Chương 7 CHỦ NGHĨA DÂN TỘC VÀ TÔN GIÁO
Luther, Rousseau, Kant và Hegel hiểu phẩm giá theo những cách khác nhau. Nhưng họ là những người theo chủ nghĩa phổ quát khi họ tin vào sự bình đẳng phẩm giá của tất cả mọi người dựa trên tiềm năng về tính tự do bên trong. Tuy nhiên, nhu cầu được thừa nhận thường có hình thái cụ thể hơn, tập trung vào phẩm giá của một nhóm cụ thể bị gạt ra ngoài lề hoặc không được tôn trọng. Đối với nhiều người, nội ngã, điều cần được biến thành hữu hình, không phải là dạng thức của một con người chung chung, mà là của một loại người cụ thể từ một địa điểm cụ thể và tuân theo phong tục cụ thể. Những bản sắc bán phần này có thể dựa vào dân tộc, hoặc tôn giáo. Vì chúng đòi hỏi việc thừa nhận phẩm giá của một nhóm cần được cân nhắc, chúng biến thành các phong trào chính trị mà chúng ta đặt tên là chủ nghĩa dân tộc hoặc chủ nghĩa Hồi giáo.
Johann Gottfried von Herder là nhà tư tưởng đóng vai trò quan trọng trong việc chuyển trọng tâm cuộc đấu tranh cho sự công nhận từ cá nhân trong môi trường tự do chung phổ quát sang tự do tập thể dựa trên đặc điểm quốc gia hoặc văn hóa cụ thể. Ông là một sinh viên ở cuối thế kỷ 18 và cùng thời với Kant. Herder thường bị công kích với tư cách là cha đẻ của chủ nghĩa dân tộc sắc tộc hiện đại ở châu Âu, một nhà văn tôn vinh Volk (người dân) nguyên thủy, và là tổ tiên xa của Adolf Hitler.
Góc nhìn này rất không công bằng đối với một nhà tư tưởng mà chưa được tìm hiểu và nghiên cứu đầy đủ trong thế giới nói tiếng Anh. Herder chia sẻ nhiều quan điểm Khai minh của Kant về sự bình đẳng của con người, nhưng dành nhiều thời gian hơn hẳn để nghiên cứu tài liệu về các chuyến đi của người châu Âu đến những vùng đất ngoại quốc chưa được biết tới và ghi lại những quan sát về phong tục địa phương. Trong tác phẩm Suy tư về Triết lý Lịch sử Loài người (Reflections on the Philosophy of the History of Mankind), Herder tuyên bố rõ rằng chỉ có một loài người đơn nhất và ông công kích các tác giả khác, những người cố gắng thiết lập hệ thống phân cấp chủng tộc thế giới. Ông đồng cảm với nỗi đau của người châu Phi bị bắt làm nô lệ và khẳng định rằng nền văn hóa có thể được đánh giá thông qua cách đối xử với phụ nữ. Ở thời kỳ trước cả khi khám phá ra ngành di truyền học hiện đại, ông đã có hiểu biết tinh tế đáng kinh ngạc về tương tác hỗn tạp giữa đặc điểm sinh học và môi trường trong việc định hình hành vi1.
Tuy nhiên, Herder lập luận rằng mỗi cộng đồng loài người là độc nhất và tách biệt với các cộng đồng láng giềng. Ông lưu ý rằng khí hậu và địa lý có tác động rất lớn đến phong tục của các dân tộc khác nhau, mỗi dân tộc đều biểu lộ “tính thiên tài” của riêng họ theo hướng thích nghi với hoàn cảnh địa phương. Không giống như Hegel, người chỉ đơn giản loại bỏ châu Phi như thể không liên quan gì đến lịch sử loài người, Herder có cái nhìn cảm thông đối với nền văn hóa ngoài châu Âu. Giống như một nhà nhân chủng học văn hóa đương đại, ông quan tâm đến việc mô tả hơn là đánh giá các dân tộc khác. Và, ở thời đại trước khi châu Âu đẩy mạnh việc xâm chiếm toàn cầu, ông đã đưa ra lời cảnh báo mà các nhà lập quốc đương đại nên học thuộc lòng: “Đừng bao giờ suy tưởng rằng tài nghệ loài người cùng với quyền uy bạo ngược có thể ngay lập tức chuyển đổi một vùng đất ngoại quốc thành một châu Âu khác”2.
Herder rõ ràng có liên hệ với chủ nghĩa dân tộc hiện đại. Tác phẩm của ông tìm cách đề cao phong tục và truyền thống độc đáo của mỗi dân tộc trên thế giới. Giống như Rousseau, ông không tin những người sống trong thời kỳ lịch sử sau này nhất thiết phải tốt hơn hoặc hạnh phúc hơn người “nguyên thủy” trước đó. Ông đồng ý xã hội có thể buộc chúng ta phải diễn những vai trái nghịch. Với cách hiểu như vậy, quan điểm của ông rất khác với Hegel, người ở thế hệ sau cho rằng lịch sử là phổ quát và tiến bộ3.
