← Quay lại trang sách

Chương 13 CÂU CHUYỆN VỀ TÍNH NHÂN DÂN

Thật khó để lý thuyết hóa bản sắc dân tộc, bởi lẽ các quốc gia đang tồn tại đều là phụ phẩm của quá trình đấu tranh phức tạp và hỗn loạn trong lịch sử, thường đậm tính áp chế và bạo lực. Các quốc gia ra đời từ quá trình này thường là nền tảng khả thi để xây dựng thể chế dân chủ, tuy vậy kết quả thường không ngừng bị bàn cãi và liên tục chịu thách thức của thay đổi về nhân khẩu, kinh tế và chính trị.

Bản sắc quốc gia thường được hình thành từ bốn phương thức chính. Phương thức đầu tiên là dịch chuyển các nhóm dân chúng tương ứng với ranh giới chính trị của một đất nước cụ thể, hoặc bằng cách đưa dân khai khẩn đến những vùng lãnh thổ mới, hoặc bằng cách dùng vũ lực trục xuất dân đang sống tại một vùng lãnh thổ nào đó, hay đơn giản hơn bằng cách tàn sát họ - hoặc là áp dụng cả ba cách kể trên. Cách thứ ba bị coi là thanh lọc sắc tộc trong chiến tranh Balkan đầu những năm 1990, và bị cộng đồng quốc tế lên án một cách chính đáng. Thế nhưng thanh lọc sắc tộc từng được nhiều quốc gia sử dụng trong quá khứ, bao gồm cả những nền dân chủ như Úc, New Zealand, Chile và Hoa Kỳ, trong đó dân đến khai hoang dùng bạo lực xua đuổi hoặc sát hại dân bản địa trên chính lãnh thổ của họ.

Phương thức thứ hai để xây dựng tính quốc gia là thay đổi biên giới cho phù hợp với dân cư về mặt ngôn ngữ hoặc văn hóa. Trong lịch sử, phương thức này được thực hiện thông qua thống nhất đất nước, như trường hợp của Đức và Ý trong những năm 1860 và 1870, hoặc thông qua ly khai, như khi Cộng hòa Ireland tách khỏi Vương quốc Anh năm 1919, hoặc Ukraine tuyên bố độc lập với Liên bang Xô Viết vào năm 1991.

Phương thức thứ ba là đồng hóa các nhóm dân thiểu số bằng văn hóa của nhóm ngôn ngữ hoặc chủng tộc sẵn có. Hai trăm năm trước, Pháp từng là quốc gia đa ngôn ngữ, nhưng theo thời gian các phương ngữ khác nhau như tiếng xứ Provence, Brittany và Flanders dần bị thay thế bởi tiếng Pháp vùng Paris. Cũng tương tự, dân nhập cư vào Argentina hoặc Hoa Kỳ - hoặc đúng hơn là con cái của họ - học tiếng Tây Ban Nha hoặc tiếng Anh để giúp họ hòa nhập với nền văn hóa chi phối ở các quốc gia này và thăng tiến trên nấc thang xã hội. Sự đồng nhất chủng tộc rõ ràng ở Trung Quốc, nơi hơn 90% dân số được cho là người Hoa gốc Hán, là sản phẩm của quá trình đồng hóa các sắc dân thiểu số về mặt văn hóa và sinh học kéo dài đến ba thiên niên kỷ.

Phương thức thứ tư là tái định hình bản sắc quốc gia cho phù hợp với đặc điểm xã hội được quan tâm. Trái ngược với quan điểm của những người theo chủ nghĩa dân tộc, “quốc gia” không phải là những thực thể sinh học tồn tại từ ngàn xưa, chúng được xây dựng bởi xã hội theo tiến trình từ dưới lên và từ trên xuống. Những người thực hiện công cuộc xây dựng này có thể cố tình định danh cho phù hợp với đặc điểm và thói quen của người dân. Tiêu biểu là việc các nhà lập quốc Ấn Độ, Gandhi và Nehru, phát triển “ý tưởng Ấn Độ” đang tồn tại để hợp nhất tập hợp dân cư cực kỳ đa dạng của xã hội nước này1. Những người sáng lập Indonesia và Tanzania trên thực tế tạo nên ngôn ngữ quốc gia mới góp phần đoàn kết xã hội vốn có rất nhiều khác biệt2.

