Chương 6 CHỦ NGHĨA CÁ NHÂN BIỂU HIỆN
Cách mạng Pháp mở ra những thứ sẽ trở thành hai phiên bản khác nhau của chính trị bản sắc trên toàn thế giới, mặc dù vào thời điểm đó thuật ngữ này không được sử dụng để mô tả cả hai hiện tượng trên. Một nhánh đòi hỏi sự thừa nhận phẩm giá của cá nhân, nhánh còn lại là phẩm giá của tập thể.
Nhánh đầu tiên theo chủ nghĩa cá nhân bắt đầu với tiên đề: tất cả con người sinh ra đều tự do và bình đẳng về mưu cầu tự do. Thể chế chính trị được tạo ra nhằm bảo tồn tính tự do tự nhiên đó nhiều nhất có thể, phù hợp với nhu cầu đời sống xã hội chung. Nền dân chủ tự do coi việc bảo vệ quyền tự chủ cá nhân một cách bình đẳng là cốt lõi của các đề án đạo đức.
Nhưng tự chủ là gì? Martin Luther, như chúng ta thấy, sống trong truyền thống Kitô giáo lâu đời, coi tự do của loài người là món quà từ Chúa, mang lại cho con người phẩm giá cao hơn phần còn lại của thế giới tự nhiên1. Nhưng sự tự do đó bị giới hạn trong khả năng có đức tin và tuân theo luật của Chúa. Kant tiếp nối truyền thống này, đưa ra một phiên bản được thế tục hóa về tự chủ, tập trung vào khả năng con người đưa ra lựa chọn đạo đức dựa trên quy tắc trừu tượng của lý trí. Nhân phẩm, theo cách hiểu của Kant, có nền móng từ quan điểm của ông, cho rằng tất cả cá nhân đều là các nguyên nhân không được tạo ra, có năng lực thực hiện ý chí tự do đích thực, ở một chừng mực nhất định, không tuân theo định luật vật lý. Nhưng các quy tắc của Kant như lệnh thức tuyệt đối, không phải là đối tượng của sự lựa chọn từ con người cá thể, chúng được tạo ra thông qua lý luận triết học và được áp dụng cho tất cả mọi người một cách tuyệt đối trong mọi điều kiện.
Tiếp đó, theo truyền thống này, nhân phẩm tập trung vào khả năng cá nhân đưa ra lựa chọn đúng đắn có đạo đức, dù được định nghĩa bởi tôn giáo hay bởi luân lý thế tục.
Ý tưởng cho rằng phẩm giá bắt nguồn từ lựa chọn đạo đức của con người nhận được sự thừa nhận về mặt chính trị thông qua việc được đưa vào trong một số lượng đáng kể các hiến pháp dân chủ hiện đại, bao gồm Đức, Ý, Ireland, Nhật Bản, Israel và Nam Phi. Chẳng hạn, điều I, mục 1, Luật Cơ bản năm 1949 của Đức tuyên bố: “Phẩm giá của con người là bất khả xâm phạm. Việc tôn trọng và bảo vệ nó là nghĩa vụ của tất cả các cơ quan công quyền”. Tương tự, phần 10 của Hiến pháp Nam Phi tuyên bố, “Mọi người đều có phẩm giá vốn có và quyền được tôn trọng và bảo vệ phẩm giá”. Tòa án Hiến pháp Nam Phi ghi nhận,”Quyền phẩm giá là sự thừa nhận giá trị thực chất của con người”.