Herder áp dụng ý tưởng của ông về tính xác thực văn hóa vào nước Đức thời đó, vốn bị chia rẽ thành vô số tiểu công quốc, phần nhiều trong số đó tìm cách bắt chước phong cách tráng lệ và văn hóa của triều đình Pháp tại Versailles. Herder lập luận người Đức cần phải tự hào về văn hóa và truyền thống của riêng mình hơn là tìm cách trở thành người Pháp hạng hai. Ông tìm kiếm sự công nhận, không phải vì tính trừu tượng như “Con người” trong Quyền Con người, mà cho người dân thường cụ thể và, hiểu rộng ra, cho mọi cộng đồng dân cư khác.
“Thế kỷ 19 mở rộng từ Cách mạng Pháp đến thời điểm bùng nổ Thế chiến I năm 1914 chứng kiến hai phiên bản của phẩm giá và hai cách tiếp cận đối với bản sắc cạnh tranh với nhau. Phiên bản đầu tiên tìm kiếm sự thừa nhận Quyền Con người phổ quát (tại thời điểm đó, cũng không nhất thiết phải cho phụ nữ). Phiên bản khác tìm kiếm sự thừa nhận về phẩm giá của các dân tộc cụ thể bị dân tộc khác áp bức hoặc kìm kẹp. Hai phiên bản khác nhau này của phẩm giá, phổ quát hóa và quốc gia hóa, tranh đấu với nhau trong nhiều thập niên; ví dụ như các cuộc cách mạng năm 1848 nổ ra dưới cả danh nghĩa quyền tự do và quyền tự quyết dân tộc. Đến đầu thế kỷ 20, phiên bản tự do của phẩm giá có thêm một học thuyết phổ quát khác, chủ nghĩa xã hội của Marx, đấu tranh cho quyền của giai cấp vô sản. Cả hai phong trào tự do và xã hội chủ nghĩa tranh đấu với chủ nghĩa dân tộc thông qua hai cuộc chiến tranh thế giới, sau khi chủ nghĩa phát-xít thất bại năm 1945, hai học thuyết phổ quát xuất hiện như hai cực, chính trị toàn cầu thời kỳ Chiến tranh Lạnh được tổ chức xoay quanh chúng. Mặc dù các thể chế châu Âu được thiết kế để kiểm soát chủ nghĩa dân tộc, nhưng phiên bản này không bao giờ bị hạ bệ hoàn toàn và đã tái xuất như thế lực mới trong thế kỷ 21.
Ý tưởng đóng vai trò quan trọng đối với cách lý giải về sự phát triển của chủ nghĩa dân tộc, nhưng những thay đổi quan trọng về kinh tế và xã hội cũng diễn ra tạo tiền đề cho sự xuất hiện của chủ nghĩa dân tộc ở châu Âu thế kỷ 19, Trật tự cũ ở châu Âu thời trung cổ có tính phân tầng và phân cấp theo tầng lớp xã hội; chế độ phong kiến chia dân châu Âu vào vô số chính thể nhỏ và được thiết kế để ghim chặt người dân vào một chỗ.
Ngược lại, nền kinh tế thị trường hiện đại dựa vào khả năng di chuyển tự do của lao động, vốn và ý tưởng từ nơi dư thừa đến nơi có thể kiếm được lợi tức cao. Quyền thừa nhận phổ quát từ xã hội tự do tạo thuận lợi cụ thể cho phát triển tư bản, vì nó bảo vệ quyền tự do cá nhân thực hiện giao thương tránh khỏi can thiệp nhà nước và bảo vệ quyền sở hữu tài sản tư nhân. Do đó, không có gì đáng ngạc nhiên khi chủ nghĩa tự do trở thành bà đỡ của tăng trưởng kinh tế và hai trong số những xã hội tự do nhất thời bấy giờ, Anh và Hoa Kỳ, là đầu tàu dẫn dắt quá trình công nghiệp hóa trong suốt thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20.
