Orison của Sonmi ~ 451
Vậy thì Hae-Joo Im là ai, nếu anh ta “không hẳn là người anh ta từng nhận”?
Tôi làm chính mình ngạc nhiên khi tự trả lời câu hỏi đó: “Liên Đoàn.”
Hae-Joo nói, “Đó là niềm vinh dự của tôi, đúng vậy.”
Sinh viên Xi-Li cực kỳ bấn loạn.
Hae-Joo nói với tôi nếu tôi không đặt niềm tin vào anh ấy, tôi sẽ chết trong vài phút nữa.
Tôi gật đầu đồng ý, tôi sẽ tin anh ấy.
Nhưng anh ta đã nói dối với cô về thân thế của mình – tại sao lại tin anh ta lần này? Sao cô biết chắc chắn rằng anh ta không định bắt cóc cô?
Tôi có biết chắc chắn đâu. Quyết định của tôi cũng chỉ là cảm tính mà thôi. Tôi chỉ có thể hi vọng thời gian sẽ chứng minh quyết định đó là có cơ sở. Chúng tôi bỏ dở Timothy Canvedish với vận mệnh mờ mịt của ông ta và khẩn trương tìm đến vận mệnh của mình, chạy xuống cầu thang; thang cuốn có thể đọc được Soul và có thể được kiểm soát để cài bẫy chúng tôi. Các hành lang trôi qua, cửa chống cháy đung đưa, những lối đi chìm vào bóng tối. Hae-Joo gần như xốc tôi đi xuống cầu thang; không có thời gian để tôi tự tìm cách xoay xở.
Ở tầng hầm phụ, ông Chang đang đợi trong một chiếc ford giản dị. Chúng tôi không có thời gian chào hỏi. Chiếc xe tăng tốc qua một loạt đường hầm và bãi đỗ ford. Ông Chang liếc nhìn sony, báo rằng đường đi hướng bắc và hướng đông đã bị phong tỏa, nhưng đường trượt có vẻ vẫn còn đi được và người của họ sẽ đợi họ ở đó.
Hae-Joo yêu cầu tìm cách đi đường trượt. Sau đó anh lấy ra một chiếc dao bấm từ ví tiền rồi cắt đầu ngón tay trái, nặn ra một quả trứng kim loại bé xíu. Ném nó ra từ cửa xe, anh yêu cầu tôi ném bỏ chiếc Nhẫn Soul của mình theo cách đó. Xi-Li cũng cắt Soul của anh ta.
Liên Đoàn viên thực sự cắt bỏ Soul bất tử mà Chủ Thể ban cho họ sao?
Nếu không thì một phong trào phản kháng làm sao để tránh né Nhất Đảng? Không làm thế thì họ có nguy cơ bị phát hiện mỗi khi vượt qua chốt đèn giao thông. Chiếc ford chạy ôm theo một đoạn dốc và một cơn bão phosphate làm nổ tung cửa sổ; kim loại nghiến ken két; chiếc ford cào dọc bức tường, va chạm một cú thật mạnh rồi dừng lại đột ngột.
Từ nơi ẩn nấp tôi nghe thấy nhiều tiếng súng nổ.
Chiếc ford rung lên rồi tăng tốc; tôi nghe tiếng thân người bị hất khỏi xe. Một tiếng rên rỉ vang lên: đó là Xi-Li. Hae-Joo chĩa súng vào đầu Xi-Li rồi bóp cò.
Cái gì? Tại sao?
Đạn của Nhất Đảng chứa kalodoxalyn và siêu hoạt khí, sau này tôi mới biết. Kalodoxalyn là một chất độc có thể nướng chín nạn nhân trong đau đớn, vì vậy tiếng gào thét sẽ tố cáo nơi ẩn nấp của anh ta; siêu hoạt khí giúp cho anh ta không bị bất tỉnh. Xi-Li gục xuống ở tư thế bào thai. Hae-Joo hạ khẩu súng. Chàng nghiên cứu sinh vui vẻ mà tôi từng biết đã biến mất; tôi tự hỏi liệu anh ấy có bao giờ thực sự như thế.
Mưa gió lùa vào những cửa sổ bị bắn vỡ. Ông Chang cho xe chạy vào một con hẻm đầy rác rưởi chật hẹp, hất tung các đường ống cống, cho đến khi ra đường vành ngoài. Phía trước là những ánh đèn chớp tắt màu đỏ-xanh ở các cánh cổng khu học xá. Một chiếc không cơ lơ lửng phạt ngay cây cối; tiếng loa phóng thanh cấp bách phát lệnh loạn xạ cho ai chẳng biết. Ông Chang bảo chúng tôi bám chắc, tắt máy rồi đánh tay lái lao ra khỏi làn đường. Chiếc ford nảy lên; trần xe đập vào đầu tôi đau điếng; bằng cách nào đó Hae-Joo vẫn che chở được cho tôi. Chiếc ford tăng tốc, lấy lại trọng lượng lẫn phi trọng lượng.
Tôi nhớ cú rơi xuống: nó làm long ra một ký ức thuở xa xưa về bóng đêm, lực quán tính, trọng lực, về lúc mắc kẹt trong một chiếc ford khác; tôi không thể tìm ra nguồn gốc những ký ức của chính mình.
Tre trúc bị xẻ toạc, kim loại bẹp dúm, xương sườn tôi đập xuống sàn. Sự hỗn loạn và tiếng ồn xóa nhòa tất cả.
Chiếc ford đã chết máy. Tôi nghe tiếng côn trùng rỉ rả và tiếng mưa tí tách trên lá, rồi những tiếng thì thầm khẩn trương. Tôi bị đè chặt bên dưới Hae-Joo, lúc này đang cựa quậy và rên rỉ. Một ánh đèn chiếu vào mắt tôi; người cầm đèn hỏi có ai còn tỉnh không. Tôi nghe tiếng ông Chang nhờ mở cửa xe. Không lâu sau những bàn tay kéo Hae-Joo, ông Chang và tôi ra khỏi chiếc ford nát bét; tôi bị bầm dập nhưng không chấn thương nặng. Thi thể của Xi-Li được để nguyên vị trí. Những khuôn mặt lo lắng, những khuôn mặt quyết tâm, những khuôn mặt hiếm khi ngủ đủ: thành viên Liên Đoàn. Tôi được đưa xuống một miệng cống. Tay tôi nắm chặt những nấc thang; đầu gối bò lết dọc theo một đường hầm ngắn. Thêm nhiều cánh tay đỡ tôi vào một nơi mà sau này tôi mới nhận ra là tiệm cơ khí. Tôi được đặt vào một chiếc ford thông minh hai chỗ ngồi. Mệnh lệnh được ban hành; thông điệp được truyền đạt. Cửa xe phía tài xế mở ra và Hae-Joo chui vào rồi nổ máy. Cửa garage giật bung ra.
Chúng tôi lái xe qua những con đường nhỏ ngoại ô trước khi bẻ lái vào một đường huyết mạch đang kẹt xe. Những chiếc ford xung quanh chở những hành khách cô đơn, những cặp đôi hò hẹn, những gia đình nhỏ, có xe điềm tĩnh, có xe om sòm. Tôi nhận ra ông Chang đã biến mất không lời từ biệt, một lần nữa. Khi Hae-Joo cuối cùng cũng lên tiếng, giọng anh run run. Anh nói nếu anh bị trúng đạn, tôi phải lập tức trợ tử cho anh như anh đã làm với Xi-Li.
Tôi không biết phải trả lời thế nào. Liên Đoàn viên xin tôi hãy kiên nhẫn thêm một chút nữa, nói rằng nếu chúng tôi bị bắt lúc này thì tôi biết càng ít càng tốt. Anh nói thêm, chúng tôi còn một đêm bận rộn trước mắt. Đầu tiên, chúng tôi phải đến Huamdonggil. Anh có bao giờ đến thăm khu đó chưa, Lưu Trữ Viên?
Chưa. Tôi sẽ bị Bộ đuổi cổ nếu bị phát hiện có mặt ở một khu ổ chuột á nhân[55]. Cô đã thấy gì ở đó?
Huamdonggil là một mê cung nguy hiểm với các phần tử tệ nạn, nhà tranh vách đất, quán trọ rẻ tiền, hiệu cầm đồ, tiệm thuốc phiện và những tổ ấm thuộc về một thế giới tăm tối hơn. Hae-Joo đỗ chiếc ford ở một bãi có khóa, dặn tôi phải trùm mũ che đầu và mắt lại, vì những người nhân bản vô tính bị ăn cắp thường được đưa vào các nhà chứa trong khu ổ chuột – sau những ca phẫu thuật vụng về để có thể hành nghề.