Không có hiến pháp nào trong số này định nghĩa chính xác nhân phẩm là gì, và hiếm có chính trị gia nào trong thế giới phương Tây có thể giải thích được cơ sở lý thuyết của nó khi bị truy vấn. Để hiểu được nguồn cội của các tài liệu này về nhân phẩm, chúng ta cần xem xét nguồn gốc từ vựng của các từ được sử dụng và quá trình lịch sử mà chúng được viết ra. Nguồn gốc quan niệm về phẩm giá như trong học thuyết của Kant đã hiện hữu trong trường hợp của Đức và Nam Phi. Luật pháp Đức sử dụng từ bất khả xâm phạm hàm ý tất cả các quyền khác đều phụ thuộc vào quyền cơ bản này và nhắc lại lệnh thức tuyệt đối, cũng giống như việc nhắc tới “giá trị thực chất”2 ở Nam Phi. Nguồn gốc Kitô giáo của quyền phẩm giá có dẫn chứng từ thực tế chính các đảng Dân chủ Kitô giáo thúc đẩy hầu hết quá trình hiến pháp bảo vệ phẩm giá, bắt đầu từ Hiến pháp Ireland năm 1937. Tuy nhiên, không có hiến pháp nào đề cập đến Kitô giáo một cách rõ ràng, hoặc tìm cách kết nối quyền chính trị với niềm tin tôn giáo3.
Truyền thống tự do của người Mỹ gốc Anh bắt đầu từ Hobbes và Locke và tiếp tục bởi các nhà tư tưởng thế kỷ 19 như John Stuart Mill với cách tiếp cận ít siêu hình hơn về quyền tự trị. Truyền thống này không xây dựng quyền tự xung quanh ý chí tự do: tự do đơn giản là khả năng mưu cầu ước muốn và khát vọng không chịu ràng buộc từ bên ngoài (đối với Hobbes, con người giống như cỗ máy do ước muốn thôi thúc tiến về phía trước, ý chí đơn giản là “thèm khát cuối cùng có cân nhắc”, hay ước muốn mạnh mẽ nhất của một cá nhân). Do đó, từ phẩm giá , với hàm ý của Kant và Kitô giáo, không xuất hiện trong Hiến pháp Hoa Kỳ, hay trong văn bản khai quốc như Tập Tiểu luận Liên bang4. Tuy nhiên, quan niệm của Hobbes cho rằng con người về căn bản bình đẳng với quyền tự do tự nhiên của họ trở thành cơ sở cho quyền chính trị mà khế ước xã hội dựa vào. Quyền tự nhiên của Hobbes được đưa vào Tuyên ngôn Độc lập của Hoa Kỳ như một phần của “quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Vì vậy, một tiền đề hơi khác về bản chất tự trị dẫn tới một chế độ tương tự phục vụ cho việc bảo vệ quyền cá nhân một cách bình đẳng.
Truyền thống chính trị tự do đã thể chế hóa một phiên bản của quyền tự trị cá nhân, bằng cách trao quyền bình đẳng cho công dân. Nhưng phiên bản về quyền tự trị của Rousseau chỉ ra thứ sâu sắc và phong phú hơn so với sự tham gia chính trị “đơn thuần”. Ông thấy trong chính ông “chất chứa” những cảm xúc bị xã hội áp chế; cảm xúc này là ý thức không vui vốn bị xã hội xa lánh sâu sắc và đấu tranh để giải phóng. Như Charles Taylor giải thích:
Đây là lý tưởng đạo đức mạnh mẽ đến với chúng ta. Nó gắn tầm quan trọng quyết định của đạo đức với một kiểu kết nối với chính bản thân, với bản chất bên trong của chính mình, điều mà nó thấy có nguy cơ mất đi, một phần bởi áp lực tuân thủ từ bên ngoài, nhưng cũng bởi mình có thể mất năng lực lắng nghe tiếng nói từ bên trong khi cho rằng chính mình là công cụ5.