Nhưng nền kinh tế thị trường hiện đại cũng đòi hỏi điều gì đó giống như chủ nghĩa dân tộc và bản sắc theo quốc gia dân tộc. Chủ nghĩa dân tộc là học thuyết mà những biên giới chính trị phải tương ứng với cộng đồng văn hóa, với văn hóa được định nghĩa chủ yếu bởi ngôn ngữ chung. Ở châu Âu tiền hiện đại, Pháp là một bức tranh đa ngôn ngữ, ngoài tiếng Pháp của Paris còn có các ngôn ngữ khác như tiếng Breton, Picard, Hà Lan-Bỉ (Flemish) và Provencal. Ở những nơi khác của châu Âu, nông dân trong trang viên địa phương thường nói ngôn ngữ khác với lãnh chúa; tiếng Latin là ngôn ngữ triều chính của Đế chế Habsburg cho đến thế kỷ 19. Khắp Trung và Đông Âu, người Đức trộn lẫn với người Ba Lan, Moravia, Ukraine, Hung và nhiều tộc người khác trong cộng đồng nhỏ, tự thân. Tất cả điều này cản trở sự dịch chuyển cần thiết phục vụ cho thị trường lao động của xã hội đang trong thời kỳ công nghiệp hóa. Như nhà nhân chủng học xã hội Ernest Gellner giải thích, “Xã hội xuất hiện dựa trên công nghệ công suất lớn và kỳ vọng tăng trưởng bền vững, đòi hỏi cả quá trình phân công lao động mang tính cơ động, và quá trình giao tiếp chính xác, thường xuyên, và bền vững giữa những người lạ với nhau”. Điều này yêu cầu nhất thiết phải có một ngôn ngữ quốc gia thống nhất, và một hệ thống giáo dục do nhà nước bảo trợ nhằm quảng bá văn hóa quốc gia. “Khả năng có việc làm, phẩm giá, an ninh và lòng tự trọng của cá nhân… giờ đây phụ thuộc vào giáo dục … Con người hiện đại không trung thành với vua hay vùng đất, đức tin, hay bất cứ điều gì có thể kể ra, ngoại trừ văn hóa”4.
Những chủ nghĩa dân tộc cũng được tạo ra từ nỗi lo khủng khiếp nảy nở từ quá trình công nghiệp hóa. Hãy nhìn vào hoàn cảnh của Hans, người nông dân trẻ lớn lên trong ngôi làng nhỏ ở bang Saxony. Cuộc sống của Hans trong ngôi làng nhỏ được định sẵn: anh sống cùng nhà với bố mẹ và ông bà, anh đính hôn với một cô gái mà cha mẹ anh cảm thấy ổn, anh được linh mục địa phương rửa tội, và anh dự định tiếp tục làm việc trên một mảnh đất giống với cha anh. Câu hỏi “Tôi là ai?” không xảy đến với Hans vì câu hỏi đó anh đã có câu trả lời đến từ những người xung quanh anh. Tuy nhiên, anh nghe nói cơ hội lớn đang mở ra ở thung lũng Ruhr với quá trình công nghiệp hóa đang diễn ra nhanh, vì vậy anh đến Düsseldorf để kiếm việc làm trong một nhà máy thép ở đó.
Hans hiện sống trong ký túc xá với hàng trăm thanh niên khác như mình, đến từ khắp miền Tây Bắc nước Đức. Mọi người nói phương ngữ khác nhau; một số người anh gặp không phải là người Đức, mà là người Hà Lan hoặc Pháp. Anh ta không còn chịu sự kiểm soát của cha mẹ, linh mục địa phương và thấy cả những người theo tôn giáo khác với những người trong làng anh. Anh vẫn hứa hôn với vợ sắp cưới nhưng cũng bị hấp dẫn bởi một số phụ nữ địa phương anh gặp, và anh có cảm giác tự do căng tràn trong đời sống cá nhân.
Đồng thời Hans cũng gặp rắc rối. Lúc ở làng, xung quanh anh là bạn bè và người thân, những người biết anh và giúp đỡ anh lúc ốm đau hay mùa màng thất bát. Anh không có được sự chắc chắn đó nơi những người bạn và người quen mới của anh và không chắc rằng chủ mới của anh, một tập đoàn lớn, quan tâm tới lợi ích của anh. Anh nghe kể rằng một số cảm tình viên chủ nghĩa Cộng sản đang đẩy mạnh việc thành lập công đoàn trong nhà máy, nhưng anh nghe được những điều không hay về họ và cũng không tin họ. Các tờ báo đầy những câu chuyện mâu thuẫn với nhau về cuộc chiến trong quốc hội, và anh không chắc nên tin ai. Hans nghi ngờ rằng tất cả đảng phái chính trị hiếu chiến này đều ích kỷ và không quan tâm gì đến việc đại diện cho anh. Phần nước Đức trong anh trở thành một phần của Reich (đế quốc) rộng lớn, điều anh có thể cảm thấy tự hào, nhưng cũng là thứ đang đi nhanh tới tương lai không chắc chắn. Anh cảm thấy cô đơn và mất kết nối với mọi thứ xung quanh; anh hoài niệm về ngôi làng của mình, nhưng không muốn quay lại đó, vì đó là dấu hiệu của sự thất bại cá nhân. Lần đầu tiên trong đời, Hans có thể đưa ra lựa chọn về cách anh sống, nhưng anh tự hỏi mình thực sự là ai và mình muốn trở thành ai. Câu hỏi về bản sắc, vốn chưa bao giờ là vấn đề khi anh ở trong làng, giờ trở thành tâm điểm.
Câu chuyện đời tư của Hans được nhà lý thuyết xã hội thế kỷ 19 Ferdinand Tönnies đặc tả như sự dịch chuyển từ Gemeinschaft sang Gesellschaft , hay từ cộng đồng (làng) sang xã hội (thành thị). Đó là trải nghiệm của hàng triệu người dân châu Âu thế kỷ 19 và hiện diễn ra trong các xã hội đang công nghiệp hóa nhanh chóng như Trung Quốc và Việt Nam.
