← Quay lại trang sách

Chương 14 LÀM GÌ?

Chúng ta không thể thoát khỏi bản sắc hay chính trị bản sắc. Bản sắc là “ý tưởng đạo đức mạnh mẽ phụ thuộc vào chúng ta”, theo như lời của Charles Taylor. Bản sắc vượt qua ranh giới lãnh thổ và văn hóa bởi nó được gây dựng dựa trên tâm lý thymos phổ quát của loài người. Ý tưởng đạo đức này nói với chúng ta rằng: mình có phần nội ngã đích thực bên trong, vốn không được thừa nhận, và toàn bộ xã hội bên ngoài có lẽ đã sai và đầy tính áp đặt. Điều này hướng nhu cầu tự nhiên của chúng ta tập trung vào sự công nhận phẩm giá, và đưa cho chúng ta ngôn ngữ thể hiện sự phẫn nộ, sự công nhận đó không tồn tại thì phẫn nộ nảy sinh.

Việc yêu cầu phẩm giá biến mất sẽ là không khả thi và cũng không được mong muốn. Đó là tia lửa làm bùng lên vô số cuộc biểu tình, từ Cách mạng Pháp cho đến sự kiện khởi nguồn từ việc một anh bán hàng rong bị coi thường ở Tunisia. Những đám đông đó muốn được đối xử như người trưởng thành, những người có thể tác động đến chính quyền cai trị họ. Dân chủ tự do được xây dựng dựa trên quyền trao cho các cá nhân bình đẳng về tự do, nghĩa là những người có mức độ lựa chọn và nhận thức chủ thể như nhau trong việc quyết định đời sống chính trị tập thể của mình.

Nhưng nhiều người không bằng lòng với sự thừa nhận bình đẳng một cách giản đơn chỉ là con người chung chung. Quyền của cá nhân thụ hưởng trong nền dân chủ được đánh giá cao hơn khi anh ta sống dưới chế độ độc tài, nhưng sẽ trở thành điều đương nhiên một khi nền dân chủ được thiết lập trong thời gian đủ lâu. Không giống như bố mẹ họ, người trẻ lớn lên ở Tây Âu ngày nay không hề có trải nghiệm cá nhân nào về cuộc sống dưới chế độ cộng sản, và hưởng thụ tự do một cách đương nhiên. Điều này cho phép họ tập trung vào những vấn đề khác: những tiềm năng ẩn giấu không được phép nảy sinh và cách chúng đang bị kiềm tỏa bởi thể chế và tập quán xã hội xung quanh.

Trở thành công dân của một nước dân chủ tự do không có nghĩa là mọi người sẽ thực sự được đối xử bình đẳng bởi chính quyền hay các công dân khác của quốc gia đó. Họ được đánh giá dựa trên màu da, giới tính, nguồn gốc dân tộc, ngoại hình, sắc tộc hay xu hướng tính dục. Mỗi một người hay mỗi nhóm sẽ trải nghiệm sự thiếu tôn trọng theo những cách khác nhau, và họ lại tự tìm kiếm phẩm giá riêng của mình. Bởi vậy, chính trị bản sắc tạo ra sự năng động của chính nó, qua đó xã hội tự chia thành các nhóm nhỏ hơn dựa trên “kinh nghiệm trải qua” của riêng họ khi bị biến thành nạn nhân.

Nhầm lẫn về bản sắc là một điều kiện sống phát sinh trong thế giới hiện đại. Hiện đại hóa đồng nghĩa với thay đổi và gián đoạn liên tục, và mở ra những lựa chọn không tồn tại trước đây. Nó mang đến tính biến đổi, lưu động và phức tạp. Tính lưu động về tổng thể là điều tốt: qua nhiều thế hệ, hàng triệu người đã chạy trốn khỏi làng quê và xã hội truyền thống không đưa cho họ lựa chọn, để tới những vùng đất mới.

Nhưng tự do và mức độ lựa chọn tồn tại trong xã hội tự do hiện đại cũng có thể khiến mọi người không hạnh phúc và mất kết nối với đồng loại. Họ sẽ thấy luyến tiếc cho cộng đồng và trật tự cuộc sống mà họ nghĩ rằng đã bị đánh mất, hoặc đã từng được tổ tiên của mình nắm giữ. Bản sắc xác thực mà họ tìm kiếm là những thứ gắn kết họ với người khác. Họ có thể bị quyến rũ bởi các nhà lãnh đạo cho họ biết rằng họ đã bị cấu trúc quyền lực hiện có phản bội và coi thường, và họ là thành viên của các cộng đồng quan trọng, sự vĩ đại của các cộng đồng ấy sẽ được tái công nhận.

Nhiều nền dân chủ tự do hiện đại đang nằm trên đỉnh của một lựa chọn quan trọng. Các quốc gia này đã thích ứng với thay đổi kinh tế và xã hội nhanh chóng và trở nên đa dạng hơn rất nhiều nhờ vào toàn cầu hóa. Điều này tạo ra nhu cầu công nhận của các nhóm dân số trước đây vốn vô hình trong xã hội chính thống. Nhưng điều đó cũng kéo theo việc hạ thấp vị thế của các nhóm bị thay thế, tạo ra chính trị phẫn nộ và phản ứng dữ dội. Sự thoái lui từ cả hai phía hướng tới bản sắc ngày càng hẹp đe dọa khả năng thảo luận và hành động tập thể của xã hội như một thể thống nhất. Phía cuối của con đường này, sau cùng, sẽ là sự tan vỡ và thất bại của nhà nước.

Tuy thế, bản chất của bản sắc hiện đại là có thể thay đổi. Mặc dù một số cá nhân có thể tự thuyết phục rằng bản sắc của họ dựa trên đặc tính sinh học và nằm ngoài tầm kiểm soát, đặc điểm của tính hiện đại là có nhiều bản sắc khác nhau, định hình bởi các tương tác xã hội ở bất kỳ cấp độ nào. Bản sắc của chúng ta được xác định bởi chủng tộc, giới tính, nơi làm việc, giáo dục, mối liên kết và quốc gia. Đối với nhiều thanh thiếu niên, bản sắc định hình bằng thể loại âm nhạc cụ thể mà họ và bạn bè nghe.

Nhưng nếu logic của chính trị bản sắc là phân chia xã hội thành các nhóm nhỏ hơn, vị kỷ, thì chúng ta cũng có thể tạo ra các bản sắc rộng hơn và tích hợp hơn. Một người không nhất thiết phải phủ nhận tiềm năng và kinh nghiệm trải qua của cá nhân để công nhận rằng họ cũng có thể chia sẻ các giá trị và nguyện vọng với các nhóm công dân bao trùm hơn. Erlebni có thể tổng hợp thành Erfahrung ; kinh nghiệm trải qua có thể trở thành kinh nghiệm thuần túy bình đẳng. Vì vậy, dù chúng ta sẽ không bao giờ thoát khỏi chính trị bản sắc trong thế giới hiện đại, chúng ta có thể điều chỉnh nó thành các hình thức phổ biến hơn về tôn trọng phẩm giá lẫn nhau, sẽ làm cho nền dân chủ hoạt động hiệu quả hơn.