Những con hẻm quanh co và đường ống rỉ nước cống. Nhiều người thường ngồi gục trên các bậu cửa, da họ bị viêm tấy do tiếp xúc quá lâu với thứ nước mưa nóng bỏng của thành phố. Trẻ con chơi té nước từ những vũng ao tù nước đọng. Tôi hỏi ai sống ở đây, Hae-Joo kể các bệnh viện đã rút cạn Soul của những di dân mắc bệnh viêm não hoặc phổi nhiễm chì cho đến khi họ chỉ còn đủ đô la cho một liều thuốc trợ tử – hoặc một chuyến đến Huamdonggil.
Tôi không hiểu nổi tại sao di dân lại rời bỏ các Khu Sản Xuất của họ để đến với một vận mệnh như thế này. Hae-Joo liệt kê bệnh sốt rét, lũ lụt, hạn hán, hoa màu bị dịch bệnh, ký sinh trùng, đất chết xâm lấn, và một mong ước giản dị là cuộc sống tốt hơn cho con cái họ. Anh an ủi tôi rằng tập đoàn Papa Song còn nhân đạo chán so với những nhà máy khiến nhiều di dân phải bỏ của chạy lấy người. Bọn buôn người hứa hẹn với họ rằng ở khu Mười Hai Đô Thị, đô la rơi từ trên trời xuống – di dân tin điều đó, và chỉ phát hiện ra sự thật khi họ đã trở thành á nhân. Bọn buôn người chỉ đưa người ta đi một chiều. Hae-Joo đẩy tôi tránh một con chuột hai đầu kêu meo meo, cảnh báo rằng chúng thích cắn người.
Tôi hỏi tại sao Hội đồng Thành phố lại chấp nhận một sự bẩn thỉu thế này.
Hae-Joo kể rằng Huamdonggil được xem như một cái bồn xả hóa chất nơi những chất thải không mong muốn của con người từ từ phân hủy, một cách kín đáo; nhưng không hẳn là vô hình. Những khu ổ chuột á nhân thúc đẩy người tiêu dùng tầng lớp dưới bằng cách cho họ thấy điều gì chờ đợi những kẻ không biết tiêu xài và lao động như những công dân gương mẫu. Các doanh nghiệp thì lợi dụng khoảng chân không pháp luật để dựng lên những khu vui vẻ ghê tởm trong các khu ổ chuột, Huamdonggil tồn tại nhờ trả thuế và hối lộ cho tầng lớp trên. MediCorp mở một bệnh viện hàng tuần cho những á nhân sắp chết để đổi những bộ phận cơ thể còn khỏe mạnh lấy thuốc trợ tử; OrganiCorp thì có được một hợp đồng béo bở với khu đô thị để gửi những nhóm người nhân bản vô tính miễn dịch – không khác với người thảm họa là mấy – mỗi ngày đến dọn dẹp xác chết trước khi ruồi muỗi bâu đầy. Người dẫn đường của tôi khi đó bảo tôi giữ im lặng, vì chúng tôi đã đến nơi.
Chính xác thì đó là gì?
Tôi nhớ được một quán mạt chược có thanh rầm sơn trắng để ngăn nước cống không chảy vào; nhưng bây giờ thì tôi chịu, có nhìn cũng không nhận ra tòa nhà đó lần nữa. Huamdonggil không đánh số nhà hoặc chia bản đồ. Hae-Joo gõ cửa, một ô mắt chớp nháy, then cửa mở lách cách, và một người gác cổng mở cửa ra. Chiếc áo giáp của ông ta lấm bẩn, thanh sắt ông ta cầm có khả năng sát thương, và ông ta gầm gừ bảo chúng tôi đợi Ma Arak Na ở đó. Tôi thắc mắc không biết ông ta có đeo vòng cổ người nhân bản vô tính dưới cổ áo hay không.
Một hành lang ngập ngụa khói rẽ khuất tầm mắt, trên tường đầy những màn cửa giấy. Tôi nghe tiếng chơi mạt chược; ngửi thấy mùi bàn chân; nhìn những người phục vụ ăn mặc kỳ dị bê những khay đựng thức uống. Nét mặt hối hả của họ chuyển thành nét hân hoan nữ tính mỗi khi họ kéo mở màn cửa giấy. Tôi làm theo Hae-Joo và cởi nike ra, đôi giày đã bị vấy bẩn bởi những con hẻm Huamdonggil.
“Cậu sẽ không đến đây nếu tin tức không quá xấu,” tôi nghe một giọng nói chối tai. Chủ nhân của nó nói với chúng tôi từ một cửa sập trên trần. Tôi không biết chắc đôi môi có màng, đôi mắt hình bán nguyệt và tiếng nói đứt quãng của bà ta là được lập trình hay biến đổi gien. Những ngón tay chạm ngọc lộm cộm của bà ta nắm lấy mép cánh cửa sập.
Hae-Joo di chuyển thẳng đến dưới ô vuông và trò chuyện với Ma Arak Na, người mà tôi đoán là bà chủ của khu nhà này. Liên Đoàn viên nói với bà ta rằng một chi bộ đã gặp nạn, Mephi và chi bộ của ông ta đã bị bắt còn Xi-Li đã chết.
Lưỡi của Ma Arak Na dài gấp đôi bình thường; bà ta dùng nó để đuổi một con ruồi. Đôi mắt bà ta lóe sáng trong bóng tối căn gác. Bà ta hỏi đại họa đã lây lan bao nhiêu. Hae-Joo đáp anh đến đây cũng là để làm rõ chính câu hỏi đó. Bà chủ khu nhà bảo chúng tôi di chuyển sang phòng khách.
Phòng khách?
Một căn phòng trống nằm sau một nhà bếp ồn ào và một bức tường giả, thắp sáng bằng một đèn mặt trời yếu ớt. Một tách nước chanh màu ngọc đỏ nằm trên mép một lò than bằng gang có tuổi thọ cao hơn cả tòa nhà, có khi là cả thành phố. Chúng tôi ngồi lên những tấm đệm đã sờn trên sàn nhà. Hae-Joo uống một ngụm nước chanh rồi nói tôi đã có thể bỏ mũ trùm ra. Tiếng giậm chân và tiếng cót két vọng ra từ trần nhà lót ván, một cánh cửa sập mở ra, khuôn mặt của Ma Arak Na xuất hiện. Bà ta nhìn thấy mặt tôi nhưng trong giọng nói không biểu lộ sự ngạc nhiên.
Chiếc lò than cổ kêu rè rè với một mạch điện cực kỳ hiện đại. Một trường bóng tối và im lặng hình cầu tỏa ra cho đến khi bao phủ toàn phòng khách, xóa nhòa tiếng ồn trong nhà bếp. Ánh sáng ngũ sắc phía trên chiếc lò than hóa thành một con cá chép.
Cá chép? Là một loại cá đấy à?
Một con cá chép thiêng dài nửa mét, màu ngọc trai và cam, thân có những đốm mốc, râu dài. Một cú quẫy đuôi lười nhác đẩy con cá tiến về phía tôi. Rễ những cây bông súng rẽ ra khi con cá di chuyển. Đôi mắt cổ đại của nó đọc đôi mắt tôi; những chiếc vây hai bên gợn sóng, làm cho nó nổi bồng bềnh. Con cá chép chìm xuống vài tấc để đọc vòng cổ tôi, và tôi nghe tiếng một ông già đọc lên tên mình. Tôi nhìn Hae-Joo, nhưng chẳng thấy được anh ấy qua làn không khí u ám dưới nước.
“Tôi cảm kích sâu sắc khi nhìn thấy cô,” giọng nói 3D được thu âm nghe học thức nhưng rời rạc, “cũng như rất hân hạnh được gặp cô.” Con cá chép giới thiệu mình là An-Kor Apis thuộc Liên Đoàn, và xin lỗi vì sự thể hiện hình ảnh đầy tính ước lệ; ngụy trang là tối quan trọng, vì Nhất Đảng đang rà soát mọi tần số vào đêm hôm đó.
Tôi trả lời rằng mình hiểu, một cách ngập ngừng.
An-Kor Apis hứa tôi sẽ sớm hiểu ra nhiều hơn, và xin tôi hãy kiên nhẫn thêm một chút nữa. Con cá chép quẫy đuôi tiến về Hae-Joo, gọi người đồng hành của tôi là Chỉ huy Im.
Hae-Joo báo cáo anh đã trợ tử cho Xi-Li.