Rối loạn tâm lý do chuyển đổi từ Gemeinschaft sang Gesellschaft tạo nền tảng cho hệ tư tưởng chủ nghĩa dân tộc dựa trên nỗi nhớ da diết về quá khứ tưởng tượng về cộng đồng vững mạnh, trong đó không tồn tại chia rẽ và hoang mang như ở xã hội hiện đại đa nguyên. Ngay trước sự trỗi dậy của Adolf Hitler những năm 1930, các nhà văn Đức than thở về việc mất đi Gemeinschaft và những gì họ coi là sự tha hóa của xã hội tự do phổ quát.
Nhà sử học Fritz Stern đưa ra phân tích về một số nhà tư tưởng thời kỳ đầu nghiên cứu về bản sắc của nước Đức, như nhà học giả nghiên cứu Kinh Thánh (biblical scholar) cũng là nhà phê bình có ảnh hưởng lớn, Paul de Lagarde. Lagarde sống trong thời kỳ nước Đức mới được thống nhất của Bismarck cuối thế kỷ 19, khi nước này đang trải qua phép màu tăng trưởng kinh tế, công nghiệp hóa, quyền lực quân sự và chính trị đang trỗi dậy. Thế nhưng với vô số nghiên cứu và tiểu luận của mình (được tập hợp thành Tiểu luận nước Đức (German Writings) năm 1886), Lagarde không thấy gì quanh ông ngoài suy bại văn hóa: tinh thần Đức chìm vào cuộc tự tìm kiếm là kết quả của học thuyết tự do dựa trên duy lý và khoa học. Nước Đức xưa thuộc về hành vi đạo đức và cộng đồng gắn kết, điều này cần được khôi phục lại. Ông mường tượng về tôn giáo mới gắn Kitô giáo với “đặc tính dân tộc của người Đức”, đức tin trở thành nền tảng cho bản sắc dân tộc mới. Lagarde viết, “Một khi quốc gia, dân tộc] có cùng ý chí, tất cả xung đột đều được đẩy lùi”. Như một sự ruồng bỏ trừu tượng, ông chưa bao giờ nổi danh như ông nghĩ mình xứng đáng nhận được khi tự mình diễn giải Bản Bảy Mươi (Septuagint)5; việc gắn kết với người dân là giải pháp tức thì cho nỗi cô đơn của riêng cá nhân ông và là nguồn gốc của phẩm giá mà ông không thể có được với tư cách một học giả độc lập6.
Lagarde, cũng giống như Julius Langbehn, Arthur Moeller van den Bruck, và những nhà tư tưởng khác theo chủ nghĩa dân tộc Đức thế kỷ 19, xem người dân Đức là nạn nhân của thế lực bên ngoài. Lagarde đưa ra quan điểm đầy bí ẩn cho lý do tại sao văn hóa Đức suy bại: người Do Thái mang trong mình sự hiện đại tự do, tự chen chân vào đời sống văn hóa nước Đức hiện đại mới, mang theo tư tưởng phổ quát về dân chủ và chủ nghĩa xã hội làm suy yếu sự thống nhất của dân tộc Đức. Để tái thiết sự vĩ đại của người Đức, người Do Thái phải bị loại trừ ra khỏi trật tự mới mà ông hình dung.
Các trí thức từ Friedrich Nietzsche đến Ernst Troeltsch, Thomas Mann đều cảm thông khi đọc tác phẩm của Lagarde, và tác phẩm của ông được phát-xít Đức phân phối rộng khắp7. Ông nói lên nỗi lo của mọi người khi chuyển đổi từ xã hội làng xã nông nghiệp sang cuộc sống công nghiệp thành thị hiện đại, cuộc chuyển đổi mà hàng triệu người châu Âu trải qua, khiến câu hỏi về bản sắc trở nên thường trực. Đây là thời điểm mà tính cá nhân trở thành chính trị. Các nhà tư tưởng như Lagarde đưa ra câu trả lời rất đơn giản cho những người nông dân đang hoang mang như Hans: Bạn là người Đức có niềm tự hào dân tộc, thừa kế nền văn hóa cổ đại, được kết nối với tất cả hàng triệu người Đức khác sống rải rác ở Trung và Đông Âu thông qua ngôn ngữ chung. Người công nhân lạc lõng và hoang mang giờ đây có ý thức rõ ràng về phẩm giá, thứ phẩm giá mà nay anh mới nhận ra đã bị coi rẻ bởi những kẻ xấu, [những kẻ] bằng cách nào đó thâm nhập vào xã hội của mình.