Làm thế nào để biến chuyển ý tưởng trừu tượng này thành chính sách cụ thể tại thời điểm hiện tại? Chúng ta có thể bắt đầu bằng cách cố gắng chống lại các hành vi bạo ngược cụ thể, [những hành vi] đã thúc đẩy sự hình thành của chính trị bản sắc, như các hành vi bạo lực vô căn cứ của cảnh sát với người thiểu số hay tấn công và quấy rối tình dục ở công sở, trường học và các tổ chức khác. Không phê phán chính trị bản sắc sẽ ngụ ý rằng đây không phải là những vấn đề thực tế và cấp bách, cần phải có giải pháp cụ thể.

Ngoài ra, có một chương trình nghị sự lớn hơn về việc tích hợp các nhóm nhỏ vào các nhóm lớn hơn, vốn là cơ sở cho niềm tin và quyền công dân. Chúng ta cần thúc đẩy các bản sắc dân tộc tuyên tín, xây dựng xung quanh các ý tưởng nền tảng của nền dân chủ tự do hiện đại, và sử dụng chính sách công để đồng hóa có chủ đích những người mới đến vào trong bản sắc đó. Dân chủ tự do có văn hóa riêng, và cần được tôn trọng hơn các nền văn hóa bác bỏ các giá trị dân chủ.

Trong những thập niên gần đây, giới cánh tả châu Âu ủng hộ một hình thức đa văn hóa mà không coi trọng việc hòa nhập người nhập cư vào văn hóa quốc gia. Dưới ngọn cờ chống phân biệt chủng tộc, xu hướng bỏ qua bằng chứng cho thấy quá trình đồng hóa đã không hiệu quả. Về phần mình, giới cánh hữu dân túy lại nhìn về nền văn hóa quốc gia dựa trên sắc tộc hay tôn giáo đang lụi tàn, nền văn hóa chủ yếu không có người nhập cư hoặc sự đa dạng đáng kể nào.

Tại Hoa Kỳ, chính trị bản sắc phân phe cánh tả thành một loạt các nhóm bản sắc khác nhau, vốn là cơ sở của các nhà hoạt động chính trị nhiệt huyết nhất. Trên nhiều khía cạnh, phe cánh tả đã mất kết nối với nhóm bản sắc từng là nhóm cử tri lớn nhất của họ, tức tầng lớp lao động da trắng. Điều này dẫn đến sự trỗi dậy của giới cánh hữu dân túy vốn cảm thấy bản sắc của chính mình đang bị đe dọa, được tiếp tay bởi một vị tổng thống mà sự phù phiếm cá nhân gắn liền với mức độ giận dữ và phân cực mà ông ta có thể tạo ra.

Chương trình nghị sự của châu Âu phải bắt đầu bằng việc xác định lại bản sắc dân tộc được thể hiện trong luật công dân. Lý tưởng nhất, EU nên tạo ra một khái niệm quyền công dân duy nhất, với yêu cầu dựa trên việc tuân thủ nguyên tắc dân chủ tự do cơ bản, nguyên tắc mà sẽ thay thế luật công dân của từng quốc gia. Điều này về mặt chính trị là bất khả thi trong quá khứ, và bây giờ càng khó hơn với sự trỗi dậy của các đảng phái dân túy trên khắp châu lục. Sẽ hữu ích hơn nếu EU dân chủ hóa chính mình bằng cách chuyển dần quyền lực từ Ủy ban châu Âu sang Nghị viện châu Âu, và cố gắng lấy lại thời gian đã mất bằng cách xây dựng bản sắc châu Âu thông qua việc tạo ra các biểu tượng và câu chuyện phù hợp, tích hợp vào một hệ thống giáo dục chung. Điều này có lẽ vượt quá khả năng của một liên minh gồm 28 quốc gia, mỗi thành viên vẫn ghen tị với các đặc quyền của nhau và sẵn sàng phủ quyết một chương trình như vậy. Do đó, bất kỳ hành động nào dù tốt hơn hay xấu đi - cũng cần diễn ra trước tiên ở cấp độ quốc gia thành viên.

Những luật công dân của các quốc gia thành viên EU dựa trên jus sanguini cần phải được đổi thành jus soli , để không ưu tiên một nhóm dân tộc nào hơn một nhóm khác. Sẽ hoàn toàn hợp pháp nếu chính quyền áp đặt các yêu cầu nghiêm ngặt cho việc nhập tịch của công dân mới, điều mà Hoa Kỳ đã làm trong nhiều năm qua. Ở Hoa Kỳ, ngoài việc chứng minh cư trú liên tục ở nước này trong năm năm, công dân mới còn được yêu cầu biết đọc, viết và nói tiếng Anh cơ bản, có hiểu biết về lịch sử và chính quyền Hoa Kỳ, có nhân thân tốt (tức là không có tiền án tiền sự), và thể hiện sự gắn bó với nguyên tắc và lý tưởng của Hiến pháp Hoa Kỳ. Điều cuối được thực hiện bằng cách tuyên thệ lời thề nhập tịch vào Hợp Chúng quốc Hoa Kỳ:

Tôi xin tuyên thệ, hoàn toàn từ bỏ tất cả bổn phận và lòng trung thành với mọi quyền uy, đất nước hoặc chủ quyền mà tôi từng tòng phục khi còn là công dân của quốc gia ấy; tôi sẽ che chở và bảo vệ Hiến pháp và luật lệ của Hoa Kỳ chống lại mọi kẻ thù trong và ngoài nước; tôi sẽ đặt trọn niềm tin, sát cánh với Hiến pháp và luật lệ của Hoa Kỳ; tôi sẽ cầm súng, vì đất nước Hoa Kỳ, khi luật pháp đòi hỏi, tôi sẽ phục vụ những công tác không thuộc lĩnh vực tác chiến trong Quân Lực Hoa Kỳ, khi luật pháp đòi hỏi; tôi sẽ thi hành công việc trọng đại của đất nước theo yêu cầu của chính phủ dân sự, khi luật pháp đòi hỏi, và tôi thi hành những yêu cầu này một cách tự do, không chút ngần ngại hay cố ý trốn tránh; xin Chúa hãy hỗ trợ con1.