Đây là một phần của quá trình đánh giá lại đạo đức bắt đầu từ Luther. Cách lý giải truyền thống của Kitô giáo về nội ngã coi nó như vùng đất của tội tổ tông truyền: chúng ta đầy ham muốn xấu xa khiến bản thân chống lại quy luật của Chúa; quy tắc xã hội bên ngoài, do Giáo hội Hoàn vũ thiết lập, chỉ dẫn chúng ta tới việc áp chế ham muốn đó. Rousseau đi theo Luther, nhưng lật ngược giá trị của điều thứ hai: nội ngã là điều tốt hoặc ít nhất có cơ hội trở thành điều tốt, chính quy tắc đạo đức xung quanh mới xấu. Nhưng đối với Rousseau, tự do không chỉ là lựa chọn đạo đức chấp nhận quy tắc đạo đức, nó trở thành biểu hiện đầy đủ của cảm nhận và cảm xúc cấu thành nên nội ngã đích thực. Cảm nhận và cảm xúc này thường được thể hiện tốt nhất trong nghệ thuật.
Khi Lionel Trilling đưa ra những giải thích thông tuệ trong cuốn sách của ông Sự chân thành và Tính xác thực (Sincerity and Authenticity), văn học châu Âu thời hậu Rousseau chứng kiến sự trỗi dậy của một dòng tác phẩm bắt đầu với Cháu ông Rameau (Rameau’s Nephew) của Diderot và Nỗi đau của chàng Werther (Sufferings of Young Werther) của Goethe, tôn vinh những người nghệ sĩ không thể tìm được điểm tựa trong xã hội, họ tìm cách thể hiện chân thực khả năng thiên tài sáng tạo của mình. Những hình mẫu như Vincent van Gogh hay Franz Kafka, những người không được trọng vọng trong thời đại của họ, trở thành biểu tượng cho sự trì trệ của một xã hội tầm thường vốn không có khả năng trọng vọng chiều sâu tính cá nhân mà họ đại diện.
Sự thay đổi này trong tính nhạy cảm văn học phản ánh thất bại căn bản và sâu sắc hơn trong đồng thuận đạo đức ở châu Âu. Nhà thờ với tư cách mang tính thể chế, xác định giới hạn đạo đức ở châu lục này, ngày càng bị công kích bởi các danh nhân thời kỳ Khai sáng như Voltaire nhắm vào sự liên kết của chúng với hiện trạng chính trị tiền dân chủ. Nhưng chính sự thật nền tảng của Kitô giáo cũng ngày càng bị nghi ngờ, chẳng hạn như nhà thần học tự do đầu thế kỷ 19, David Strauss, trong tác phẩm Cuộc đời Chúa Jesus (Life of Jesus) cho rằng Jesus nên được hiểu là một nhân vật lịch sử đơn thuần chứ không phải đứa Con thực sự của Chúa6. Xu hướng này lên đến đỉnh điểm vào cuối thế kỷ 19 với tư tưởng của Friedrich Nietzsche, người cho rằng Chúa Kitô là có thật, thiết lập ranh giới đạo đức rõ ràng cho xã hội châu Âu. Nhưng Chúa đã chết với sự thất bại của niềm tin, để lại khoảng trống đạo đức có thể được các giá trị thay thế trám chỗ. Không giống như các nhà đạo đức truyền thống, Nietzsche tôn vinh thực tế này vì nó mở rộng phạm vi quyền tự chủ của con người trên quy mô lớn: con người tự do không những chấp nhận luật lệ đạo đức, như theo Luther và Kant, mà còn tự tạo ra luật đó. Trong tư tưởng của Nietzsche, hình thức cao nhất trong biểu hiện nghệ thuật chính là tự sáng tạo giá trị. Người tự chủ nhất là hình ảnh Zarathustra của họ, có thể tuyên bố đánh giá lại tất cả các giá trị sau cái chết của Chúa Kitô giáo.