Các chính sách có tác dụng lớn nhất trong định hình bản sắc quốc gia là quy tắc liên quan đến quyền công dân và quyền cư trú, đạo luật về nhập cư và tị nạn, và giáo trình được sử dụng trong hệ thống giáo dục công nhằm dạy trẻ em về lịch sử đất nước. Tương tự, trong tiến trình đi từ dưới lên, “câu chuyện về tính nhân dân” được kể lại thông qua nghệ sỹ, nhạc sỹ, nhà thơ, nhà làm phim, sử gia, và công dân bình thường của xã hội bằng cách miêu tả cội nguồn và khát vọng của chính họ.

Một trong những minh họa sinh động nhất về quá trình xây dựng quốc gia trong xã hội dân chủ được khắc họa trong bộ phim Invictus , kể về câu chuyện Nam Phi đăng cai Giải Bóng bầu dục Thế giới năm 1995. Nền dân chủ non trẻ Nam Phi, mới vươn lên đầu những năm 1990 từ chế độ phân biệt chủng tộc apartheid, đang bị chia rẽ sâu sắc theo nhiều tuyến chủng tộc và sắc tộc. Một trong những chia rẽ đó là về thể thao, khi người da trắng dõi theo bóng bầu dục còn người da đen lại chơi bóng đá. Vị tổng thống đầu tiên của đất nước, Nelson Mandela, là người nhìn xa trông rộng và hiểu được tầm quan trọng của thể thao đối với ý thức dân tộc. Ông chủ động gây dựng sự ủng hộ cho đội tuyển bóng bầu dục quốc gia, đội Springbok, vốn đa phần là người da trắng giữa đất nước của người da đen. Ông làm điều này bất chấp sự phản đối từ chính Đảng Đại hội Dân tộc Phi của mình. Ông không thể áp đặt mong muốn riêng lên những người đi theo mình; ông phải dỗ dành và thuyết phục họ. May mà đội tuyển Springbok cuối cùng đã giành được danh hiệu. Họ đạt được thành tích này nhờ đánh bại đội tuyển All Blacks rất mạnh của New Zealand, đội bóng mà bản thân họ cũng mang chút hơi hướng lập quốc, bằng cách biểu diễn vũ điệu chiến tranh của người Maori, điệu haka, trước mỗi trận đấu.

Cả bốn phương thức xây dựng bản sắc quốc gia có thể được thực hiện dựa vào hòa bình và đồng thuận, hoặc thông qua vũ lực và ép buộc. Tất cả những quốc gia đang tồn tại đều là phụ phẩm lịch sử của sự pha trộn bốn phương thức nói trên, và dựa vào kết hợp của cả ép buộc và đồng thuận. Thách thức mà nền dân chủ tự do đương đại phải đối mặt trong thời đại nhập cư và tính đa dạng đang tăng cao là làm sao kết hợp được phương thức thứ ba và thứ tư - xác định bản sắc quốc gia bao trùm và phù hợp với thực tế đa dạng của xã hội, và giúp những người mới hòa nhập với bản sắc đó. Điều hệ trọng của nhiệm vụ này là làm sao gìn giữ được chính bản thân nền dân chủ tự do.

Cuộc đấu tranh để xác định bản sắc dân tộc của châu Âu đương đại được bắt đầu từ những sáng lập viên của Liên minh châu Âu, Robert Schuman và Jean Monnet, những người hiểu rằng các định nghĩa theo sắc tộc có tính độc nhất về bản sắc dân tộc là cội nguồn của hai cuộc Thế chiến mà châu Âu hứng chịu3. Để giải quyết vấn đề này, họ sáng lập nên Cộng đồng Than thép châu Âu vào năm 1951, bao gồm Pháp, Bỉ, Tây Đức, Ý, Hà Lan, và Luxembourg, nhằm ngăn chặn nước Đức tái vũ trang trong khi vẫn hỗ trợ hợp tác kinh tế và thương mại trong một khu vực từng hợp nhất, nhưng giờ bị chia rẽ bởi chiến tranh. Cộng đồng Than thép này đã từng bước biến đổi thành Cộng đồng Kinh tế châu Âu, và sau cùng là Liên minh châu Âu, với số lượng thành viên dần đạt đến con số 28 nước ở thời điểm hiện tại.