Quốc tịch kép ngày càng trở nên phổ biến khi mức độ di cư tăng lên. Đối với nhiều người thường xuyên đi lại hoặc có gia đình ở các quốc gia khác nhau, có nhiều hộ chiếu sẽ vô cùng thuận tiện. Nhưng nếu một người coi trọng bản sắc quốc gia, đó là một hành vi đáng ngờ. Các quốc gia khác nhau có bản sắc khác nhau và lợi ích khác nhau, vốn có thể dẫn đến khả năng xung đột. Vấn đề rõ ràng nhất liên quan đến nghĩa vụ quân sự: nếu hai quốc gia mà một người là công dân gây chiến với nhau, thì lòng trung thành của họ sẽ đương nhiên bị nghi ngờ. Điều này có vẻ mang tính thuần túy tranh luận, bởi khả năng xảy ra chiến tranh đã giảm ở hầu hết các nơi thế giới, nhưng tiếc là chúng ta không thể giả định rằng xung đột quân sự sẽ không xảy ra trong tương lai. Ngay cả khi không có những tình huống như vậy, quốc tịch kép cũng gây ra những vấn đề chính trị nghiêm trọng. Ví dụ như trong cuộc bầu cử ở Đức vào năm 2017, tổng thống chuyên quyền của Thổ Nhĩ Kỳ, Recep Tayyip Erdogan, đã khuyến khích công dân Đức gốc Thổ Nhĩ Kỳ bỏ phiếu cho các chính trị gia ủng hộ lợi ích của Thổ Nhĩ Kỳ, thay vì bỏ phiếu cho những người mà họ cho là tốt nhất cho nước Đức. Những người là công dân của cả hai quốc gia có thể sẽ thấy khó khăn hơn để đưa ra quyết định, so với những người đã từ bỏ lòng trung thành với Thổ Nhĩ Kỳ2.

Ngoài việc thay đổi yêu cầu chính thức đối với quyền công dân, các nước châu Âu cần thay đổi cách hiểu phổ thông về bản sắc quốc gia dựa trên sắc tộc. Đầu những năm 2000, một học giả người Đức gốc Syria tên là Bassam Tibi đã đề xuất khái niệm Leitkultur , “văn hóa dẫn đầu”, làm cơ sở cho bản sắc dân tộc Đức3. Leitkultur , định nghĩa theo thuật ngữ Khai sáng tự do, là niềm tin vào quyền bình đẳng và giá trị dân chủ. Tuy nhiên, đề xuất của ông bị phe cánh tả tấn công vì hàm ý rằng những giá trị đó vượt trội hơn các giá trị văn hóa khác. Khi làm vậy, phe cánh tả đã vô tình mang đến sự xoa dịu cho không chỉ những người theo chủ nghĩa Hồi giáo, mà còn giới cánh hữu vẫn còn tin vào bản sắc theo dân tộc. Nước Đức đích thị cần một khái niệm như Leitkultur , một sự thay đổi quy tắc cho phép một người Thổ nói về mình như là một người Đức. Điều này đang bắt đầu diễn ra, nhưng còn chậm chạp4.

Hướng về tương lai, một bản sắc châu Âu có thể xuất hiện vào một thời điểm nào đó. Có lẽ điều này cần phải xảy ra bên ngoài các cấu trúc ra quyết định rườm rà và quan liêu, [những cấu trúc] tạo thành thể chế EU đương đại. Người châu Âu đã tạo ra một nền văn minh đáng tự hào, có thể hòa hợp các dân tộc đến từ các nền văn hóa khác, ngay cả khi họ vẫn nhận thức được sự khác biệt của chính mình.

So với châu Âu, Hoa Kỳ chào đón nhiều người nhập cư hơn rất nhiều vì bởi quốc gia này đã phát triển một bản sắc tuyên tín từ rất sớm, dựa trên lịch sử di dân lâu đời. So với người châu Âu, người Mỹ tự hào về công dân nhập tịch của mình và thường rất coi trọng lễ nhập tịch, với những màn múa cờ và những bài phát biểu đầy hy vọng của các chính trị gia địa phương. Như nhà khoa học chính trị Seymour Martin Lipset từng chỉ ra, ở Hoa Kỳ, người ta có thể cáo buộc là “phi-Mỹ” theo cách mà khác với “phi-Đan Mạch” hay “phi-Nhật”. Chủ nghĩa Mỹ tạo thành một tập hợp niềm tin và lối sống thay vì sắc tộc, cho nên người ta chỉ có thể đi chệch khỏi đặc điểm trước thay vì đặc điểm sau.

Ngày nay, bản sắc quốc gia tuyên tín - xuất hiện sau cuộc Nội chiến Hoa Kỳ - cần phải được tái khẳng định mạnh mẽ và bảo vệ khỏi các cuộc tấn công của cả phe cánh tả và cánh hữu. Bên cánh hữu, có nhiều tiếng nói của chủ nghĩa dân tộc da trắng mới muốn kéo đất nước quay trở lại bản sắc dựa trên chủng tộc, sắc tộc hoặc tôn giáo. Việc cấp bách cần làm là cần cự tuyệt hoàn toàn những quan điểm như phi-Mỹ, như những gì Ben Sasse đã làm.

Bên cánh tả, chính trị bản sắc tìm cách làm suy yếu tính chính danh của diễn ngôn quốc gia Mỹ bằng cách nhấn mạnh vào diễn ngôn nạn nhân hóa, trong một số trường hợp ám chỉ rằng phân biệt chủng tộc, phân biệt giới tính và các hình thức bài xích có hệ thống khác là cố hữu trong DNA của đất nước. Tất cả những điều này đã và đang tiếp tục là đặc điểm của xã hội Mỹ, và chúng cần phải được đối diện trong hiện tại. Nhưng cũng có thể tạo ra một diễn ngôn tiến bộ về việc vượt qua các rào cản và phạm vi ngày càng mở rộng của những người có phẩm giá được nước Mỹ công nhận, dựa trên các nguyên tắc sáng lập của nó. Diễn ngôn này là một phần trong “sự tái sinh của tự do” như hình dung của Abraham Lincoln, và là diễn ngôn mà người Mỹ đón mừng vào ngày lễ mà ông lập ra, Lễ Ta ơn.

Mặc dù Hoa Kỳ hưởng lợi từ sự đa dạng, đất nước này không thể xây dựng bản sắc quốc gia xung quanh sự đa dạng như nó vốn có. Bản sắc phải liên quan đến các ý tưởng trọng yếu như chủ nghĩa hiến pháp, pháp quyền và quyền bình đẳng của con người. Người Mỹ tôn trọng những ý tưởng này và đã đúng khi loại trừ quyền công dân với những ai từ chối chúng.

Một khi quốc gia xác định được một bản sắc tuyên tín phù hợp giúp mở ra sự đa dạng trên thực tế của xã hội hiện đại, bản chất của những tranh cãi về nhập cư chắc chắn sẽ phải thay đổi. Ở cả châu Âu và Hoa Kỳ, cuộc tranh luận đó hiện đang bị phân cực giữa phe cánh hữu tìm cách cắt đứt hoàn toàn việc nhập cư và muốn đưa những người nhập cư hiện tại trở về nguyên quán, và phe cánh tả - khẳng định nghĩa vụ gần như vô hạn của các nền dân chủ tự do trong việc chấp nhận người di cư. Thay vào đó, trọng tâm thực sự nên tập trung vào các chiến lược đồng hóa người nhập cư tốt hơn với bản sắc tuyên tín của đất nước. Những người nhập cư đồng hóa tốt mang lại sự đa dạng lành mạnh cho bất kỳ xã hội nào, và lợi ích của nhập cư sẽ được hình thành đầy đủ. Những người nhập cư đồng hóa kém là lực cản đối với nhà nước và trong một số trường hợp tạo thành các mối đe dọa an ninh nghiêm trọng.

