thành một cô quỷ nhỏ, bà sơn mặt màu đỏ, chúng tôi hôn nhau suốt đêm, chỉ hôn thôi, rồi sáng hôm sau chúng tôi tìm một tiệm cà phê dành cho những cánh thợ xây, bán trà sữa đựng trong tách bẩn nhưng được cái đậm đặc, và rất nhiều trứng đủ để nhồi no, nhồi chết cả quân đội Thụy Sĩ. Bánh mì nướng và cà chua đóng hộp. Sốt HP. Hãy thành thật đi, Cavendish, có bữa ăn sáng nào khác trong đời mi được ngon lành như thế không?

Say khướt với bao kỉ niệm, tôi ra lệnh cho mình rời đi trước khi làm chuyện gì dại dột. Một giọng láo xược cách đó chỉ vài mét cất lên – “Không được nhúc nhích, nếu không ta sẽ đập nát mông nhà ngươi và cho vào nồi thịt hầm!”

Ngạc nhiên chưa? Mau mà bỏ chạy cong đít đi! May mắn là tên đồ tể của tôi chỉ chưa quá mười tuổi và chiếc cưa của nó chỉ là giấy bồi, nhưng những miếng băng đầy máu me của nó trông khá giống thật. Với giọng rất nhỏ, tôi bảo nó như thế. Nó nhăn mặt với tôi: “Ông có phải là bạn của Ngoại Ursula không?”

“Ngày xửa ngày xưa, phải, ông từng là bạn.”

“Ông biến thành ai để đến dự tiệc thế? Đồ hóa trang của ông đâu?”

Đã đến lúc đi rồi. Tôi lùi lại hàng rào cây xanh. “Đây là đồ hóa trang của ông rồi.” Nó ngoáy mũi. “Một người chết được đào lên từ nghĩa địa à?”

“Hay lắm, nhưng mà không phải. Ông làm Hồn ma của Giáng sinh quá khứ.”

“Nhưng đây là Halloween mà, đâu phải Giáng sinh đâu.”