Xã hội tự do hiện đại kế thừa sự mơ hồ về mặt đạo đức do ranh giới tôn giáo chung biến mất. Hiến pháp bảo vệ phẩm giá cá nhân và quyền cá nhân, và phẩm giá đó dường như tập trung vào khả năng cá nhân có thể đưa ra lựa chọn đạo đức. Nhưng phạm vi của lựa chọn đó là gì? Lựa chọn bị giới hạn trong việc chấp nhận hoặc từ chối một tập hợp quy tắc đạo đức được xã hội xung quanh thiết lập, hay tự chủ thực sự bao gồm khả năng tạo nên những quy tắc đó? Với sự đi xuống về niềm tin chung đối với Kitô giáo trong thế kỷ 20 ở xã hội phương Tây, quy tắc và giá trị khác từ nền văn hóa khác, cũng như lựa chọn không tin vào tất cả, bắt đầu thay thế những thứ truyền thống. Lựa chọn cá nhân ở lĩnh vực ngoài đạo đức bắt đầu mở rộng cùng với nền kinh tế thị trường và dịch chuyển xã hội chung mà lựa chọn đó thấy cần thiết: mọi người có thể chọn nghề nghiệp, người kết hôn, nhà ở, và nhãn hiệu kem đánh răng. Có vẻ hợp lý khi cho rằng họ cũng nên có một số lựa chọn trong giá trị đạo đức. Vào cuối thế kỷ 20, hiểu biết về phạm vi tự chủ cá nhân mở tới vô cùng trong hầu hết các nền dân chủ hiện đại, dẫn đến sự phát triển của những gì đôi khi được gọi là chủ nghĩa cá nhân biểu hiện. Một đường gạch nối rõ ràng đi từ tác phẩm Bên kia bờ Thiện Ác (Beyond Good and Evil) của Nietzsche đến lời khẳng định của Thẩm phán Tòa án Tối cao Hoa Kỳ Anthony Kennedy, trong phán quyết tại vụ kiện giữa Tổ chức Kế hoạch hóa Gia đình Hoa Kỳ và Cases (Planned Parenthood v. Casey) năm 1992, rằng tự do là “quyền định nghĩa quan niệm của chính bản thân về tồn tại, ý nghĩa, vũ trụ, và sự huyền bí của cuộc sống con người”7.
Với cách hiểu này về quyền tự chủ, vấn đề nảy sinh nằm ở giá trị chung, giúp thiết lập chức năng quan trọng, [chức năng đó là khiến đời sống xã hội trở nên khả thi. Nếu chúng ta không chấp nhận một nền văn hóa chung tối thiểu, chúng ta không thể hợp tác trong công việc chung và không nhìn nhận các thể chế giống hệt nhau đều có tính chính danh. Thật vậy, chúng ta thậm chí không thể giao tiếp với nhau mà không có ngôn ngữ chung được hiểu theo cùng một cách.
Một vấn đề khác với cách hiểu mở rộng này về quyền tự chủ cá nhân là không phải ai cũng là siêu nhân theo nghĩa của Nietzsche, những người tìm cách đánh giá lại tất cả các giá trị. Con người là sinh vật có tính xã hội mãnh liệt, chiều hướng cảm xúc của họ khiến họ muốn tuân thủ chuẩn mực xung quanh. Khi một ranh giới đạo đức chung, ổn định biến mất và bị thay thế bằng sự hỗn tạp các hệ thống giá trị cạnh tranh, đại đa số sẽ không hoan hỉ với việc có được sự tự do lựa chọn mới. Thay vào đó, họ cảm thấy sự bất an và xa lạ cực lớn vì họ không biết bản ngã thật của mình là ai. Cuộc khủng hoảng về bản sắc này dẫn tới một chiều hướng đối nghịch từ chủ nghĩa cá nhân biểu đạt (expressive inpidualism), sang việc tìm kiếm bản sắc chung để tái gắn kết cá nhân vào nhóm xã hội và tái thiết lập ranh giới đạo đức rõ ràng. Thực tế tâm lý này đặt nền tảng cho chủ nghĩa dân tộc.