Các sáng lập viên của Liên minh châu Âu chủ ý tìm cách làm suy yếu bản sắc dân tộc ở cấp độ nhà nước thành viên để đổi lấy ý thức châu Âu “hậu dân tộc”, như là cách để chống lại chủ nghĩa dân tộc-sắc tộc quá khích vào nửa đầu thế kỷ 204. Các nhà sáng lập này hy vọng sự phụ thuộc lẫn nhau về mặt kinh tế sẽ giúp giảm nguy cơ chiến tranh, và hợp tác chính trị sẽ nối gót. Về nhiều phương diện, họ đã thành công vang dội: khả năng chiến tranh nổ ra giữa Đức và Pháp, hai đối thủ chính trong hai cuộc Thế chiến, dường như là quá viển vông trong thời đại này. Một giai tầng gồm những người trẻ châu Âu ngày nay thường có học thức cao, được sinh ra trong một nước thành viên, hưởng nền giáo dục của một nước khác, kết hôn với một người ở đất nước thứ ba, và làm việc tại nhiều địa điểm trong Liên minh châu Âu và xa hơn nữa. Họ vẫn giữ hiểu biết về quốc gia nơi mình sinh ra, nhưng cuộc sống của họ gắn với toàn Liên minh châu Âu.

Nhưng việc “châu Âu” liệu có một bản sắc chung mạnh hơn các bản sắc dân tộc cũ mà nó được quy định thay thế hay không vẫn chưa rõ ràng. Trong những thập niên đầu khi Liên minh châu Âu ra đời, việc tôn vinh bản sắc dân tộc quá trớn ở cấp độ từng nước thành viên là không chấp nhận được về mặt chính trị. Điều này đặc biệt đúng với những nước từng có quá khứ phát-xít như Đức hay Tây Ban Nha: công dân của họ không vẫy quốc kỳ, hát quốc ca, hay cổ vũ quá trớn cho đội tuyển thể thao quốc gia. Đối với họ châu Âu là một nơi để trú ngụ, chứ không nhất thiết là một điểm đến ưa thích.

Nhưng các lãnh đạo của Liên minh châu Âu không có vị thế để đầu tư nhiều công sức vào việc xây dựng một bản sắc mới thay thế5. Họ không tạo lập quyền công dân chung cho toàn châu Âu; nguyên tắc về quốc tịch vẫn thuộc thẩm quyền của từng nước thành viên. Những biểu tượng mang tính quốc gia như quốc kỳ hay quốc ca ra đời muộn, và các thành viên đa dạng của Liên minh châu Âu không có một nền giáo dục công dân chung. Nhưng thất bại quan trọng nhất nằm ở độ tin cậy dân chủ của chính Liên minh châu Âu. Định chế quyền lực nhất của Liên minh châu Âu là Ủy ban châu Âu, một cơ quan kỹ trị không thông qua bầu cử với mục tiêu chính là thúc đẩy thị trường chung châu Âu. Cơ quan này chỉ phải phúc đáp cho người dân một cách gián tiếp, thông qua Hội đồng Bộ trưởng, vốn đại diện cho từng nước thành viên. Nghị viện châu Âu được bầu trực tiếp có quyền lực khá hạn chế, và do đó thất bại trong việc tạo ra tỉ lệ cử tri đi bỏ phiếu đáng kể hay sự hào hứng. Công dân châu Âu biết rằng lá phiếu quan trọng của mình vẫn là ở cấp độ quốc gia thành viên, và nguồn năng lượng và cảm xúc chính của họ được hướng vào hoạt động này. Kết quả là, họ ít cảm thấy có quyền sở hữu hoặc kiểm soát đối với các định chế đang quản trị toàn châu Âu.

Vậy nên trong khi tầng lớp tinh hoa nói về “sự liên hiệp ngày càng chặt chẽ” bên trong Liên minh châu Âu, thực tế bóng ma của những bản sắc dân tộc xưa cũ vẫn trụ lại như những vị khách không mời tại dạ tiệc. Điều này đặc biệt đúng đối với cử tri lớn tuổi và ít bằng cấp hơn, vốn không thể hoặc không định tận dụng tính cơ động mà một châu Âu mới mang lại. Bóng ma này bắt đầu xuất hiện vào thời khắc quyết định, và đe dọa sự tồn tại của một châu Âu toàn vẹn.