Người châu Âu chỉ nói suông về yêu cầu đồng hóa tốt hơn, nhưng đã không thực hiện được một bộ chính sách hiệu quả. Nghị trình cải cách ở đây rất đa dạng vì từng quốc gia châu Âu tiếp cận vấn đề rất khác nhau. Nhiều nước đã có những chính sách chủ động cản trở khả năng hòa nhập, như hệ thống phân chia xã hội theo trụ cột của Hà Lan. Anh và một số quốc gia châu Âu khác tài trợ nguồn lực tài chính cho các trường học Hồi giáo, giống như họ hỗ trợ các trường Kitô giáo và Do Thái. Ở một mức độ nào đó, điều này chỉ đơn giản phản ánh sự tập trung về mặt địa lý của các cộng đồng người nhập cư và được thực hiện dưới danh nghĩa đối xử bình đẳng. Tuy nhiên, nếu đồng hóa là mục tiêu, toàn bộ cấu trúc này nên được thay thế bằng một hệ thống các trường công giảng dạy một nội dung học tập chuẩn tắc. Như ở Hà Lan, sẽ rất khó để cho rằng ý tưởng này sẽ khả thi về mặt chính trị, nhưng đó lại là cách tiếp cận cần thiết nếu các quốc gia đó coi trọng vấn đề hòa nhập xã hội5.

Ở Pháp, vấn đề có phần khác biệt. Khái niệm công dân cộng hòa của Pháp, giống như của Mỹ, mang tính tuyên tín, được xây dựng xung quanh các lý tưởng về tự do, bình đẳng và bác ái xuất hiện từ Cách mạng Pháp. Luật năm 1905 về chính sách biệt lập tôn giáo (laїcité) chính thức tách biệt nhà thờ và nhà nước, và khiến các trường tôn giáo được nhà nước tài trợ như ở Anh hoặc Hà Lan không thể tồn tại6. Vấn đề của nước Pháp gồm ba mặt. Đầu tiên, bất kể luật pháp của Pháp quy định ra sao, phân biệt đối xử vẫn xuất hiện đầy rẫy trong xã hội Pháp, vốn kìm hãm cơ hội của những người nhập cư. Thứ hai, nền kinh tế Pháp đã hoạt động kém hiệu quả trong nhiều năm, dẫn đến tỉ lệ thất nghiệp tổng thể cao gấp đôi so với nước Đức láng giềng. Đối với thanh niên nhập cư ở Pháp, tỉ lệ thất nghiệp lên tới mức 35%, so với 25% đối với thanh niên Pháp nói chung. Một điều quan trọng mà Pháp cần làm để hòa nhập người nhập cư là tạo ra việc làm và tăng hy vọng về một tương lai tốt hơn cho họ, bằng các cách như tự do hóa thị trường lao động, như Emmanuel Macron tìm cách thực hiện. Cuối cùng, chính ý tưởng về bản sắc dân tộc và văn hóa Pháp bị chỉ trích là mang tính bài đạo Hồi; bản thân sự đồng hóa không phải chấp nhận được về mặt chính trị đối với nhiều người phe cánh tả. Việc bảo vệ lý tưởng cộng hòa của quyền công dân phổ quát không nên dành lại cho các đảng phái như Mặt trận Quốc gia.

Ở Hoa Kỳ, chương trình nghị sự về đồng hóa bắt đầu bằng giáo dục công. Việc giảng dạy quyền công dân cơ bản bị suy giảm trong một thời gian dài ở Hoa Kỳ, không chỉ đối với người nhập cư mà cả với người Mỹ bản địa. Điều này cần được thay đổi. Giống như châu Âu, Hoa Kỳ cũng có các chính sách cản trở đồng hóa, chẳng hạn như việc có đến 13 ngôn ngữ khác nhau được giảng dạy trong hệ thống trường công ở thành phố New York. Các chương trình song ngữ và đa ngữ được quảng cáo là sẽ tăng tốc độ tiếp thu ngôn ngữ tiếng Anh của những người không có tiếng mẹ đẻ là tiếng Anh. Nhưng hệ thống này đã phát triển một nhóm cử tri của riêng mình, với bộ máy quan liêu có tính giáo dục để bảo vệ các đặc quyền của mình, bất kể kết quả thực tế của việc tiếp nhận bằng tiếng Anh7.

Đồng hóa người nhập cư có thể đòi hỏi các biện pháp thậm chí còn chủ động hơn. Trong những thập niên gần đây, các tòa án ở Hoa Kỳ và các nền dân chủ phát triển khác đã dần xóa nhòa sự phân biệt giữa công dân và người không phải là công dân8. Người không có quyền công dân đương nhiên được hưởng nhiều quyền hợp pháp, bao gồm các quyền đối với thủ tục tố tụng, tự do ngôn luận, liên kết hiệp hội, thực hiện tự do tôn giáo và sử dụng một loạt dịch vụ công như giáo dục. Những người không có quyền công dân cũng phải chia sẻ nhiệm vụ với công dân: họ phải tuân thủ luật pháp và nộp thuế, mặc dù chỉ có công dân mới chịu trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ bồi thẩm đoàn ở Hoa Kỳ. Sự khác biệt giữa những người không phải là công dân được ghi nhận và những người không được ghi nhận sẽ sắc nét hơn, bởi những ai không được ghi nhận có thể bị trục xuất, nhưng ngay cả họ cũng có quyền về trình tự thủ tục tố tụng. Quyền chính yếu duy nhất mà chỉ dành cho công dân là quyền bỏ phiếu. Ngoài ra, công dân có thể tự do ra vào đất nước và nhận được hỗ trợ từ chính phủ khi đi ra nước ngoài.

Mặc dù sự phân biệt này không lớn, những đặc điểm đó vẫn rất quan trọng. Các quyền cơ bản của con người là phổ quát, nhưng việc được hưởng đầy đủ các quyền được thực thi một cách chủ động bởi quyền lực nhà nước là phần thưởng cho tư cách thành viên trong một cộng đồng quốc gia và chấp nhận các quy tắc cộng đồng đó. Quyền bỏ phiếu là đặc biệt quan trọng, vì nó mang lại cho các cá nhân một phần quyền lực nhà nước. Là con người, đối với quyền công dân và đại diện chính trị, tôi có thể có quyền trên lý thuyết, nhưng là một công dân Mỹ, tôi không mong đợi có quyền bỏ phiếu ở Ý hoặc Ghana, ngay cả khi tôi sống ở một trong những quốc gia đó.