Apis nói ông đã biết tin này, và không có liều thuốc gây tê nào cho nỗi đau của Hae-Joo. Ông nhắc Hae-Joo rằng Nhất Đảng đã giết Xi-Li; Hae-Joo đã giải thoát cho cậu ấy, và ông động viên Hae-Joo phải đảm bảo rằng sự hi sinh của Xi-Li đã không uổng phí. Tiếp đó là phần tóm tắt tình hình: sáu chi bộ đã bị bại lộ, và mười hai chi bộ nữa bị cắt đứt. Chủ tịch Mephi đã tìm cách tự kết liễu trước khi bị tra tấn. Sau đó con cá chép ra lệnh cho Hae-Joo đưa tôi rời khu đô thị qua Cổng Tây Một, đi tiếp về phía bắc có hộ tống; và nghĩ kỹ về những gì ông đã dặn.
Con cá chép bơi một vòng, biến mất vào bức tường của phòng khách, trước khi tái xuất hiện qua ngực tôi. “Cô đã khéo chọn bạn đấy, Sonmi,” Apis nói với tôi. “Chúng ta có thể cùng nhau đạt được thay đổi, những thay đổi lớn, những thay đổi lịch sử để chuyển hóa xã hội chúng ta.” Ông ta hứa chúng tôi sẽ sớm gặp lại nhau.
Khối cầu thu trở lại vào chiếc lò than khi phòng khách trở lại trạng thái ban đầu. Con cá chép trở thành một vệt ánh sáng, một chấm nhỏ; rồi chẳng còn gì.
Hae-Joo dự định làm cách nào để băng qua lối ra khu đô thị mà không có Soul trong ngón trỏ?
Người cấy Soul được đưa đến sau đó vài phút. Một người đàn ông mảnh khảnh, ẩn danh, ông ta xem xét ngón tay bị rách của Hae-Joo với một sự tỉ mỉ chuyên nghiệp; gắp ra một mẩu tí hon từ một túi keo lỏng; cấy nó vào mô sống rồi xịt da lên ngón tay. Tôi tự hỏi làm cách nào mà một chấm nhỏ trông hết sức tầm thường như thế lại có thể ban quyền tiêu dùng cho người giữ nó trong khi kết án thân phận nô dịch tồi tệ cho những kẻ thiếu nó. “Tên mới của anh là Ok-Kyun Pyo,” người cấy Soul nói với Hae-Joo, và nói thêm rằng bất kỳ sony nào cũng có thể tải về lịch sử của anh.
Người cấy Soul quay sang tôi, vừa nói vừa lấy ra một chiếc kềm laser. Ông ta giải thích tia laser này cắt được thép nhưng không bao giờ làm xước một mô sống nào, vì vậy tôi sẽ chỉ cảm thấy hơi nhột một tí mà thôi. Tôi nghe một tiếng tách. “Bây giờ đến mã vạch dưới da.” Người cấy Soul phết thuốc gây tê lên cổ họng tôi, báo trước rằng tiếp theo sẽ đau, nhưng phần ẩm của lưỡi dao sẽ ngăn không cho mã vạch nổ tung khi tiếp xúc với không khí và cắt lìa đầu tôi khỏi người.
“Thật tài tình,” Hae-Joo lẩm bẩm. Anh nắm tay tôi.
“Tất nhiên là tài tình rồi,” người cấy Soul đáp lời. “Tôi chính là người thiết kế ra nó mà.” Ông ta tiếc rẻ vì đã không đăng ký bằng sáng chế và bảo Hae-Joo chuẩn bị sẵn một miếng vải để thấm máu. Một cơn đau như dao cắt xé toạc cổ họng tôi. Hae-Joo thấm máu; người cấy Soul cho tôi xem mã vạch của Sonmi~451 kẹp trên đầu nhíp và cho tôi biết ông ta sẽ đích thân vứt bỏ nó một cách cẩn thận. Ông ta xịt thuốc lên vết thương của tôi rồi bôi một lớp hóa trang màu da, dặn tôi thay băng trước khi ngủ. “Còn bây giờ,” ông nói tiếp, “tôi đã phạm phải một tội ác quá mới mẻ đến nỗi nó còn chưa có tên. Cấy Soul cho một người nhân bản vô tính. Nhưng thay vì nhận được một huy hiệu bằng đồng, một nobel về thành tích khoa học xuất sắc và một chức vụ ngồi chơi xơi nước ở trường đại học, thì tôi chỉ nhận được mỗi một băng ghế đảm bảo ở Ngọn hải đăng mà thôi.”
Và một đoạn trong lịch sử đấu tranh chống lại tập đoàn, Hae-Joo nhận xét.
Người cấy Soul đáp, “Cám ơn, người anh em. Cả một đoạn dài.” Cuộc phẫu thuật diễn ra thật nhanh chóng. Ông ta đặt bàn tay phải của tôi lên một miếng vải, bôi thuốc tê, rạch lên đầu thịt của ngón trỏ, chấm bông băng để thấm máu, gắp Soul của tôi cho vào vết cắt, rồi xịt thuốc mọc da lên để che mọi bằng chứng về sự tiến hóa đột ngột của tôi lên tầng lớp con người. Lần này sự mỉa mai của ông phản bội thái độ trịnh trọng nghiêm túc. “Cầu cho Soul của cô sẽ đem lại cho cô nhiều may mắn ở miền đất hứa, cô em Yun-Ah Yoo ạ.”
Tôi cám ơn ông. Tôi đã quên hẳn rằng Ma Arak Na đang quan sát từ cửa sập trên trần nhà. “Em Yoo tốt nhất nên có một khuôn mặt mới cho Soul mới của mình,” bà ta nói, “nếu không sẽ có vài câu hỏi bất tiện xuất hiện từ đây đến miền đất hứa đấy.”
Vậy tôi đoán điểm đến tiếp theo của cô là thợ căng da mặt.
Đúng vậy. Người gác cửa đưa chúng tôi đến tận Đường T’oegyero, ở biên giới phía bắc của Huamdonggil. Chúng tôi đi tàu điện ngầm đến một trung tâm thương mại từng rất thịnh hành ở Shinch’on rồi đi thang cuốn qua những ngọn đèn chùm ngân nga những bài thánh thi của Chủ tịch Toàn năng, đến một địa phận vắng vẻ ở tầng mái che, nơi chỉ những người khách biết rõ điểm đến của mình mới bén mảng. Hae-Joo dẫn tôi qua những ngã rẽ có lối vào bí mật và những bảng tên mã hóa đến một cánh cửa đơn giản. Một bông hoa lily màu cam nở trong hốc tường. “Đừng nói chuyện với bà chủ,” anh dặn tôi, trong lúc bấm chuông. “Gai bà ta nhọn lắm, phải nhẹ tay mới được.”
Hoa lily cam nổi vằn sáng rực và hỏi chúng tôi đến có việc gì.
Hae-Joo đáp chúng tôi có hẹn với Bà Ovid.
Bông hoa co lại để nhìn chúng tôi rồi bảo chúng tôi đợi.
Cửa mở ra: “Tôi là Bà Ovid đây,” một người phụ nữ có làn da màu ngà tuyên bố, “và không có cuộc hẹn nào như thế cả.” Thuốc hồi xuân đã đóng băng vẻ đẹp nghiệt ngã của bà ta ở tuổi đôi mươi, từ rất lâu trước đó, nhưng giọng bà ta thì đanh như tiếng cưa. “Chuyên viên sinh mỹ phẩm của chúng tôi chỉ nhận làm cho người được giới thiệu riêng. Thử đến những ‘người làm mặt’ ở các tầng dưới xem sao.”
Cánh cửa đóng sầm trước mặt chúng tôi.
Hae-Joo hắng giọng rồi nói vào hoa lily cam. “Xin vui lòng thông báo với Bà Ovid khả kính,” anh nói, “rằng Phu nhân Heem-Young gửi lời chào trân trọng.”
Một sự im lặng tiếp nối. Hoa lily cam đỏ ửng lên rồi hỏi chúng tôi đi đường có xa không. Tôi nhận ra một loạt mật mã.
Hae-Joo nói nốt. “Đi đường đủ xa, ta gặp lại mình.”