Hầu hết mọi người không có chiều sâu vô hạn của tính cá nhân của riêng họ. Những gì họ tin là nội ngã đích thực trên thực tế được cấu thành từ mối quan hệ của họ với người khác, và từ chuẩn mực và kỳ vọng mà người khác đưa ra. Khi một người sống ở Barcelona, đột nhiên nhận ra bản sắc thực sự của mình là người Catalan chứ không phải người Tây Ban Nha, đơn giản họ chỉ mới xới xáo tới lớp bản sắc xã hội sâu hơn đặt bên dưới một lớp gần bề mặt hơn.
Chính trị về sự công nhận và phẩm giá trở thành một chiếc xiên hai nhánh vào đầu thế kỷ 19. Một nhánh dẫn đến sự thừa nhận phổ quát quyền cá nhân và từ đó dẫn đến xã hội tự do tìm cách cung cấp cho người dân một phạm vi tự chủ cá nhân không ngừng được mở rộng. Nhánh còn lại dẫn đến sự khẳng định bản sắc tập thể, trong đó hai hình thức chính là chủ nghĩa dân tộc và tôn giáo chính trị hóa. Châu Âu cuối thế kỷ 19 chứng kiến sự trỗi dậy của cả hai kiểu phong trào tự do và dân chủ đòi sự thừa nhận phổ quát của cá nhân và sự xuất hiện đáng ngại hơn của một chủ nghĩa dân tộc phân biệt (exclusive nationalism), cuối cùng đã gây ra các cuộc chiến tranh thế giới đầu thế kỷ 20. Trong thế giới Hồi giáo đương đại, bản sắc tập thể đang hình thành dưới chủ nghĩa Hồi giáo - nghĩa là, nhu cầu thừa nhận một vị thế đặc biệt cho Hồi giáo là nền tảng của cộng đồng chính trị.
Định hướng hai mặt này - tiến tới sự thừa nhận phổ quát về quyền cá nhân, và tới sự thừa nhận tập thể dựa trên quốc gia - được thể hiện rõ nét trong tác phẩm của Jean-Jacques Rousseau, người mà vào những thời điểm khác nhau đã tôn vinh cả kẻ mơ mộng cô độc ôn hòa và ý chí tập thể vũ lực. Cả hai đều hiện hữu từ những ngày đầu của chính Cách mạng Pháp với hai biểu ngữ được giương lên: một biểu ngữ phổ quát thúc đẩy Quyền Con người bình đẳng xuyên biên giới quốc gia, và một biểu ngữ của quốc gia Pháp tìm cách bảo vệ tổ quốc (patrie) Pháp thoát khỏi ngoại xâm. Khi Cách mạng bị Napoléon lật đổ, ông đồng thời theo đuổi cả hai mục tiêu, sử dụng sức mạnh quân sự để truyền bá Đạo luật Napoléon tự do trong khi áp đặt sự bá quyền của Pháp lên các khu vực của châu Âu mà ông chinh phục.
Đặc tính kép này cũng hiện hữu cả trong Mùa xuân Ả Rập và Cách mạng Phẩm giá ở Ukraine. Hàng triệu công dân Ả Rập trên khắp Trung Đông có thể đồng cảm với Mohamed Bouazizi, nhưng không phải tất cả đều muốn sống trong một xã hội thừa nhận quyền bình đẳng của mọi công dân, bất kể tôn giáo nào. Chế độ chuyên quyền như của Zine al-Abidine Ben Ali ở Tunisia và Hosni Mubarak ở Ai Cập là những nhà độc tài quân bình cơ hội, theo chủ nghĩa thế tục, đàn áp không chỉ những người theo chủ nghĩa tự do kiểu phương Tây mà cả người theo chủ nghĩa Hồi giáo. Những người ủng hộ hệ thống kế nhiệm bầu cử tự do tranh đấu với người theo chủ nghĩa Hồi giáo, những người tìm kiếm định nghĩa tôn giáo về bản sắc dân tộc. Khi Tổ chức Anh em Hồi giáo lên nắm quyền ở Ai Cập thông qua bầu cử dân chủ năm 2012, họ đe dọa sẽ tạo nên chế độ độc tài của riêng họ, khiến quân đội tiến hành cuộc đảo chính vào tháng Sáu năm 2013. Nhiều người theo kiểu chủ nghĩa tự do Ai Cập trước đây đã ủng hộ việc tiếp quản này để ngăn chặn Ai Cập trở thành một nước cộng hòa Hồi giáo.