Các nền dân chủ tự do đương đại không đòi hỏi nhiều để đổi lấy việc nhà nước bảo vệ quyền công dân, và đặc biệt là quyền bầu cử. Ý thức của cộng đồng quốc gia có thể được củng cố bởi yêu cầu phổ quát về việc thực hiện nghĩa vụ quốc gia. Nghĩa vụ đó nhấn mạnh một thực tế: duy trì quyền công dân đòi hỏi phải sự cam kết và hy sinh. Một người có thể thực hiện điều đó bằng cách phục vụ trong quân đội hoặc trong dịch vụ dân sự. Yêu cầu này thực tế được nêu rõ trong lời thề nhập tịch của Mỹ, trong đó bao gồm việc sẵn sàng cầm súng vì đất nước hoặc thực hiện nghĩa vụ dân sự theo yêu cầu của pháp luật. Nếu dịch vụ đó được xây dựng chuẩn xác, nó sẽ buộc những người trẻ tuổi phải làm việc cùng với những người đến từ các tầng lớp xã hội, khu vực, chủng tộc và sắc tộc rất khác nhau, giống như nghĩa vụ quân sự ngày nay. Và giống như tất cả các hình thức đóng góp chung, đó sẽ là cách thức mạnh mẽ để hòa nhập những người mới đến vào văn hóa quốc gia. Nghĩa vụ quốc gia là hình thức đương đại của chủ nghĩa cộng hòa cổ điển, một hình thức dân chủ khuyến khích đức hạnh và tinh thần công cộng thay vì chỉ đơn giản là để công dân tự theo đuổi cuộc sống riêng tư của mình.

Một chính sách tập trung vào đồng hóa cũng có nghĩa là mức độ nhập cư và tỉ lệ thay đổi trở nên quan trọng, đối với cả châu Âu và Hoa Kỳ. Đồng hóa vào một nền văn hóa thống trị trở nên khó khăn hơn nhiều khi số lượng người nhập cư tăng lên một cách tương đối so với dân số bản địa. Khi cộng đồng người nhập cư đạt đến một quy mô nhất định, họ có xu hướng tự vận hành hiệu quả và không còn cần kết nối với các nhóm bên ngoài. Họ có thể gây sức ép lớn lên dịch vụ công cộng và làm giảm năng lực của các trường học và các dịch vụ công khác dành cho họ. Mặc dù người nhập cư có thể sẽ có tác động ròng tích cực đối với tài chính công trong thời gian dài, điều này chỉ xảy ra nếu họ có việc làm và trở thành công dân đóng thuế hoặc là người nước ngoài cư trú hợp pháp. Một số lượng lớn người mới đến cũng có thể làm suy yếu sự hỗ trợ cho các phúc lợi hào phóng dành cho công dân bản địa, một yếu tố xuất hiện trong các cuộc tranh luận về nhập cư của cả châu Âu và Mỹ.

Nền dân chủ tự do được hưởng lợi rất nhiều từ nhập cư, cả về kinh tế và văn hóa. Nhưng họ đương nhiên cũng có quyền kiểm soát biên giới của chính mình. Hệ thống chính trị dân chủ xây dựng dựa trên khế ước giữa chính phủ và công dân, trong đó cả hai đều có nghĩa vụ. Một khế ước như vậy không có ý nghĩa nếu không chỉ rõ quyền công dân và quyền bầu cử. Tất cả mọi người đều có quyền công dân cơ bản, điều mà theo Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền, không ai có thể tự ý lấy đi. Nhưng điều đó không có nghĩa là họ có quyền công dân ở bất kỳ quốc gia cụ thể nào. Hơn nữa, luật pháp quốc tế không kiềm chế quyền kiểm soát biên giới của các quốc gia, hoặc đặt ra các tiêu chí cho quyền công dân9. Những gì người tị nạn có được là sự cảm thông, lòng trắc ẩn và hỗ trợ. Tuy nhiên, giống như tất cả các nghĩa vụ đạo đức, những nghĩa vụ này cần được đặt lên bàn cân với tính toán thực tế về nguồn lực khan hiếm, các ưu tiên cạnh tranh lẫn nhau, và tính bền vững chính trị của một chương trình hỗ trợ.

Đối với châu Âu, điều này ngụ ý rằng EU - với tư cách một khối thống nhất - cần có khả năng kiểm soát biên giới tốt hơn, nghĩa là trên thực tế EU phải cung cấp cho các quốc gia như Ý và Hy Lạp cả sự giúp đỡ về vật chất và thẩm quyền mạnh mẽ hơn để điều chỉnh dòng người di cư vào châu Âu. Tổ chức đảm đương nhiệm vụ này, Frontex, thiếu hụt nhân sự, nguồn tài chính hoạt động, và cả hỗ trợ chính trị mạnh mẽ từ chính các quốc gia thành viên lo lắng nhất với việc ngăn chặn người di cư. Hệ thống Schengen cho phép di chuyển nội khối tự do sẽ không bền vững về mặt chính trị, trừ khi vấn đề biên giới bên ngoài của châu Âu được giải quyết bằng một cách nào đó.

Tình hình ở Hoa Kỳ có phần khác. Đất nước này rất không nhất quán trong việc thực thi luật nhập cư trong những năm qua. Việc thực thi này không phải là không thể, nhưng đây là vấn đề của quyết tâm chính trị. Trong khi mức độ trục xuất bắt đầu tăng lên dưới thời chính quyền Obama, bản chất nhìn chung là tùy tiện của hành động này không phải là một chính sách dài hạn bền vững. Việc thực thi không yêu cầu phải có một bức tường biên giới, bởi có một tỉ lệ lớn người nhập cư không giấy tờ đã vào Mỹ một cách hợp pháp nhưng ở lại sau khi thị thực hết hạn. Thay vào đó, các quy tắc có thể được thực thi tốt hơn thông qua hệ thống xử phạt người sử dụng lao động, hệ thống này đòi hỏi hệ thống nhận dạng quốc gia cho phép người sử dụng lao động biết ai là lao động hợp pháp. Điều này đã không xảy ra vì có quá nhiều người sử dụng lao động được hưởng lợi từ lao động giá rẻ mà người nhập cư cung cấp và không muốn trở thành người thực thi chính sách đó. Nó cũng không xuất hiện vì sự phản đối đặc thù của người Mỹ đối với hệ thống căn cước quốc gia, do sự nghi ngờ với chính quyền của cả phe cánh tả và cánh hữu.

Kết quả là, Hoa Kỳ hiện có một dân số khoảng 11-12 triệu người nhập cư không giấy tờ. Đại đa số những người này đã sống ở đây trong nhiều năm và đang làm những công việc có ích, nuôi gia đình và hành xử như những công dân tuân thủ pháp luật. Thật vô lý khi cho rằng tất cả họ đều là tội phạm vì đã vi phạm luật pháp Hoa Kỳ để sống ở đây, mặc dù một số người trong nhóm này là tội phạm, cũng giống như một số người dân bản địa. Thật nực cười khi cho rằng Hoa Kỳ có thể buộc tất cả những người này rời khỏi đất nước và trở về nơi nguyên quán. Một dự án ở quy mô đó sẽ xứng đáng được so sánh với Liên Xô thời Stalin hoặc Đức Quốc xã.