Bà Ovid mở cửa nhưng mặt vẫn giữ nguyên vẻ khinh khỉnh. “Ai mà dám cãi lời Phu nhân Heem-Young chứ?” Bà ta bảo chúng tôi đi theo, không được ngó nghiêng. Nội thất của những lối đi che rèm được thiết kế để tạo sự riêng tư tối đa. Đèn mặt trời rất tối và máy làm ẩm hút hết mọi giọng nói lẫn bước chân. Sau một phút đi qua những hành lang treo rèm, Bà Ovid búng ngón tay, một trợ lý lặng lẽ đi theo chúng tôi. Cánh cửa mở ra, dẫn vào một studio sáng hơn và giọng nói của chúng tôi trở lại. Đồ nghề của thợ căng da mặt lóe sáng trong ánh đèn mặt trời tiệt trùng. Bà Ovid bảo tôi bỏ mũ trùm ra. Bà ta không lộ vẻ ngạc nhiên trước khuôn mặt người phục vụ của tôi. Tôi nghi bà ta chưa bao giờ đặt chân đến Papa Song. Bà ta hỏi chúng tôi có bao nhiêu thời gian cho ca giải phẫu này.
Khi Hae-Joo đáp rằng chúng tôi phải đi sau chín mươi phút nữa, Bà Ovid đánh mất sự bình tĩnh sắc tựa mũi kim. “Vậy thì việc gì phải tìm đến một nghệ sĩ?” bà hỏi. “Sao không tự làm với kẹo cao su wrigley và son môi cho rồi? Bộ phu nhân Heem-Young tưởng Lily Cam là tiệm thợ nề giảm giá treo hình trước và sau khi tô trét trên cửa sổ à?”
Hae-Joo vội giải thích rằng anh không mong một sự biến đổi toàn diện – chỉ cần chỉnh sửa thẩm mỹ để đánh lừa Con mắt khi nhìn thoáng qua thôi. Chín mươi phút là một khoảng thời gian ngắn ngủi đến lố bịch, anh thừa nhận, chính vì vậy mà Phu nhân Heem-Young mới cần đến người tài giỏi nhất.
Người thợ căng da mặt kiêu hãnh nhận ra sự nịnh bợ nhưng cũng chẳng làm ra vẻ khiêm tốn. “Không ai nhìn thấy khuôn mặt bên trong khuôn mặt như tôi đây,” bà ta dương dương tự đắc. Bà Ovid ngắm nghía hàm của tôi, nói rằng bà ta có thể can thiệp vào làn da, màu sắc, tóc, mi mắt và chân mày. Bà ta sẽ nhuộm con ngươi tôi thành màu mắt người. Có thể tạo lúm đồng tiền, và bỏ xương gò má tố cáo vẻ mặt người nhân bản vô tính đi. Bà ta quyết định chúng tôi sẽ tranh thủ làm những gì tốt nhất trong tám mươi chín phút quý giá.
Vậy điều gì đã xảy ra với tài nghệ của Bà Ovid? Tôi thấy cô trông hệt như một Sonmi mới bước ra từ lồng ấp vậy.
Nhất Đảng đã tái tạo khuôn mặt tôi cho những lần ra tòa quan trọng. Nữ diễn viên ngôi sao phải nhìn giống như thật. Nhưng khi tôi rời Lily Cam, mặt đau ê ẩm, thì ngay cả Quản lý Rhee cũng không nhận ra tôi. Con ngươi màu ngà đã trở thành màu nâu lục, mắt được kéo dài, tóc được làm đen như gỗ mun. Anh có thể xem lại những kodak chụp lúc tôi bị bắt nếu tò mò, Lưu trữ viên ạ.
Một cậu bé màu vàng cầm bong bóng đỏ đợi ở thang cuốn. Chúng tôi đi theo cậu ta hai mươi bước đến một bãi đỗ ford nằm dưới trung tâm thương mại. Cậu bé đã biến mất, nhưng quả bong bóng vẫn còn treo trên cần gạt của một chiếc xe dùng để đi xuyên đất nước. Chúng tôi đi Xa lộ Một đến Cổng Đông Một.
Cổng Đông Một? Tướng Liên Đoàn – Apis – đã yêu cầu cô đi Cổng Tây Một mà.
Người lãnh đạo đã nói thêm trong lệnh của mình bằng câu “Nghĩ kỹ về những gì tôi vừa dặn.” Thông điệp mã hóa này ngụ ý, “Đảo ngược mệnh lệnh này.” Tây tức là đông, bắc tức là nam, “đi theo đoàn hộ tống” tức là “đi một mình.”
Đó là một thông điệp đơn giản đến nguy hiểm.
Những bộ não chi li thường bỏ qua những gì đơn giản. Trong lúc chúng tôi tăng tốc trên đường, tôi hỏi “Hae-Joo Im” có phải là tên thật hay không. Liên Đoàn viên đáp rằng những người như anh không có tên nào là thật. Lối ra ôm theo khúc quanh xuống một trạm thu phí. Chúng tôi giảm tốc đến xếp hàng sau một hàng dài xe đang chờ qua trạm. Tại lối ra, mỗi tài xế đều hạ cửa kính và nhoài ra để cho Con mắt đọc Soul. Cảnh sát dừng những chiếc ford ngẫu nhiên để hỏi.
“Một phần ba mươi, khoảng chừng đó,” Hae-Joo lẩm bẩm, “tỉ lệ khá cao.” Đến lượt chúng tôi tiến đến máy quét. Hae-Joo đặt ngón trỏ lên máy quét và một tiếng chuông báo động vang lên.
Thanh chắn hạ xuống.
Liên Đoàn viên nói với tôi qua kẽ răng: cứ mỉm cười, làm ra vẻ bình thường.
Một cảnh sát tiến đến, chĩa ngón cái ra. “Ra ngoài.”
Hae-Joo tuân theo, nhăn nhở cười vẻ trẻ con.
Tay cảnh sát hỏi tên và nơi đến.
Màn trình diễn của người hộ tống tôi thật là thiên tài. “À vâng, là Ok-Kyun Pyo ạ. Thưa sĩ quan. Chúng em, à vâng, đang đến một nhà nghỉ ở ngoại ô ạ.” Hae-Joo nhìn dáo dác rồi ra dấu một cử chỉ bằng tay có ý nghĩa thô bỉ, tôi đã học được từ Boom-Sook và Fang. Anh đang khoác lác về giấy phép nuôi mèo của mẹ thì bị cắt lời đột ngột. Nhà nghỉ này còn cách bao xa, tay cảnh sát hỏi; anh không biết là bây giờ đã qua hai mươi ba giờ rồi à?
“Nhà nghỉ BùmBùmChếtToi ở Yoju ạ,” Hae-Joo đáp vẻ bí hiểm. “Thoải mái, sạch sẽ, giá tốt, dù có thể họ sẽ cho cảnh sát như anh ở thử miễn phí đấy. Chỉ khoảng ba mươi phút đường cao tốc, lối ra số mười hướng đông.” Chúng tôi còn kịp thời gian để đến đó trước giờ giới nghiêm, anh đảm bảo.
Tay cảnh sát hỏi tại sao Hae-Joo bị thương ở ngón trỏ.
“Ô, vì nó mà Con mắt không đọc được à?” Hae-Joo vờ phát ra một tiếng rên, và kể chuyện bị đứt tay trong lúc bỏ hạt một quả bơ tự nhiên, ở nhà mẹ của bạn gái. Máu me khắp nơi, thật là xấu hổ, từ giờ trở đi anh sẽ chỉ ăn quả bơ không hạt mà thôi, những thứ tự nhiên thật là phiền toái.
Tay cảnh sát nhìn vào trong ford và yêu cầu tôi bỏ mũ trùm ra.
Tôi hi vọng nỗi lo sợ của mình thể hiện thành sự e thẹn.
Viên cảnh sát hỏi bạn trai tôi có phải lúc nào cũng liến thoắng như thế này không.
Tôi gật đầu, ngượng nghịu.
Có phải vì thế mà tôi không nói gì cả không?
“Vâng, thưa ông,” tôi đáp. “Vâng, thưa sĩ quan.” Tay cảnh sát nói với Hae-Joo rằng các cô gái thường rất ngoan ngoãn vâng lời cho đến ngày cưới, sau đó thì sẽ bắt đầu liến thoắng không dừng. “Đi đi,” anh ta nói.
Đêm đó cô qua giờ giới nghiêm ở đâu? Nhà nghỉ ngoại ô à?
Không. Chúng tôi rời khu đô thị qua lối ra số hai, sau đó cày xe trên một làn đường đồng quê không có đèn. Một bờ đê trồng nhiều cây thông gai che chắn cho một khu công nghiệp có một trăm nhà xưởng. Đã sát giờ giới nghiêm, chiếc ford của chúng tôi là phương tiện duy nhất trên đường. Chúng tôi đỗ xe rồi băng qua một khoảng sân lộng gió đến một khu nhà bê tông có bảng hiệu: HYDRA NURSERY CORP. Soul của Hae-Joo nhấp nháy và cửa xoay mở ra.