Tương tự, cuộc Cách mạng Phẩm giá ở Maidan dựa vào liên minh gồm những người theo chủ nghĩa tự do kiểu phương Tây, muốn Ukraine gia nhập Liên minh châu Âu và trở thành một quốc gia châu Âu thông thường. Nhưng họ đã bắt tay với những người theo chủ nghĩa dân tộc Ukraine từ các nhóm như Nhóm Cực hữu (Right Sector), những người tìm cách bảo vệ bản sắc văn hóa riêng biệt của Ukraine và ít quan tâm hơn đến một Ukraine tự do, mở cửa.
Chúng ta sẽ trở lại câu hỏi về cách hiểu của chủ nghĩa cá nhân về phẩm giá và quyền tự chủ đã phát triển như thế nào tại các xã hội tự do ở thế kỷ qua trong chương 10 và 11. Trong khi đó, chúng ta sẽ xem xét kỹ hơn hai hình thức bản sắc tập thể, dựa trên chủ nghĩa dân tộc và tôn giáo.
Cả chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa Hồi giáo - nghĩa là Hồi giáo chính trị - có thể được coi là hai mặt của một đồng tiền. Cả hai đều là biểu hiện cho bản sắc của nhóm bí mật hoặc bị đàn áp, những nhóm đi tìm sự thừa nhận. Và cả hai hiện tượng đều xuất hiện trong những hoàn cảnh tương tự, khi hiện đại hóa kinh tế và sự thay đổi xã hội nhanh chóng làm suy yếu hình thức cộng đồng cũ và thay thế chúng bằng hệ thống đa nguyên phức tạp gồm các hình thức liên kết thay thế.
Nói một cách chính xác, Luther tin rằng đức tin là món quà từ Chúa, thành quả từ sự ân sủng của Chúa, và không phải là thứ một cá nhân đơn thuần có thể muốn có. Những người theo thuyết Calvin đưa học thuyết này đi xa hơn, tin rằng cá nhân được tiền định sẽ được cứu rỗi hoặc không, họ không phải là chủ thể trong kết quả. Tuy nhiên, theo cả hai học thuyết, đức tin là một đặc điểm của nội ngã và vẫn cần tuân theo luật lệ của Chúa, thứ mà nội dung của nó nằm ngoài sự lựa chọn của con người.↩︎
Rex Glensy, “The Right to Dignity”, Columbia Human Rights Law Review 43 (65) (2011): 65-142.↩︎
Samuel Moyn, “The Secret History of Constitutional Dignity”, Yale Human Rights and Development Journal 17 (2) (2014): 39-73. Thuật ngữ phẩm giá được đưa vào tranh luận trong chủ đề phá thai, vì Giáo hội Công giáo vẫn cho rằng nhân phẩm bắt đầu từ lúc thụ thai và tạo nên trạng thái đạo đức bất khả xâm phạm.↩︎
Glensy (“Right to Dignity”,77) lưu ý từ phẩm giá xuất hiện trong Tiểu luận Liên Bang số 1 (của Hamilton), nhưng chỉ dành cho địa vị quan chức cao cấp.↩︎
Taylor, Ethics of Authenticity , 29.↩︎
David F. Strauss, The Life of Jesus, Critically Examined (London: Chapman Brothers, 1846).↩︎
Planned Parenthood of Southeastern Pennsylvania v. Casey, 505 U.S. 833.↩︎