Điều này được minh họa một cách sinh động qua cuộc khủng hoảng đồng euro, trong đó đồng tiền chung được ban hành năm 1999 này cho phép Hy Lạp vay mượn bừa bãi trong những năm phồn thịnh của thập niên 2000. Người Đức, vốn hoàn toàn mong muốn hỗ trợ những đồng bào kém hạnh phúc hơn của họ thông qua nhà nước phúc lợi đang mở rộng, lại không muốn đối xử hào phóng như vậy đối với người Hy Lạp đang có nguy cơ vỡ nợ. Hy Lạp thực tế có cách tiếp cận hoàn toàn khác với tiết kiệm, vay nợ, và chủ nghĩa bảo trợ khu vực công. Berlin, chủ nợ chính của Hy Lạp, có thể áp đặt chính sách chặt chẽ và hà khắc lên Athens với sự trợ giúp của các thể chế quốc tế như Ngân hàng Trung ương châu Âu và Quỹ Tiền tệ Quốc tế, và tình cảnh đó vẫn tồn tại đến ngày hôm nay. Cuộc khủng hoảng đồng euro bộc lộ chia rẽ sâu sắc giữa các nước thành viên phía bắc và phía nam trong khu vực đồng tiền chung, dẫn đến nhận thức rõ ràng hơn về khác biệt quốc gia giữa các nước này so với trước khi khủng hoảng bùng nổ.

Nhưng xung đột nghiêm trọng hơn diễn ra liên quan đến câu hỏi về người nhập cư và người tị nạn. Mức độ người cư trú sinh ra ở nước ngoài tăng mạnh trong những năm 1990 và 2000 vì một vài nguyên nhân. Đầu tiên, lao động nhập cư từ các nước mà người Hồi giáo chiếm đa số như Thổ Nhĩ Kỳ, Pakistan, và Morocco không hồi hương như kỳ vọng ban đầu, thay vào đó, họ mang theo gia đình, sinh con, và bắt đầu định cư ở những nước cưu mang họ. Sự mở rộng mau lẹ của Liên minh châu Âu sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc mở cửa cho làn sóng nhập cư khổng lồ vào phía tây từ các nước Đông Âu, giống như lý thuyết kinh tế gợi ý rằng điều này có thể xảy ra khi người lao động tìm kiếm cơ hội việc làm ở những nước giàu hơn.

Nhập cư từ các nước Hồi giáo luôn gây tranh cãi lớn hơn tại các nước châu Âu so với nhập cư từ một khu vực khác trong Liên minh châu Âu. Nguyên nhân của hiện tượng này khá phức tạp. Trong một số trường hợp, đây đơn giản chỉ là kết quả của nạn nhân biệt chủng tộc, bài ngoại, và định kiến văn hóa. Một số khác lo sợ những người mới đến sẽ không “hòa nhập” được với xã hội cứu mang họ. Có những lời buộc tội cho rằng người nhập cư và con cái họ sống trong khu dân cư khép kín và không học ngôn ngữ quốc gia, thậm chí sau nhiều năm cư trú.

Những nỗi sợ này trở nên rõ ràng hơn sau các vụ tấn công 11/9 vào Trung tâm Thương mại Thế giới ở New York, nhanh chóng theo sau bằng một chuỗi hoạt động tương tự của al-Qaeda tại London và Madrid. Những vụ việc này khơi mào cho nhiều cuộc tranh luận nảy lửa về bản sắc dân tộc tại nhiều nước châu Âu, bởi những kẻ khủng bố thường đến từ chính bên trong xã hội các nước kể trên. Một trường hợp điển hình là Hà Lan, nơi có tỉ lệ người Hồi giáo nhập cư vào loại cao nhất châu Âu. Cuộc tranh luận được khởi nguồn bởi Pim Fortuyn, chính trị gia công khai là người đồng tính và ủng hộ chặn đứng người Hồi giáo nhập cư, với lập luận rằng người Hồi giáo không chấp nhận những người như ông ta và sẽ không hòa nhập được với nền văn hóa mang tính tự do của Hà Lan. Fortuyn bị ám sát bên ngoài một đài phát thanh vào tháng Năm năm 2002, không phải bởi người Hồi giáo mà bởi một nhà hoạt động vì quyền động vật. Nhưng đến năm 2004, một nhà làm phim Hà Lan là Theo van Gogh bị sát hại bởi Mohammed Bouyeri, một công dân Hà Lan gốc Morocco bị kích động do một trong những bộ phim của van Gogh mà hắn cho rằng thiếu tôn trọng Hồi giáo.