Bên trong không phải là một nhà vườn mà là một nhà mái vòm thắp đèn đỏ, chứa nhiều thùng khổng lồ. Không khí ấm áp và ẩm thấp đến mức khó chịu. Thứ nước sền sệt, có nhiều tạp chất mà tôi thấy qua những ô cửa sổ của các thùng chứa chắn tầm nhìn về những gì bên trong, suốt một lúc. Sau đó từng bàn tay bàn chân hiện ra rõ nét; những khuôn mặt mới sinh, mặt nào cũng giống nhau.
Lồng ấp?
Chúng tôi đã vào một nhà xưởng xử lý gene, đúng vậy. Tôi nhìn những chùm người nhân bản vô tính phôi thai bị treo lơ lửng trong chất keo uranium. Người thì đang ngủ bất động, người thì mút ngón cái, người thì quơ bàn tay hoặc bàn chân như đang đào bới hoặc đang chạy. Tôi hỏi Hae-Joo, có phải tôi đã được nuôi cấy ở đây không?
Hae-Joo nói không: nhà bảo sinh của Papa Song ở Kwangju lớn hơn nơi này gấp năm lần. Anh nhìn vào trong lồng ấp rồi nói với tôi những bào thai này sẽ được chuyển đến đường ống uranium nằm dưới Hoàng Hải; nên mắt họ trông như cái bát. Họ sẽ phát điên nếu tiếp xúc với ánh sáng ban ngày không qua xử lý quá lâu.
Nhiệt độ trong nhà xưởng khiến Hae-Joo đổ mồ hôi như tắm. “Chắc cô cần dùng Xà phòng đấy, Sonmi,” anh nói. “Căn hộ tầng thượng sáu sao của chúng ta ở lối này.”
Căn hộ tầng thượng? Trong một nhà bảo sanh người nhân bản vô tính?
Liên Đoàn viên rất thích nói đùa. “Căn hộ tầng thượng” của chúng tôi chỉ là phòng nghỉ của bảo vệ mà thôi: một căn phòng bê tông có duy nhất một vòi hoa sen, một cái cũi ngủ, một chiếc bàn, một chồng ghế, một chiếc máy điều hòa ngột ngạt và một chiếc bàn bóng bàn bị gãy. Những đường ống to phả ra hơi nóng. Một dãy sony quan sát các lồng ấp và một cửa sổ nhìn xuống khu bảo sanh. Hae-Joo bảo tôi tranh thủ đi tắm vì anh không thể đảm bảo còn có tối ngày mai nữa; anh treo lên một tấm vải nhựa để che chắn rồi xếp ghế lại thành giường cho anh trong lúc tôi đi tắm. Một túi Xà phòng đợi sẵn trên cũi khi tôi tắm xong, với một bộ quần áo mới.
Cô không cảm thấy bất an khi ngủ ở một nơi vắng vẻ mà lại còn không biết tên thật của Hae-Joo Im là gì sao?
Không. Người nhân bản vô tính thức được hơn hai mươi giờ vì có hoạt khí trong Xà phòng; nhưng khi cơn mệt mỏi ập đến, chúng tôi lăn ra bất tỉnh, gần như chẳng có dấu hiệu gì báo trước.
Tôi thức dậy ba giờ sau đó, tỉnh như sáo; Xà phòng của những thợ mỏ bào thai này chứa quá nhiều khí oxy. Hae-Joo nằm ngủ trên áo choàng. Tôi săm soi một cục máu đọng trên gò má anh, bị trầy trong lúc chúng tôi trốn khỏi Taemosan. Da của con người thật quá mỏng manh. Tròng mắt anh đảo liên hồi dưới mi mắt; trong phòng chẳng còn gì khác chuyển động. Có thể anh đã gọi tên Xi-Li, hoặc có thể đó chỉ là tiếng động. Tôi tự hỏi anh trở thành cái “tôi” nào trong lúc nằm mơ.
Tôi nhấp nháy Soul của mình trên sony cầm tay của Hae-Joo để tìm hiểu về con người tôi mang bí danh, Yun-Ah Yoo. Tôi là một sinh viên ngành di truyền học, sinh ngày 30 tháng hai ở Naju vào năm con ngựa. Bố là một Trợ lý ở Papa Song; mẹ là nội trợ; không anh chị em... dữ liệu kéo lên hàng chục trang, hàng trăm trang. Giờ giới nghiêm trôi dần. Hae-Joo day day thái dương. “Ok-Kyun Pyo muốn một tách starbuck.”
Tôi chọn thời khắc đó để đặt câu hỏi cho anh; tại sao Liên Đoàn lại trả một cái giá quá đắt như vậy để bảo vệ một người nhân bản vô tính thí nghiệm?
“À.” Hae-Joo dụi mắt. “Câu trả lời dài, hành trình dài.”
Lại thoái thác?
Không: anh ấy cho tôi câu trả lời đầy đủ trong lúc lái xe tiến sâu hơn vào vùng đồng quê. Tôi sẽ kể lại chi tiết cho orison của anh bây giờ đây, Lưu trữ viên ạ. Nea So Copros đang tự đầu độc đến chết. Đất đai ô nhiễm, sông ngòi chết dần chết mòn, không khí đầy độc tố, nguồn thực phẩm đầy rẫy gene gây hại. Tầng lớp dưới không thể mua những loại thuốc cần thiết để chống lại sự thoái hóa này. Những vành đai khối u ác tính và bệnh sốt rét tiến dần về phía bắc ở tốc độ bốn mươi cây số mỗi năm. Sáu mươi phần trăm Vùng Sản Xuất ở châu Phi và Indonesia chuyên cung cấp cho nhu cầu của Vùng Tiêu Dùng đã không còn là nơi sinh sống được nữa. Tính hợp pháp của chế độ tài phiệt, sự giàu có của nó, đang cạn dần; Bộ Luật Làm Giàu Chủ Thể chỉ thuần túy là những miếng thạch cao đắp lên căn bệnh xuất huyết và thủ thuật đoạn chi. Cách làm duy nhất còn lại chính là chính sách được tất cả những nhà tư tưởng phá sản yêu thích: sự chối bỏ. Con người ở tầng lớp dưới rơi xuống cái bồn á nhân; những giám đốc thì đọc như vẹt Giáo điều bảy, “Giá trị của một Soul nằm ở chính đồng Đô la trong đó.”
Nhưng để cho những người thuộc tầng lớp dưới chết ở những nơi như Huamdonggil là nghĩa làm sao? Cái gì sẽ thay thế sức lao động quý báu của họ?
Chúng tôi. Tốn rất ít chi phí để tạo ra người nhân bản vô tính, Lưu trữ viên ạ, và chúng tôi chẳng hề khát khao một cuộc sống tự do hơn, tốt đẹp hơn. Vì người nhân bản vô tính sẽ bị vô hiệu hóa sau bốn mươi tám giờ không có Xà phòng do chế độ độc tài của tập đoàn sản xuất và cung cấp, nên “nó” sẽ không bỏ trốn. Trừ tôi ra, người nhân bản vô tính hết thảy đều là những cái máy hữu cơ. Lưu trữ viên, anh có còn nghĩ là không có nô lệ trong Nea So Copros hay không?
Vậy Liên Đoàn định xóa bỏ những... điều bị cáo buộc là “căn bệnh” này khỏi đất nước như thế nào?
Cách mạng.
Đông Á thời tiền giao tranh là một chuỗi hỗn loạn những nền dân chủ bệnh hoạn, chế độ chuyên quyền hiếu sát và những vùng đất chết mới! Nếu Hội đồng không thống nhất và cô lập khu vực này thì chúng ta hẳn đã quay trở lại thời ăn lông ở lỗ rồi. Tại sao lại có tổ chức chịu ủng hộ một tư tưởng... khủng bố như vậy?
Tập đoàn bốc đầy mùi tham nhũng và thoái hóa. Mặt trời đã lặn rồi.
Có vẻ như cô đã quán triệt đường lối của Liên Đoàn rồi đấy, Sonmi ạ.
Tôi cũng có thể nhận thấy anh rất quán triệt đường lối của Nea So Copros đấy, Lưu trữ viên ạ.
Hae-Joo có nhắc đến chính xác Liên Đoàn định làm gì để lật đổ nhà nước với một quân đội hai triệu người không?
Có. Liên Đoàn dự định lập trình cho sự tiến hóa của sáu triệu người nhân bản vô tính.
Tôi không hiểu tại sao cô không nhận ra đây chỉ thuần túy là ảo tưởng?