Hình thức mới của phẩm giá dựa trên văn hóa và ngôn ngữ chung đã giải phóng khát vọng mới, vì nhóm cộng đồng văn hóa mới này sống trong chính thể cũ như Đế quốc Áo-Hung dựa vào sự gắn kết với triều đại hơn là văn hóa. Hợp nhất người Đức rải rác dưới một Reich duy nhất trở thành công cuộc chính trị trong ba thế hệ tiếp theo do các nhà lãnh đạo từ Bismarck đến Hitler thực hiện. Các quốc gia dân tộc khác - người Serbia, Ba Lan, Hung, Nga - cũng tìm cách tạo ra hoặc củng cố nhà nước dựa trên chủ nghĩa quốc gia dân tộc, đưa châu Âu đến hai cuộc chiến tranh thế giới tàn khốc vào đầu thế kỷ 20.
Bản sắc cũng trở thành vấn đề quan trọng trong thế giới thuộc địa sau này. Một số vùng của châu Á, châu Phi và châu Mỹ Latin do các cường quốc châu Âu thống trị, không hoàn toàn bước vào quá trình công nghiệp hóa như châu Âu. Thay vào đó, họ trải qua giai đoạn đôi khi được gắn mác hiện đại hóa mà không phát triển - tức là, đô thị hóa và quá trình biến chuyển xã hội nhanh chóng không đi cùng với tăng trưởng kinh tế bền vững. Ở đó có thủ đô mới với nhóm nhỏ tinh hoa bản địa hợp tác với cường quốc thực dân quản lý vùng lãnh thổ quốc gia. Thành viên trong giới tinh hoa này tiếp nhận giáo dục châu Âu và nói thứ ngôn ngữ thành thị. Nhưng họ chịu sự xung đột nội tâm dữ dội giữa thứ bản sắc được hấp thụ và truyền thống bản địa nuôi nấng họ. Khi chủ nghĩa dân tộc lan rộng ở châu Âu, nó cũng bén rễ ở thuộc địa của châu Âu, làm bàn đạp mở ra các cuộc nổi dậy ở nhiều nơi như Ấn Độ, Việt Nam, Kenya và Algeria dưới danh nghĩa giải phóng dân tộc vào giữa thế kỷ 20. Chủ nghĩa dân tộc ở thế giới thuộc địa cũng dẫn đến nỗ lực cách mạng hóa văn hóa của giới trí thức. Chẳng hạn, các nhà văn da đen như Aimé Césaire, Léon Damas và Leopold Senghor phát triển quan niệm nền văn hóa da đen (Négritude) giúp người da đen tự hào về chủng tộc và di sản của họ, đả phá sự bôi nhọ của chế độ thực dân đối với họ.
Ernest Gellner là nhà lý thuyết chủ chốt về chủ nghĩa dân tộc, và ông cho rằng chủ nghĩa Hồi giáo hiện đại cần được nhìn dưới lăng kính tương tự về hiện đại hóa và bản sắc. Cả chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa Hồi giáo đều bắt nguồn từ hiện đại hóa. Dịch chuyển từ Gemeinschaft sang Gesellschaft đang diễn ra ở Trung Đông đương đại, vì nông dân hay người du mục bedouin rời vùng nông thôn đến thành phố như Cairo, Amman và Algiers. Ngoài ra, hàng triệu người Hồi giáo trải nghiệm hiện đại hóa bằng cách di cư đến châu Âu hoặc các nước phương Tây khác tìm kiếm cuộc sống tốt hơn, định cư ở Marseille, Rotterdam hay Bradford và đối diện với nền văn hóa xa lạ. Trong các trường hợp khác, thế giới hiện đại đến với họ ở các ngôi làng thông qua truyền hình vệ tinh từ nhà đài như kênh Al Jazeera hay CNN International. Những người sống trong ngôi làng truyền thống với lựa chọn hạn chế đột nhiên phải đối mặt với thế giới đa nguyên với những cách sống rất khác nhau, ở đó quan niệm truyền thống của họ không được tôn trọng.
Vấn đề bản sắc đặc biệt cấp bách đối với người Hồi giáo trẻ ở thế hệ thứ hai lớn lên trong cộng đồng di cư ở Tây Âu. Họ sống trong xã hội thế tục phần đa mang gốc Kitô giáo, không tạo ra sự hỗ trợ chung cho giá trị và tập quán tôn giáo của họ. Cha mẹ họ thường đến từ cộng đồng làng xã khép kín, mang các hình thái Hồi giáo được địa phương hóa, chẳng hạn như thờ cúng thánh Sufi giáo. Giống như nhiều con cái của người nhập cư, chính họ rất muốn tránh xa lối sống cổ hủ của gia đình. Nhưng họ không dễ dàng hòa nhập vào môi trường mới ở châu Âu: tỉ lệ thất nghiệp của thanh niên, đặc biệt người Hồi giáo, tăng 30% và người dân tại nhiều nước châu Âu vẫn tin vào mối liên hệ giữa sắc tộc và tư cách thành viên trong cộng đồng văn hóa chủ đạo - vấn đề này chúng ta sẽ trở lại trong các chương sau.