Vì vậy, khả năng tạo ra một giao kèo cơ bản về cải cách nhập cư đã tồn tại trong một thời gian đủ lâu. Trong đó, chính phủ sẽ thực hiện các biện pháp thực thi nghiêm túc để kiểm soát biên giới, để đổi lấy thỏa thuận trao cơ hội có quyền công dân cho người nhập cư không giấy tờ mà không có tiền án tiền sự10. Giao kèo này thực tế có thể nhận được sự ủng hộ đa số của công chúng Mỹ, nhưng những người phản đối nhập cư quyết liệt nhất chống lại bất kỳ hình thức “ân xá” nào, trong khi nhóm ủng hộ nhập cư phản đối việc thực thi chặt chẽ hơn những quy định hiện thời. Sự phân cực và rối loạn chức năng của hệ thống chính trị Mỹ đã khiến giao kèo này không thể thực hiện được trong nhiều năm. Tôi đã từng gọi những hiện tượng này là “chế độ phủ quyết” (vetocracy) của nước Mỹ, theo đó các quan điểm thiểu số có thể dễ dàng ngăn chặn sự đồng thuận của đa số11.

Nếu Hoa Kỳ nghiêm túc trong việc đồng hóa người nhập cư, thì đất nước này cần phải cải tổ hệ thống nhập cư theo các đường lối vạch ra ở trên. Có được quyền công dân Hoa Kỳ và tuyên thệ nhập tịch là những dấu hiệu quan trọng và sâu sắc của đồng hóa. Một số người phản đối rằng việc cho cơ hội có quyền công dân đối với người nhập cư không giấy tờ là tưởng thưởng cho hành vi vi phạm luật pháp Hoa Kỳ, và cho phép nhảy lên trước những cá nhân hợp pháp đang tìm cách nhập tịch. Một yêu cầu thực hiện nghĩa vụ công có thể giúp giảm bớt những lo ngại như vậy. Đất nước này đang tạo ra trở ngại không cần thiết cho đồng hóa bởi ảo tưởng rằng hàng triệu người nhập cư không giấy tờ, sống hòa bình và tạo ra của cải tại quốc gia này, rốt cuộc sẽ bị trục xuất trở về nguyên quán. Trong khi đó, việc nước Mỹ không có khả năng thực thi các quy định hiện hành khiến vấn đề này sẽ còn tồn tại.

Các chính sách công tập trung vào việc đồng hóa thành công người nước ngoài có thể làm giảm bớt sự bùng phát của chủ nghĩa dân túy hiện nay đang trỗi dậy ở cả châu Âu và Hoa Kỳ. Trên thực tế, các nhóm mới hình thành phản đối mạnh mẽ nhập cư là liên minh của những người có mối quan tâm khác nhau. Nhóm quyết liệt nhất có động cơ phân biệt chủng tộc và bảo thủ, vốn sẽ khó để thay đổi tâm trí họ. Không cần bận tâm đến nhóm đó, mà chỉ đơn giản là phản đối lập luận trên cơ sở đạo đức. Nhưng những người khác lo ngại rằng liệu những người mới đến cuối cùng có thể đồng hóa hay không. Họ ít lo lắng về nhập cư hơn là về số lượng, tốc độ thay đổi và khả năng thích ứng với những thay đổi này của các thể chế hiện tại. Một chính sách tập trung vào đồng hóa có thể làm giảm bớt lo ngại của họ và tách họ khỏi nhóm bảo thủ mù quáng. Dù điều này có xảy ra hay không, một chính sách tập trung vào đồng hóa sẽ tốt hơn cho sự gắn kết quốc gia.

Các chính sách liên quan đến người nhập cư, tị nạn và quyền công dân là trọng tâm của các cuộc tranh luận về bản sắc hiện tại, nhưng vấn đề này còn rộng hơn nhiều. Chính trị bản sắc bắt nguồn từ một thế giới trong đó người nghèo và các nhóm yếu thế trở nên vô hình với nhóm khác, như Adam Smith từng nhận xét. Sự phẫn nộ do vị thế mất đi khởi nguồn từ áp lực kinh tế, và cách để dập tắt sự phẫn nộ đó là làm giảm đi những lo ngại về việc làm, thu nhập và an ninh.

Riêng ở Hoa Kỳ, phần lớn phe cánh tả đã ngừng suy nghĩ về các chính sách xã hội tham vọng có thể giúp cải thiện điều kiện cơ bản của người nghèo từ vài thập niên trước. Sẽ dễ nói về sự tôn trọng và nhân phẩm hơn là đưa ra các kế hoạch có thể tốn kém, [những kế hoạch] vốn sẽ giúp giảm thiểu tình trạng bất bình đẳng. Một ngoại lệ lớn là Tổng thống Obama, người khởi xướng Đạo luật Chăm sóc Sức khỏe Hợp túi tiền (Affordable Care Act - ACA) vốn là cột mốc quan trọng trong chính sách xã hội của Hoa Kỳ. Những phe phản đối ACA cố gắng gán nó với vấn đề bản sắc, rỉ tai nhau rằng chính sách này được thiết kế bởi một tổng thống da đen để hỗ trợ những cử tri da đen của mình. Nhưng thực tế đó là một chính sách quốc gia được thiết kế để trợ giúp những người Mỹ khốn khó hơn, bất kể chủng tộc hay bản sắc của họ. Nhiều người hưởng lợi từ đạo luật này là người da trắng ở vùng nông thôn miền Nam, những người trên thực tế vẫn bị thuyết phục bỏ phiếu cho các chính trị gia Đảng Cộng hòa, những người đã thề sẽ bãi bỏ ACA.

Chính trị bản sắc khiến việc xây dựng các chính sách đầy tham vọng như vậy trở nên khó khăn hơn. Trong phần lớn thế kỷ 20, chính trị ở các nền dân chủ tự do xoay quanh các vấn đề chính sách kinh tế rộng lớn. Phe cánh tả cấp tiến muốn bảo vệ thường dân khỏi biến động bất thường của thị trường, và sử dụng quyền lực nhà nước để phân phối nguồn lực công bằng hơn. Về phần mình, phe cánh hữu muốn bảo vệ hệ thống doanh nghiệp tự do và khả năng tất cả mọi người đều có thể tham gia trao đổi trên thị trường. Các đảng cộng sản, xã hội, dân chủ xã hội, tự do và bảo thủ đều thiết lập bản thân trên một dải từ tả sang hữu, đo lường bằng mức độ can thiệp của nhà nước mà họ cho là đáng mong muốn, và cam kết khác nhau về quyền bình đẳng hoặc tự do cá nhân. Cũng có các nhóm bản sắc quan trọng khác, bao gồm các đảng phái có chương trình nghị sự mang màu sắc chủ nghĩa dân tộc, tôn giáo hoặc tính khu vực. Nhưng sự ổn định của chính trị dân chủ trong giai đoạn từ cuối Thế chiến II cho đến hiện tại xoay quanh các đảng trung tả và trung hữu thống trị, hầu hết đều đồng ý về tính chính danh của một nhà nước phúc lợi dân chủ.