Tất cả các cuộc cách mạng đều thuần túy là ảo tưởng cho đến khi nổ ra; khi đó thì chúng trở thành những sự thật không thể tránh khỏi trong lịch sử.
Làm sao Liên Đoàn có thể đạt được sự “tiến hóa liên tục” này?
Trận chiến nằm ở cấp phân tử. Vài trăm Liên Đoàn viên làm việc trong những đơn vị trọng yếu như nhà máy sản xuất Xà phòng và nhà bảo sinh lồng ấp có thể kích hoạt vài triệu sự tiến hóa bằng cách bổ sung chất xúc tác của Tiến sĩ Suleiman vào nguồn cung cấp chính.
Ngay cả khi có sáu triệu người nhân bản vô tính tiến hóa thì họ có thể gây thiệt hại gì cho Kim tự tháp nhà nước ổn định nhất trong lịch sử nhân loại?
Ai sẽ làm việc ở nhà máy? Xử lý chất thải? Quản lý trang trại nuôi cá? Chiết xuất dầu và than đá? Đốt lò phản ứng? Xây dựng nhà cửa? Phục vụ trong nhà hàng? Chữa cháy? Quản lý khu đô thị? Bơm xăng? Nhấc, đào, kéo, đẩy? Gieo trồng, thu hoạch?
Con người đã mất đi những kỹ năng để xây dựng xã hội. Câu hỏi thực sự là, sáu triệu người tiến hóa có thể không gây thiệt hại gì, khi kết hợp với lực lượng dân quân, và những con người tầng lớp dưới bên bờ vực trở thành á nhân.
Nhất Đảng sẽ duy trì trật tự. Các cơ quan cảnh sát không phải chỉ có toàn điệp viên hai mang của Liên Đoàn.
Nhất Đảng sở hữu vũ khí đe dọa nào? Chĩa súng vào những người tiến hóa ư? Ngay cả Yoona~939, một người phục vụ nhân bản vô tính, còn chọn cái chết thay cho nô lệ.
Đợi, đợi đã... Nhất Đảng đã cảnh giác trước âm mưu này khi cô bỏ trốn rồi – họ đã tìm cách bắt cô lại. Những bức tường lửa an ninh đã được dựng lên quanh các nhà máy sản xuất Xà phòng.
Nhất Đảng chỉ cảnh giác trước các điệp viên Liên Đoàn ở Taemosan, và một người phục vụ nhân bản vô tính tiến hóa. Chẳng biết gì hơn.
Và vai trò của cô trong... kế hoạch tối thượng này là gì?
Vai trò đầu tiên của tôi là đưa ra bằng chứng cho thấy tác nhân tiến hóa của Suleiman đã có hiệu quả. Đầu óc tôi đã làm được điều đó, đơn giản chỉ bằng cách không thoái hóa thêm. Tác nhân này đã được sản xuất đại trà số lượng lớn ở vài nhà máy ngầm.
“Vai trò thứ hai của cô,” Hae-Joo Im thông báo với tôi sáng hôm đó, “là làm đại sứ.” Đại tướng Apis – con cá chép ở phòng khách quán mạt chược – đã hi vọng tôi sẽ trở thành một phái viên, một người truyền thông giữa Liên Đoàn và những người nhân bản vô tính tiến hóa khác; để giúp họ huy động các công dân cách mạng.
Cô cảm thấy thế nào về vị trí này trong một tổ chức khủng bố?
Nỗi sợ hãi lớn nhất: tôi không được lập trình để thay đổi lịch sử, tôi nói như vậy với Liên Đoàn viên, và anh trả lời rằng chẳng có ai được lập trình để làm điều đó. Hãy suy nghĩ kỹ, anh dặn tôi. Apis đã hi vọng tôi sẽ có được quyết định khi gặp lại ông ta. Những gì Liên Đoàn cần lúc này là tôi không vội khước từ lời đề nghị này ngay.
Cô có tò mò về cương lĩnh của Liên Đoàn cho một ngày mai tươi sáng hơn không? Làm sao cô biết trật tự mới sẽ không sản sinh ra một chế độ độc tài tồi tệ hơn? Nếu thay đổi lớn trở nên cần thiết, thì chắc chắn một chương trình cải cách toàn diện, thực hiện bằng những bước thận trọng, là cách thông minh nhất để tiến hành?
Với một lưu trữ viên cấp tám thì nền tảng học vấn của anh khá rộng đến mức gây tò mò đấy. Anh có gặp tuyên ngôn này khi đọc các tác phẩm thời kỳ đầu thế kỷ hai mươi chưa? “Không thể băng qua vực sâu bằng hai bước chân”?
Chúng ta đang tranh cãi vòng vo đấy Sonmi ạ. Hãy quay về hành trình của cô đi.
Chúng tôi đến Thảo nguyên Suanbo vào khoảng giờ thứ mười một, qua những con đường phụ. Những chiếc máy bay rải hóa chất phả ra những đám mây phân bón màu vàng nghệ, bao trùm hết đường chân trời. Hae-Joo lo ngại phải lộ mình dưới Con Mắt, vì thế chúng tôi chọn đi trên đường mòn của đồn điền TimberCorp. Đêm hôm trước trời mưa, vì vậy con đường đất đầy những hố voi ngập nước và chúng tôi di chuyển rất chậm, nhưng nhìn quanh cũng chẳng thấy chiếc xe nào khác. Loại cây lai ghép thông – cao su Norfolk được trồng ngay hàng thẳng lối, tạo ra ảo ảnh là khu rừng đang hành quân lướt qua chiếc ford đứng yên; một trung đoàn có hàng triệu binh sĩ. Tôi xuống xe chỉ một lần duy nhất, khi Hae-Joo đổ đầy thùng exxon từ một cái can. Đó là một buổi sáng tươi mới trên thảo nguyên, nhưng bên trong đồn điền lúc nào cũng âm u như hoàng hôn. Âm thanh duy nhất là tiếng gió vô trùng thổi những đầu kim cùn mòn. Loại cây không có phấn hoa này được lập trình để chống lại sâu bọ và chim chóc; không khí đặc quánh nồng nặc mùi thuốc diệt côn trùng.
Khu rừng biến mất đột ngột như khi xuất hiện; cảnh vật dần chuyển sang đồi núi. Con đường mòn rẽ sang hướng đông với Rặng Woraksan nằm ở phía nam; Hồ Ch’ungju trải dài về phía bắc. Hae- Joo giải thích mùi hôi lúc này chính là mùi nước hồ; do chất thải từ những ao nuôi cá hồi. Những ngọn đồi mọc xen kẽ trên mặt nước giăng đầy logo tập đoàn to khổng lồ; một bức tượng malachit của Nhà tiên tri Malthus[56] nhìn xuống một vùng trũng khô hạn. Con đường chạy qua dưới đường cao tốc Ch’ungju–Taegu–Pusan. Hae-Joo nói chúng tôi có thể đến được Pusan trong vòng hai giờ nếu mạo hiểm; nhưng anh muốn chậm mà chắc. Con đường lồi lõm dẫn chúng tôi thẳng lên Núi Sobaeksan.
Hae-Joo Im không định đến Pusan luôn trong hôm đó à?
Không. Lúc khoảng mười bảy giờ, anh giấu chiếc ford trong một sân gỗ bỏ hoang, sau đó chúng tôi đi bộ trên một con đường mòn dẫn lên núi. Chuyến đi này khiến tôi kinh ngạc và thích thú, không kém gì lúc vào khu đô thị: những ụ đá vôi ứa ra vôi lỏng; những cây thanh lương trà non và tần bì núi mọc ra từ các kẽ đá. Gió thoang thoảng hương phấn hoa và nhựa cây; mây cuộn tròn. Những con bướm đêm, trước đây từng bị lập trình, bay vòng quanh đầu chúng tôi, trông như đồ điện tử; những logo trên cánh của chúng đã biến dạng qua nhiều thế hệ thành một bài tập đọc vần ngẫu hứng.
Tôi cảm thấy được tái sinh thành một nhân tố khác xa với những người phục vụ nhân bản vô tính, cũng như những đồng cỏ Alpine hoàn toàn xa lạ với loài bạch tuộc vậy.
Trên một bãi cạn lộ thiên, Hae-Joo chỉ về phía một cái vịnh rồi hỏi tôi có thấy ông ấy không.
Ai? Tôi chỉ thấy một tảng đá.