Trong trường hợp này, sự hoang mang về bản sắc trở nên cấp bách, giống như đối với người châu Âu ở thế kỷ 19 mới bước vào đô thị hóa. Đối với một số người Hồi giáo ngày nay, câu trả lời cho sự hoang mang này không phải là công dân của một quốc gia, mà là thành viên của nhóm tôn giáo lớn hơn, một umma (cộng đồng tín đồ), được đại diện bởi đảng chính trị như Tổ chức Anh em Hồi giáo ở Ai Cập, Đảng Công lý và Phát triển ở Thổ Nhĩ Kỳ hay Đảng Ennahda ở Tunisia. Giống như người theo chủ nghĩa dân tộc cổ điển, người Hồi giáo đương đại hiểu cả phần chẩn đoán vấn đề và phần giải pháp rõ ràng: bạn là một phần của cộng đồng cổ xưa và đáng tự hào, thế giới bên ngoài không tôn trọng bạn với tư cách người Hồi giáo, chúng tôi trao cho bạn cách để kết nối với anh chị em thực sự của bạn, nơi bạn sẽ là thành viên của cộng đồng tín đồ tuyệt vời trải khắp thế giới.
Khẳng định này đối với niềm tự hào về bản sắc có thể giải thích cho biến chuyển văn hóa đang diễn ra trong khắp thế giới Hồi giáo trong thế hệ vừa qua. Sau một thời gian dài, khi xu thế chung đối với người có học thức đến từ Trung Đông là chấp nhận phong tục và cách ăn mặc của phương Tây, một lượng lớn phụ nữ Hồi giáo trẻ ở Ai Cập, Thổ Nhĩ Kỳ, Jordan và các quốc gia Trung Đông khác bắt đầu đeo hijab hay còn gọi là khăn trùm đầu; một số sử dụng các kiểu trang phục nghiêm mật hơn dành cho nữ giới, như vải trùm che toàn bộ mặt, hay niqab. Nhiều người trong số họ thực sự là người Hồi giáo ngoan đạo, nhưng những người khác không phải thực sự vì theo tôn giáo; đúng hơn, đeo khăn trùm đầu là tín hiệu của bản sắc, chỉ dấu cho thấy họ tự hào với văn hóa của họ và không hề e sợ khi được công khai nhìn nhận là người Hồi giáo.
Các đảng Hồi giáo chính thống như đề cập ở trên sẵn sàng tham gia vào hoạt động chính trị dân chủ và giành chiến thắng trong các cuộc bầu cử, đưa họ vào trong chính phủ. Bất chấp việc công khai bày tỏ cam kết theo dân chủ, phe đối lập [của những người] thế tục thường rất ngờ vực về chương trình nghị sự dài hạn của họ. Điều tương tự cũng diễn ra đối với người theo chủ nghĩa dân tộc, không ở trong thế kỷ 19 thì cũng là ngày nay: họ thường hoạt động theo luật dân chủ, nhưng nung nấu khuynh hướng phi tự do tiềm tàng do khát khao đoàn kết và cộng đồng.
Như trường hợp của chủ nghĩa dân tộc, phiên bản cực đoan hơn của tôn giáo được chính trị hóa đã được các nhà tư tưởng như Osama bin Laden hay Abu Bakr al-Baghdadi, người sáng lập Nhà nước Hồi giáo, đưa ra. Diễn ngôn của họ tập trung nhiều hơn vào việc đối xử bất công của Hoa Kỳ, Israel, chế độ của Assad ở Syria, hay Iran, và họ tán thành một cộng đồng thậm chí nghiêm ngặt hơn, chịu ràng buộc bởi cam kết chung về bạo lực và hoạt động chính trị trực tiếp.
Olivier Roy, học giả người Pháp nghiên cứu về Trung Đông chỉ ra rằng nhiều kẻ khủng bố gần đây, chẳng hạn như những kẻ thực hiện cuộc tấn công nhà hát Bataclan ở Paris năm 2015, có lý lịch giống nhau: họ là người Hồi giáo thế hệ thứ hai ở châu Âu khước từ đạo Hồi của cha mẹ (khoảng 25% thế hệ mới của thánh chiến binh (jihadis) là cải sang đạo Hồi với câu chuyện đời tư tương tự như chuyện của thánh chiến binh sinh ra là người theo đạo Hồi)8. Trong những năm đầu, họ dường như bị Tây hóa, uống rượu và hút cần sa, hẹn hò, xem thể thao và nếu không thì cũng có vẻ như thích nghi với môi trường xung quanh. Tuy nhiên, nhiều người đã không tìm được việc làm ổn định và bắt đầu phạm phải một số tội vặt và chạy trốn cảnh sát. Họ sống bên lề cộng đồng của chính mình, không có trải nghiệm gì về sự thành kính hay mối quan tâm đến tôn giáo, cho đến khi họ bất ngờ được “tái sinh” khi xem đoạn phim của lãnh tụ Hồi giáo cực đoan hay được cải đạo bởi kẻ truyền giáo trong tù. Khi họ xuất hiện ở Syria với bộ râu dài và cầm khẩu AK-47 hay thực hiện cuộc tấn công giết người nhằm vào đồng bào châu Âu, gia đình họ luôn tỏ ra bất ngờ và khó hiểu về sự thay đổi này. Roy mô tả đây không phải là cực đoan hóa Hồi giáo, mà là Hồi giáo hóa chủ nghĩa cực đoan - tức là một quá trình đến từ sự bất mãn tương tự đã tạo ra thế hệ cực đoan thời kỳ trước đó, dù là người theo chủ nghĩa dân tộc như Paul de Lagarde hay theo chế độ Cộng sản như Leon Trotsky9.