Hiện tại, đồng thuận này đại diện cho một cơ sở cũ đang bị tranh luận sôi nổi giữa các bên đảng phái mới, những đảng phái có cội gốc sâu sắc từ các vấn đề bản sắc. Điều này tạo ra thách thức lớn cho tương lai của chính trị dân chủ. Trong khi cuộc đấu tranh về chính sách kinh tế tạo ra sự phân cực mạnh vào đầu thế kỷ 20, các nền dân chủ nhận thấy rằng tầm nhìn kinh tế đối lập thường có thể gạt bỏ khác biệt và thỏa hiệp. Ngược lại, vấn đề về bản sắc khó giải quyết hơn: hoặc là anh công nhận tôi hoặc là không. Sự phẫn nộ khi nhân phẩm bị mất đi hoặc trở nên vô hình thường có nguồn gốc từ kinh tế, nhưng đấu tranh về bản sắc thường khiến chúng ta mất tập trung vào các chính sách có thể khắc phục cụ thể những vấn đề đó. Ở các quốc gia như Hoa Kỳ, Nam Phi hoặc Ấn Độ, với sự phân tầng chủng tộc, sắc tộc và tôn giáo, việc tạo ra các liên minh giai cấp công nhân rộng rãi để đấu tranh cho tái phân phối là khó khăn hơn, bởi các nhóm có định danh cao hơn không muốn đứng chung mục đích với những người đứng thấp hơn họ, và ngược lại.

Thay đổi công nghệ tạo tiền đề cho sự trỗi dậy của chính trị bản sắc. Khi Internet mới trở thành nền tảng cho truyền thông đại chúng vào những năm 1990, nhiều nhà quan sát (có cả tôi) tin rằng nó sẽ là một lực lượng quan trọng để thúc đẩy các giá trị dân chủ. Thông tin là một dạng quyền lực và nếu Internet giúp tất cả mọi người tiếp cận thông tin dễ dàng hơn, thì nó cũng sẽ phân bổ quyền lực rộng rãi hơn. Hơn nữa, sự phát triển của mạng xã hội nói riêng dường như là công cụ huy động hữu ích, cho phép các nhóm cùng chí hướng tập hợp xung quanh các vấn đề quan tâm chung. Bản chất ngang hàng của Internet giúp loại bỏ sự chuyên chế của những “người gác cổng”, vốn quản lý bản chất của thông tin mà mọi người tiếp cận.

Và thực tế diễn ra đúng như vậy: bất kỳ cuộc phản kháng chống lại chuyên chế nào, từ Cách mạng Hoa hồng và Cam ở Georgia và Ukraine đến Cách mạng Xanh thất bại ở Iran, nổi dậy ở Tunisia và Quảng trường Tahrir ở Ai Cập, đều được tiếp sức mạnh nhờ mạng xã hội và Internet. Việc lạm quyền của nhà nước khó được giữ bí mật hơn một khi người dân có công cụ để công bố hành vi đó, phong trào Black Lives Matter có thể sẽ không lớn mạnh như vậy nếu điện thoại di động và chức năng quay phim không phổ biến khắp nơi.

Nhưng theo thời gian, các chính phủ như Trung Quốc đã tìm ra cách kiểm soát việc sử dụng Internet của người dân và khiến nó trở nên vô hại về mặt chính trị, trong khi Nga tìm cách biến mạng xã hội thành vũ khí làm suy yếu các đối thủ dân chủ của mình12. Nhưng ngay cả khi vắng mặt những chủ thể quốc gia này, mạng xã hội đã thành công trong việc đẩy nhanh sự phân mảnh của các xã hội dân chủ khi rơi vào tay các nhóm bản sắc khác nhau. Nó kết nối những người cùng chí hướng với nhau, giải thoát họ khỏi sự chuyên chế của địa lý. Nó cho phép họ giao tiếp, và tự tách biệt khỏi những người và quan điểm mà họ không thích, trong “bong bóng chọn lọc”. Trong các cộng đồng giao tiếp mặt đối mặt, số người tin vào những thuyết âm mưu kỳ quặc sẽ rất hạn chế; nhưng ở trên mạng, người ta có thể khám phá hàng ngàn tín hữu. Bằng cách làm suy yếu vai trò của biên tập viên, xác thực thông tin, và quy tắc nghề nghiệp của báo chí truyền thống, Internet tạo điều kiện để thông tin xấu lưu thông và cho phép những hoạt động cố tình bôi nhọ và làm giảm uy tín các đối thủ chính trị. Tính ẩn danh của Internet loại bỏ những hạn chế về văn minh hiện có. Nó không chỉ giúp thúc đẩy sự sẵn sàng của xã hội để nhìn về bản thân theo nghĩa bản sắc mà còn xúc tiến hình thành bản sắc mới thông qua các cộng đồng trực tuyến, như vô số các mục thảo luận của Reddit (subreddit) đã làm.

Những nỗi sợ về tương lai thường được thể hiện một cách xuất sắc nhất qua tiểu thuyết, đặc biệt là các tác phẩm khoa học viễn tưởng cố gắng mường tượng thế giới tương lai dựa trên các loại công nghệ mới. Trong nửa đầu thế kỷ 20, nhiều nỗi sợ tương lai tập trung vào các chế độ chuyên chế to lớn, tập trung, và quan liêu đủ khả năng dập tắt tính cá nhân và quyền riêng tư. Tiểu thuyết 1984 của George Orwell dự báo Anh Cả kiểm soát con người thông qua màn hình vô tuyến, trong khi Thế giới mới tươi đẹp (Brave New World) của Aldous Huxley hình dung viễn cảnh nhà nước sử dụng công nghệ sinh học để phân tầng và kiểm soát xã hội. Nhưng bản chất của những phản địa đàng (dystopia) tưởng tượng như trên bắt đầu thay đổi trong những thập niên cuối của thế kỷ 20, khi sự sụp đổ môi trường và sự xuất hiện của những loại virus không thể kiểm soát chiếm vị trí trung tâm.

Tuy nhiên, có một nhánh cụ thể đề cập tới những lo lắng tạo ra bởi chính trị bản sắc. Các tác giả thuộc thể loại Cyberpunk (Công nghệ cao và cuộc đời bần hàn) như Bruce Sterling, William Gibson và Neal Stephenson nhìn thấy một tương lai không chỉ bị chi phối không phải bởi chế độ độc tài tập quyền, mà còn bởi những phân mảnh xã hội không được kiểm soát được tạo nên bởi một loại công nghệ mới nổi, gọi là Internet. Tiểu thuyết Tuyết lở (Snow Crash) của Stephenson ra đời năm 1992 giả định tồn tại một “siêu vũ trụ” (metaverse) ảo tỏa khắp, nơi các cá nhân có thể lựa chọn hiện thân của mình, tương tác và thay đổi bản sắc theo ý muốn. Hoa Kỳ bị chia nhỏ thành các cộng đồng khép kín (burbclaves), phân khu đô thị để phục vụ cho từng nhóm định danh riêng, như Tân Nam Phi cho những kẻ phân biệt chủng tộc với cờ Liên minh miền Nam, hay khu Đại Hong Kong của ông Lee cho người nhập cư Trung Quốc. Khi di chuyển từ khu vực này sang khu vực khác cần hộ chiếu và thị thực. CIA được tư nhân hóa và tàu sân bay USS Enterprise trở thành ngôi nhà nổi cho người tị nạn. Thẩm quyền của chính phủ liên bang thu hẹp vào trong những vùng đất nơi có các tòa nhà liên bang13.