Cứ nhìn đi, người hướng dẫn bảo tôi, và từ tảng đá hiện ra những đường nét chạm khắc của một người khổng lồ ngồi tư thế hoa sen. Một bàn tay mảnh mai đưa lên trong một cử chỉ duyên dáng mang nhiều ẩn ý. Vũ khí và nắng gió đã oanh tạc, phá hoại và làm nứt nẻ các đường nét của ông, nhưng hình dạng của ông vẫn có thể nhận ra khi nhìn tổng thể. Mất vài giây tôi mới nhận ra bức tượng điêu khắc khổng lồ này đang nhắc tôi nhớ đến ai: đó chính là Timothy Cavendish.
Hae-Joo cảm thấy rất buồn cười khi tôi nói như thế. Anh từng tưởng người khổng lồ đó là một người dân chủ hoặc một tên trùm trộm cắp thích chơi nổi; nhưng thực ra, những người thời tiền tiêu dùng đã thực sự thờ ông ấy như một vị thần đưa đến giải thoát khỏi sinh tử luân hồi. Kỳ thực, người khổng lồ bị nứt nẻ vì thời tiết từ một thời đại khác ấy vẫn toát ra một sự thiêng liêng man mác. Chỉ có một thứ vô tri vô giác mới có thể sống động đến thế. Trưởng lão có thể kể cho tôi nghe nhiều hơn, Hae-Joo nói tiếp. Tôi nghĩ QuarryCorp sẽ phá bỏ ông ấy khi tiến hành xử lý những ngọn núi này.
Mục đích của hành trình đến nơi vô danh đó là gì?
Bất kỳ nơi vô danh nào cũng mang một ý nghĩa. Chúng tôi lên đỉnh núi, đến một máy xay thóc khiêm tốn nằm giữa một khoảng đất rộng, quần áo phơi trên các bụi cây, những khoanh rau, một hệ thống tưới tiêu thô sơ bằng tre, một nghĩa trang. Tôi nghe tiếng một thác nước mùa khô cạn. Hae-Joo dẫn tôi đi qua một con hẻm nhỏ vào một cái sân, bốn bên là những tòa nhà trang trí không giống với bất kỳ tòa nhà nào tôi từng thấy. Một vụ nổ mới đây đã làm thủng lỗ chỗ đá lát đường, thổi bay cột gỗ và làm sập một mái nhà bằng tôn. Một ngôi chùa bị đổ trong một trận bão và nằm đè lên ngôi chùa cạnh bên. Đám dây thường xuân chứ không phải cột gỗ đã giúp giữ cho ngôi chùa thứ hai còn đứng thẳng.
Hae-Joo nói với tôi rằng một tu viện đã nằm ở đó trong mười lăm thế kỷ, cho đến khi tập đoàn giải tán các tôn giáo tiền tiêu dùng sau thời Giao tranh. Giờ đây nó trở thành nơi nương náu của một quần thể những con người bị truất hữu, những người thích một cuộc sống ở chốn núi non hơn là những bồn xả á nhân.
Vậy là Liên Đoàn che giấu người đàm phán,... “vị cứu tinh” của họ, trong một quần thể những kẻ phạm tội ư?
“Vị cứu tinh”. Thật là một danh xưng to lớn cho một người hầu ở Papa Song.
Tôi nghe tiếng cào trên những phiến đá sau lưng: một bà lão da nhăn nheo, sạm nắng đi tập tễnh vào sân, tựa lên một cậu bé có sẹo trên đầu; một cậu bé câm. Cậu bé mỉm cười e thẹn với Hae-Joo; bà lão ôm Hae-Joo đầy thắm thiết giống như, tôi tưởng tượng, một người mẹ. Tôi được giới thiệu với Trưởng lão là “Cô Yoo.” Một con mắt đã mờ đục; con kia sáng rực và cảnh giác; kết hợp lại chúng tạo ấn tượng có tới hai người giám sát theo dõi kẻ đối diện. Bà siết chặt tay tôi; cử chỉ đó khiến tôi ấm lòng. Khuôn mặt bà già cỗi như một người cao niên từ thời của Cavendish.
“Cháu được chào đón ở đây,” bà bảo với tôi, “vô cùng chào đón.”
Hae-Joo hỏi về hố bom.
Trưởng lão kể những kẻ quá khích trên không lúc đó bị ngứa răng; một chiếc chinook xuất hiện hồi tháng trước rồi đột nhiên ném một quả bom, khiến nhiều người bị thương nặng và một người chết. Trưởng lão đoán đó là một hành động phá hoại; hoặc tay phi công buồn tay ném chơi; hoặc có thể là một nhà phát triển đã nhìn thấy tiềm năng ở địa điểm này để xây một khách sạn nghỉ dưỡng cho các giám đốc và muốn chúng ta dời đi. “Ai mà biết được?” Bà thở dài.
Người bạn đồng hành của tôi hứa sẽ cố gắng tìm lý do.
Vậy chính xác thì những kẻ khai hoang này là ai? Á nhân? Quân khủng bố? Liên Đoàn?
Mỗi người đều có một câu chuyện khác nhau. Tôi gặp những người bất đồng chính kiến Uyghur; những cư dân đô thị từng được trọng vọng nhưng đã ngán ngẩm với chính trị tập đoàn; những kẻ thất nghiệp; những người trắng tay vì bệnh thần kinh. Trong số bảy mươi lăm người khai hoang, người trẻ nhất mới chín tuần tuổi; người già nhất, Trưởng lão, đã sáu mươi tám tuổi, dù nếu bà nói bà ba trăm tuổi tôi cũng tin.
Nhưng... làm sao họ tồn tại được mà không có những nhà hàng nhượng quyền và trung tâm thương mại? Họ ăn gì? Uống gì? Còn điện đóm thì sao? Giải trí thế nào? Làm sao mà một xã hội thu nhỏ vận hành được nếu không có cảnh sát và trật tự kỷ cương?
Thực phẩm của họ đến từ rừng núi và vườn tược; nước thì lấy từ thác. Những chuyến đi lùng sục ở các bãi rác thu về đồ nhựa và đồ kim loại để làm ra công cụ. Sony “trường học” của họ hoạt động nhờ tuốc bin nước. Đèn mặt trời dùng buổi tối tự sạc vào ban ngày. Hoạt động giải trí là chính họ; người tiêu dùng không thể tồn tại nếu thiếu 3D và màn hình, nhưng con người từng sống và vẫn có thể sống không cần thứ ấy. Còn lực lượng cảnh sát ư? Tôi tin chắc có rắc rối nảy sinh, nhưng những người khai hoang này đều trân quý sự độc lập của họ và quyết tâm bảo vệ nó trước những kẻ phá hoại bên trong hoặc những kẻ trục lợi bên ngoài.
Còn mùa đông miền núi thì sao?
Họ tồn tại như mười lăm thế kỷ nữ tu đã làm trước họ: bằng cách lên kế hoạch, tiết kiệm và củng cố. Quần thể này được xây dựng trên một cái hang, được những tên cướp mở rộng ra trong thời kỳ thôn tính Nhật Bản. Những đường hầm này là nơi trú ẩn trong mùa đông và tránh những vụ không kích của Nhất Đảng.
Đó không phải là một xã hội không tưởng thơ mộng. Đúng, mùa đông rất khắc nghiệt; mùa mưa dai dẳng; mùa màng thường gặp dịch bệnh; hang hốc thì dễ bị sâu bọ côn trùng tấn công, và rất hiếm người khai hoang sống thọ như người tiêu dùng tầng lớp trên. Đúng, những người khai hoang cũng cãi nhau và đau buồn như con người vốn thế. Nhưng họ làm tất cả trong một cộng đồng. Nea So Copros không có các cộng đồng; chỉ có nhà nước mà thôi.
Vậy Liên Đoàn có lợi ích gì ở tu viện này?
Liên Đoàn cung cấp các thiết bị như đèn mặt trời; còn những người ở đây cung cấp một ngôi nhà an toàn, cách xa Con mắt gần nhất nhiều cây số. Tôi thức dậy ở ký túc xá tầng hầm trước bình minh, rồi bò đến miệng hang. Một người canh gác uống một loại rượu giúp tỉnh táo; cô vén màn chống muỗi lên cho tôi ra, nhưng dặn tôi cẩn thận với bầy sói lảng vảng bên dưới các bức tường tu viện cũ. Tôi hứa sẽ không đi quá phạm vi nghe thấy, rời khỏi sân rồi len mình qua những tảng đá hẹp để đến ban công màu đen và xám.
Ngọn núi lùi ra xa; một làn khí nổi lên từ thung lũng, đem theo tiếng kêu của động vật, tiếng gọi, tiếng gầm và tiếng khụt khịt; tôi chẳng thể nhận ra tiếng nào. Những ngôi sao núi ở đây không phải là những chấm sáng đáng thương trên nền trời đô thị: chúng tròn trĩnh và tiết ra ánh sáng. Một tảng đá nhúc nhích, cách đó chỉ một mét. “A, cô Yoo,” tiếng Trưởng lão vang lên, “thêm một người dậy sớm.”