Mô tả từ Roy gợi ý rằng động cơ đằng sau chủ nghĩa khủng bố thánh chiến mang tính cá nhân và tâm lý hơn là vấn đề tôn giáo, và đưa ra vấn đề cấp bách của bản sắc mà những cá nhân nhất định đang phải đối mặt. Người Hồi giáo châu Âu thế hệ thứ hai nói riêng bị mắc kẹt giữa hai nền văn hóa, của cha mẹ họ, thứ mà họ chối bỏ, và của đất nước tiếp nhận họ, nhưng không hoàn toàn chấp nhận họ. Ngược lại, Hồi giáo cực đoan trao cho họ cộng đồng, sự công nhận và phẩm giá. Roy lập luận rằng số người Hồi giáo trở thành dân khủng bố hoặc đánh bom tự sát là rất nhỏ so với tổng dân số của hơn một tỷ người Hồi giáo trên toàn cầu. Nghèo đói và thiếu thốn, hoặc đơn giản là sự tức giận với chính sách đối ngoại của Mỹ, chắc chắn không dẫn người dân đến chủ nghĩa cực đoan. Nhiều kẻ khủng bố có lý lịch thuộc tầng lớp trung lưu dư dả, và nhiều người trong phần lớn cuộc đời thờ ơ với chính trị và không quan tâm đến chính trị toàn cầu. Không phải vấn đề này cũng như bất kỳ loại hình tôn giáo chân chính nào khiến họ có nhu cầu về bản sắc rõ ràng, lẽ sống và cảm giác tự hào nhiều tới vậy. Họ nhận ra họ có nội ngã không được thừa nhận, thứ mà thế giới bên ngoài cố gắng áp chế10.
Olivier Roy bị chỉ trích gay gắt vì cách giải thích của ông về chủ nghĩa thánh chiến đương đại và việc ông đánh giá thấp khía cạnh tôn giáo trong đó, cụ thể từ học giả Hồi giáo người Pháp Gilles Kepel. Kepel lập luận rằng sẽ không thể hiểu được việc chuyển hướng sang bạo lực và chủ nghĩa cực đoan nếu như bỏ qua các học thuyết tôn giáo đang được quảng bá trên khắp thế giới, và cụ thể đây, lá cờ chủ nghĩa Salafi siêu bảo thủ phất lên từ Ả Rập Xê Út. Ông cáo buộc Roy và phần lớn người Pháp hướng tới việc tha thứ cho đạo Hồi bằng cách giả định vấn đề chủ nghĩa thánh chiến ít liên quan tới một tôn giáo cụ thể. Những người khác chỉ ra rằng nhiều kẻ khủng bố không giống với mô tả của Roy11.
Cuộc tranh luận giữa Roy và Kepel xoay quanh câu hỏi quan trọng: cách hiểu đúng nhất về sự trỗi dậy của chủ nghĩa Hồi giáo cực đoan đầu thế kỷ 21 nên là vấn đề bản sắc, hay là hiện tượng tôn giáo thực sự? Tức là, nó là sản phẩm phụ của xã hội học trong thời đại chúng ta và sự rối loạn do hiện đại hóa và toàn cầu hóa, hay nó đại diện cho đặc điểm xuyên thời gian của một tôn giáo cụ thể và vai trò độc lập của ý tưởng trong việc thúc đẩy hành vi con người? Trả lời được câu hỏi này đóng vai trò quan trọng trong việc biết cách giải quyết vấn đề trên thực tế.
Tuy nhiên, các cách giải thích khác nhau này không có tính loại trừ nhau, chúng có thể bổ sung cho nhau. Olivier Roy đúng khi lưu ý rằng phần rất lớn người Hồi giáo trên thế giới không cực đoan, điều này hàm ý rằng lời giải thích cho chủ nghĩa cực đoan phải bắt nguồn từ câu chuyện cá nhân và trật tự xã hội. Tuy nhiên, Kepel đúng khi những người Hồi giáo trẻ bất mãn ở châu Âu không trở thành người theo chủ nghĩa công đoàn vô chính phủ hay Cộng sản, mà là thánh chiến đi thuyết pháp cho một phiên bản cụ thể của Hồi giáo. Hơn nữa, thế hệ thanh niên cực đoan trước đó đã không tìm cách tự làm họ nổ tung trong cuộc tấn công tự sát, những ý tưởng cụ thể thúc đẩy xu thế này.