Thế giới hiện tại của chúng ta đang đồng thời di chuyển về phía những phản địa đàng đối nghịch với siêu tập trung và phân mảnh vô tận. Ngược lại, một số khu vực khác nhau trên giới đang chứng kiến sự đổ vỡ của các thể chế tập trung, sự xuất hiện của các quốc gia thất bại, phân cực hóa, và thiếu sự đồng thuận ngày càng tăng cho những mục đích chung. Mạng xã hội và Internet khuyến khích sự hình thành của các cộng đồng khép kín, ngăn cách không phải bởi các rào cản vật lý mà bởi niềm tin về bản sắc chung.

Điều tốt đẹp của các tiểu thuyết phản địa đàng là các câu chuyện gần như không bao giờ trở thành sự thật. Chúng ta có thể tưởng tượng các xu hướng hiện tại sẽ tiến hóa theo cách thậm chí còn cường điệu hơn và việc này trở thành lời cảnh báo hữu ích: 1984 biến thành biểu tượng mạnh mẽ cho một tương lai toàn trị mà chúng ta muốn tránh và giúp chúng ta ngăn ngừa tương lai đó. Chúng ta có thể tưởng tượng một thế giới tốt hơn, mà có tính đến sự đa dạng ngày càng tăng của xã hội, thể hiện một tương lai về cách mà sự đa dạng đó phục vụ mục đích chung và củng cố nền dân chủ tự do thay vì làm suy yếu nó.

Bản sắc là chủ đề nền tảng cho nhiều hiện tượng chính trị ngày nay, từ các phong trào dân tộc dân túy mới, các chiến binh Hồi giáo, cho đến những tranh cãi diễn ra trong khuôn viên trường đại học. Chúng ta sẽ không tránh khỏi suy nghĩ về bản thân và xã hội của mình dưới thuật ngữ bản sắc. Nhưng chúng ta cần nhớ rằng các bản sắc cư ngụ sâu bên trong chúng ta không cố định, và cũng không nhất thiết phải đến với chúng bằng di truyền. Bản sắc có thể được sử dụng để chia rẽ, nhưng cũng có thể và đã được sử dụng để đoàn kết. Điều đó, về sau cùng, sẽ là phương thuốc cho nền chính trị dân túy của hiện tại.

Lời thề nhập tịch Hoa Kỳ truy cập ở đường link dưới đây https://www.uscis.gov/uscitizenship/naturalization-test/naturalization-oath-allegiance-united-states-america. Về lịch sử chi tiết của lời thề này, xem Casper, “Forswearing Allegiance”, trong Häberle, Jahrbuch . Xem thêm T Alexander Aleinikoff, “Between Principles and Politics: US Citizenship Policy”, trong Aleinikoff và Klusmeyer, From Migrants to Citizens .↩︎

Trái ngược với lời thề quốc tịch, Hoa Kỳ cho phép song tịch. Điều này không phải là kết quả của một thảo luận chủ ý từ Quốc hội, mà là kết quả từ nhiều quyết định của tòa án và chính quyền thúc đẩy bởi tính toán chính trị. Xem Casper, “Concept of National Citizenship”.↩︎

Bassam Tibi, “Why Can’t They Be Democratic?”, Journal of Democracy 19 (3) (2008): 43-48.↩︎

Điều tương tự cũng diễn ra ở các xã hội đa văn hóa khác, theo cách thường diễn đạt qua ngôn ngữ. Sau Đạo luật Hòa hợp (Acts of Union) vào năm 1707, khi Scotland được sáp nhập vào Vương quốc Anh, cư dân ở Anh bắt đầu tự gọi mình là người Anh quốc (British) thay vì người Anh (England), một bản sắc bao gồm cả người Wales, Scotland, và tại thời điểm đó là Ireland. Trong tiếng Nga, tính từ russki , nghĩa là người dân tộc Nga, và từ rossiyski , nghĩa là công dân nước Nga, vốn có thể là người Chechen hay Dagestan Hồi giáo.↩︎

“Muslim Identities and the School System in France and Britain: The Impact of the Political and Institutional Configurations on Islam-Related Education Policies”, tham luận trình bày tại ECPR General Conference, Pisa, 9/2007; Jenny Berglund, Publicly Funded Islamic Education in Europe and the United States (Washington, DC: Brookings Institution, 2015); Marie Parker-Johnson, “Equal Access to State Funding: The Case of Muslim Schools in Britain”, Race, Ethnicity and Education 5 (2010): 273-289.↩︎

Ngay cả ở Pháp cũng có ngoại lệ, nước Pháp hỗ trợ trường tôn giáo ở Alsace bởi những tồn tại lịch sử phức tạp tại khu vực đó.↩︎

Mặc dù có bằng chứng cho thấy Dự luật 227 dẫn đến tăng khả năng tiếp thu tiếng Anh của trẻ nhập cư, Dự luật này bị thay thế bởi Dự luật 58 năm 2016. Xem Edward Sifuentes, “Proposition 227: 10 Years Later”, San Diego Union-Tribune, 8 tháng Mười một, 2008.↩︎

Daniel Jacobson, Rights Across Borders: Immigration and the Decline of Citizenship (Baltimore, MD: Johns Hopkins University Press, 1996), 8-11.↩︎

Tình huống này thay đổi thời điểm người nước ngoài đặt chân lên lãnh thổ một quốc gia nhất định. Tại Hoa Kỳ, châu Âu, và một số nền dân chủ tự do khác, luật nội địa ban quyền cho người không phải là công dân, bao gồm những người không có giấy tờ. Điều này khuyến khích người nhập cư đến lãnh thổ của một nước bằng bất kỳ phương tiện nào, hợp pháp hay không hợp pháp. Nó cũng khiến các nước tìm cách kiểm soát lãnh thổ bằng cách ngăn chặn người nhập cư đến, bằng những rào cản vật lý như tường, ngăn chặn trên biển, hay điều chuyển họ sang những vùng tài phán khác nơi luật nội địa không áp dụng. Xem Casper, “Forswearing Allegiance”, in Häberle, Jahrbuch ; Moria Paz, “The Law of Walls”, European Journal of International Law 28 (2) (2017): 601-624.↩︎

Đây là một khuyến nghị cải cách nhập cư toàn diện được Bàn tròn Chính sách Nhập cư Brookings-Duke đề xuất, “Breaking the Immigration Stalemate: From Deep Disagreements to Constructive Proposals”, 6 tháng Mười, 2009.↩︎

Vetocracy (chế độ phủ quyết) đề cập đến cách thức hệ thống kiểm tra và cân bằng của Mỹ cho phép những nhóm thiểu số phủ quyết quyết định được đa số ủng hộ. Xem thêm Fukuyama, Political Order and Political Decay , chap. 34, pp. 488-505.↩︎

Xem Juan Pablo Cardenal et al., Sharp Power: Rising Authoritarian Influence (Washington, DC: National Endowment for Democracy, tháng Mười hai, 2017)↩︎

Neal Stephenson, Snow Crash (New York: Bantam Books, 1992).↩︎