Tôi cất tiếng chào.
Bà cho tôi biết, những người khai hoang ở đây không thích bà lang thang trong làng trước khi mặt trời mọc vì sợ bà sảy chân xuống vách đá. Bà lấy ra một ống tẩu từ cánh tay áo, nhét thuốc vào đầu tẩu rồi đốt; bà không mời tôi hút vì sợ ảnh hưởng đến bộ phổi trẻ của tôi, bà nói thế, nhưng ở tuổi bà thì chẳng còn quan trọng nữa. Khói thuốc lá có mùi da thơm lừng.
Tôi hỏi về hình người ở vách đá dựng đứng phía bên kia vịnh.
Lão ông đó à, bà gật đầu. Tất Đạt Đa có nhiều tên khác nữa, tất cả đều đã biến mất rồi. Những người đời trước của Trưởng lão có thể kể vanh vách những cái tên của ông và các môn đệ của ông, nhưng vị Trưởng lão già và các ni cô cao niên đã bị đưa vào Ngọn hải đăng khi các tu viện bị quản thúc cách nay năm mươi năm. Bà lão đang nói chuyện với tôi từng là một ni cô mới nhập môn lúc đó, vì thế Nhất Đảng cho rằng bà còn trẻ có thể cải tạo được, nên đã đưa bà đến một khu dành cho trẻ mồ côi ở Khu Đô Thị Thành Phố Trân Châu.
Tôi hỏi, Tất Đạt Đa có phải là một kiểu thần thánh không?
“Một kiểu thần thánh” là cách nói thích hợp đấy, Trưởng lão trả lời tôi. Tất Đạt Đa không đem lại may mắn cho chúng ta, bắt ta phải chịu sự trừng phạt, thay đổi thời tiết hoặc bảo vệ chúng ta trước những khổ đau của cuộc sống. Nhưng ông dạy chúng ta về cách vượt qua khổ đau, và làm thế nào để tái sinh vào cảnh giới cao hơn trong những kiếp sau. Bà vẫn thường cầu nguyện ông vào sáng sớm, “để ngài thấy tôi vẫn giữ giới”, dù rất ít người khai hoang ở đây có đức tin. Tôi nói mình hi vọng Tất Đạt Đa sẽ cho tôi tái sinh vào quần thể của bà.
Ánh sáng từ ngày mới soi rọi thế gian rõ ràng hơn. Trưởng lão hỏi tại sao tôi lại hi vọng như thế.
Mất một lúc tôi mới có thể diễn tả cảm xúc của mình thành câu chữ, nhưng Trưởng lão không phải người nóng vội. Cuối cùng tôi nói ra được lý do của mình: những con người duy nhất mà trong mắt không có sự đói khát như trong mắt của người tiêu dùng chính là những người khai hoang này.
Trưởng lão hiểu. Bà nói nếu người tiêu dùng hài lòng với cuộc sống của họ ở bất kỳ cấp bậc ý nghĩa nào thì chế độ tài phiệt coi như chấm dứt. Đó là lý do vì sao quần thể này xâm phạm đến nhà nước. Truyền thông so sánh họ với loài sán dây; lên án họ vì đã trộm nước mưa từ WaterCorp; trộm tiền bản quyền từ những chủ nhân bằng sáng chế ở VegCorp; trộm khí oxy từ AirCorp. “Ngày đó có thể sẽ đến,” Trưởng lão dự đoán, “khi Hội đồng quyết định chúng ta là mô hình cạnh tranh cho cuộc sống nằm ngoài lý tưởng của tập đoàn.” Ngày đó, bà lo sợ, những con “sán dây” sẽ bị dán mác “khủng bố”, những quả bom thông minh sẽ trút xuống và những đường hầm trong tu viện sẽ chìm trong khói lửa.
Tôi nhận xét rằng cộng đồng của họ hẳn phải được tạo thành từ sự thiếu thốn, nhưng một cách vô hình.
“Chính xác.” Giọng của bà rất khẽ nên tôi phải rướn người để nghe. “Nghệ thuật giữ thăng bằng đòi hỏi rất nhiều công phu, cũng giống như cố gắng sống như một con người thực vậy, tôi cho là thế.”
Sao bà ấy biết?
Tôi không hỏi: có thể một Lỗ thăm dò trong khu tôi ở đã bắt gặp cảnh tôi đang hút Xà phòng. Chủ nhà nói với tôi rằng kinh nghiệm đã dạy cho họ phải giữ Con mắt với khách, kể cả Liên Đoàn viên và bạn bè của họ. “Nó vi phạm chuẩn mực hiếu khách của tu viện cũ,” vị Trưởng lão xin lỗi, “nhưng những người khai hoang trẻ hơn liên tục nhắc nhở chúng tôi phải cảnh giác, đặc biệt là trong một thế giới mà ai cũng có thể trở thành một người nào đó chỉ sau một ngày ở thẩm mỹ viện.”
Tại sao bà ta lại chìa tay giúp đỡ?
Để thể hiện tình đoàn kết, chắc là thế; tôi không biết nữa. Trong vô số những tội ác của Chủ Thể, Trưởng lão nói việc tạo ra “tầng lớp nô lệ bên dưới” là tội ác ghê tởm nhất.
Bà ấy nói chung chung hay cụ thể?
Đến đêm hôm sau tôi mới biết câu trả lời. Lúc bấy giờ nồi niêu đã khua loảng xoảng trong sân: bữa ăn sáng đang được chuẩn bị. Trưởng lão nhìn vào khe hẻm dẫn vào sân rồi đổi giọng. “Và con sói con này có thể là ai nào?”
Cậu bé câm tiến đến ngồi cạnh chân của Trưởng lão, mỉm cười. Ánh mặt trời gấp khúc bao quanh thế giới từ hướng đông, phục hồi màu sắc mong manh cho những bông hoa dại.
Vậy là Ngày Thứ Hai của kẻ trốn chạy bắt đầu.
Hae-Joo ăn sáng với bánh khoai tây và mật cây sung; khác với đêm trước, không ai ép tôi phải ăn thức ăn của con người. Chúng tôi nói lời tạm biệt; hai ba cô thiếu nữ nước mắt lưng tròng khi thấy Hae- Joo ra đi; những cô này nhìn tôi hằn học trước sự thích thú của anh ấy. Có khi Hae-Joo là một nhà cách mạng rắn rỏi; đôi khi anh chỉ là một chàng trai. Vị trưởng lão thì thầm, “Tôi sẽ cầu nguyện ông lão đó cho cô.” Chúng tôi rời khỏi độ cao không khí loãng dưới ánh mắt vị thánh của bà rồi xuống núi băng qua cánh rừng xào xạc. Chiếc ford nằm ở đúng nơi Hae-Joo đã giấu, không bị chạm đến.
Hành trình đến Yongju diễn ra thuận lợi; chúng tôi băng qua những chiếc xe chở gỗ mà tôi nhận ra được điều khiển bởi những người nhân bản vô tính vạm vỡ thuộc cùng một tế bào gốc. Những cánh đồng lúa ở phía bắc Hồ Andongho có nhiều đường đi nhanh nhưng dễ bị phát hiện, vì vậy chúng tôi ngồi trong ford, ẩn mình trước những Con Mắt cho đến giờ thứ mười lăm.
Khi băng qua một cây cầu treo cũ vắt qua con sông Chuwangsan sôi sục bên dưới, chúng tôi xuống xe để giãn chân một chút. Hae-Joo xin lỗi vì bàng quang con người của anh rồi tiểu xuống hàng cây nằm dưới đó hàng trăm mét. Tôi nhìn những con vẹt đơn sắc đậu trên mặt hẻm vực dính đầy phân chim; những cái đập cánh và tiếng kêu của chúng khiến tôi nhớ đến Boom-Sook Kim và đám bạn con ông cháu cha của hắn. Một hẻm núi ngoằn ngoèo chạy lên thượng nguồn; ở hạ nguồn, dòng sông được dẫn xuyên qua những ngọn đồi bằng phẳng cho đến khi biến mất dưới mái che Ūlsōng. Những chiếc không cơ bay thành nhóm trên khu đô thị; như những chấm nhỏ.
Dây cáp của cây cầu kêu kẽo kẹt dưới sức nặng của một chiếc ford giám đốc; chiếc xe đắt tiền tương phản với con đư