Biến đổi xã hội và ý thức hệ cũng là các động lực riêng biệt cho chủ nghĩa dân tộc châu Âu. Sự mơ hồ trong bản sắc do quá trình hiện đại hóa nhanh chóng đã tạo ra nền tảng cho chủ nghĩa dân tộc ở Đức và các nước khác ở châu Âu. Nhưng không thể hoàn toàn đổ lỗi cho điều đó về sự trỗi dậy của hình thái chủ nghĩa dân tộc cực kỳ hiểm độc và cực đoan mà tiêu biểu là Adolf Hitler và Đảng Đức Quốc Xã. Các quốc gia khác như Pháp, Anh và Hoa Kỳ cũng trải qua biến đổi xã hội tương tự; họ có thể bị cám dỗ nhưng cuối cùng không đầu hàng với học thuyết dân tộc cực đoan tương tự. Phải cần đến một nhà nghiệp chủ chính trị (political entrepreneur) cũng là môn đồ đại tài của lý tưởng này như Hitler, và việc nước Đức trải qua những rối loạn lớn về kinh tế trong những năm 1920 và 1930 thì sự trỗi dậy của phong trào Đức quốc xã mới được diễn ra.
Tương tự, ở Trung Đông ngày nay, nhiều người Hồi giáo cảm thấy bối rối về bản sắc và chuyển sang tôn giáo như câu trả lời cho câu hỏi “Tôi là ai?”. Bước chuyển này có thể là hình thức vô hại khi mặc khăn trùm đầu (hijab) đi làm hoặc áo tắm của phụ nữ Hồi giáo (burkini) ở bãi biển. Nhưng đối với một số người, đó là bước chuyển có tính nguy hiểm và bạo lực hơn khi dưới hình thức chủ nghĩa khủng bố và hoạt động chính trị. Các hình thức cực đoan nhất của bản sắc Hồi giáo diễn ra vào đầu thế kỷ 21 không hề tương thích với hòa bình quốc tế, chẳng hơn gì học thuyết chủ nghĩa dân tộc đầu thế kỷ 20.
Do đó, cả chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa Hồi giáo đều có thể được coi là một loại chính trị bản sắc. Đưa ra nhận định này là không công bằng cho toàn bộ tính phức tạp hay tính cụ thể của một trong hai hiện tượng. Nhưng dù sao chúng cũng có một số điểm tương đồng quan trọng. Cả hai đều xuất hiện trên sân khấu thế giới vào thời điểm chuyển đổi từ xã hội nông nghiệp truyền thống biệt lập sang xã hội hiện đại được kết nối với thế giới rộng lớn và đa dạng hơn. Cả hai đều đưa ra hệ tư tưởng giải thích lý do tại sao mọi người cảm thấy cô đơn và hoang mang, và cả hai đều cố gắng thuyết phục nạn nhân đổ lỗi cho nhóm người ở bên ngoài gây ra tình cảnh đau khổ của cá nhân. Và cả hai đều mưu cầu sự thừa nhận phẩm giá theo những cách hạn chế không phải cho tất cả mọi người, mà cho thành viên của một quốc gia hay tôn giáo cụ thể.
Johann Gottfried von Herder, Reflections on the Philosophy of the History of Mankind (Chicago: University of Chicago Press, 1968).↩︎
Ibid., 31.↩︎
Herder không thể hiện thích chế độ quân chủ chuyên chế trong thời đại của ông và không tin rằng chúng có lợi hơn cho hạnh phúc con người so với xã hội vô chính phủ ở Bắc Mỹ hay châu Phi. Xem Johann Gottfried von Herder, J. G. Herder on Social and Political Culture (Cambridge: Cambridge University Press, 1969), 318-319.↩︎
Ernest Gellner, Nations and Nationalism (Ithaca, NY: Cornell University Press, 1983), 33, 35.↩︎
Bản Bảy Mươi, còn gọi là Septuagint (từ Latin septuaginta, “bảy mươi”) là một bản dịch từ Kinh Thánh Do Thái và những văn bản liên quan sang tiếng Hy Lạp Koine - ND.↩︎
Fritz Stern, The Politics of Cultural Despair: A Study in the Rise of German Ideology (Berkeley: University of California Press, 1974), 19-20.↩︎
Ibid., 35-94 và nhiều tài liệu khác.↩︎
Olivier Roy, “Frances Oedipal Islamist Complex”, Foreign Policy , 7 tháng Một, 2016; Olivier Roy, “Who Are the New Jihadis?”, Guardian , 13 tháng Tư, 2017.↩︎
Richard Barrett, Foreign Fighters in Syria (New York: Soufan Group, 2014).↩︎
Xem Omer Taspinar, “ISIS Recruitment and the Frustrated Achiever”, Huffington Post , 25 tháng Ba, 2015.↩︎
Gilles Kepel, Terror in France: The Rise of Jihad in the West (Princeton, NJ: Princeton University Press, 2017); Robert F. Worth, “The Professor and the Jihadi”, New York Times , 5 tháng Tư, 2017; Robert Zaretsky, “Radicalized Islam, or Islamicized Radicalism?”, Chronicle of Higher Education 62 (37) (2016).↩︎