Một làn sóng bạo lực tiếp diễn ở châu Âu theo sau sự thành lập Nhà nước Hồi giáo ở Syria và Iraq sau cuộc nội chiến Syria. Làn sóng này bao gồm vụ Charlie Hebdo ở Paris tháng Một năm 2015, các vụ tấn công Bataclan tiếp theo trong năm đó khiến 130 người chết, vụ đánh bom sân bay Brussels vào tháng Ba năm 2016, và các vụ tấn công sử dụng xe tải đâm vào khách bộ hành ở Berlin, London, Nice, và thành phố New York. Một nhóm đáng kể người Hồi giáo bị cực đoan hóa do cuộc xung đột ở Syria, và hoạt động tuyển mộ qua mạng Internet của những kẻ truyền giáo cực đoan.

Những vụ tấn công nói trên xoáy vào quyền công dân và bản sắc dân tộc chính bởi vì rất nhiều kẻ thực hiện tấn công là công dân của nước bị tấn công và là con cái thế hệ thứ hai của người nhập cư. Rõ ràng nhiều nước châu Âu đã nuôi dưỡng một lượng dân nhập cư bất mãn đang ngày càng lớn mạnh, vốn không thật sự hòa nhập được với xã hội cưu mang họ, và trong đó một lượng nhỏ dường như căm ghét sâu sắc chính những giá trị mà những xã hội này tán thành.

Thách thức thời kỳ đầu đối với bản sắc dân tộc dường như không nghiêm trọng như vậy. Theo khía cạnh nào đó, chủ nghĩa đa văn hóa được sinh ra tại Canada, nơi người dân nói tiếng Pháp ở tỉnh Quebec muốn có quyền hợp pháp, bảo vệ ngôn ngữ và giáo dục của họ tại lục địa thống trị bởi người nói tiếng Anh. Hiệp ước Meech Lake, đàm phán vào năm 1987, lẽ ra sẽ sửa đổi hiến pháp Canada để bảo vệ tỉnh này như một “xã hội riêng biệt”. Hiệp ước này gây tranh cãi chính bởi vì nó bao hàm một dạng thừa nhận bất bình đẳng: người Canada gốc Pháp sẽ được hưởng quyền ngôn ngữ mà người nói tiếng Anh không được. Bản hiệp ước không được phê chuẩn, nhưng chủ nghĩa liên bang Canada tiếp tục bảo vệ quyền văn hóa đặc biệt của Quebec bằng cách cho phép việc sử dụng tiếng Pháp của người nói tiếng Pháp và người nhập cư.

Dân nhập cư Hồi giáo thử thách giới hạn của chủ nghĩa đa văn hóa thông qua cách thức mà những người theo chủ nghĩa dân tộc Quebec không thực hiện. Những đòi hỏi cực đoan nhất của người Quebec có thể chia cắt Canada thành hai đất nước, nhưng kể cả sự chia cắt cũng không thể dẫn đến mối đe dọa cơ bản đối với giá trị dân chủ, bởi một vùng Quebec độc lập vẫn là nhà nước dân chủ tự do chất lượng cao. Tác động thực sự của đòi hỏi văn hóa từ người nói tiếng Pháp liên quan đến quy tắc ngôn ngữ của Canada, cùng lắm cũng chỉ gây phiền hà cho người nói tiếng Anh khi họ phải học tiếng Pháp và sử dụng biển báo song ngữ.

Điều tương tự chưa chắc đã đúng đối với một số tín ngưỡng và tập quán văn hóa của cộng đồng Hồi giáo. Những trường hợp cực đoan nhất là khi người Hồi giáo sẵn sàng thực hiện hành vi khủng bố chống lại đồng bào họ. Hành động bạo lực công khai vượt qua ranh giới rõ ràng và trở nên không thể chấp nhận trong bất kỳ xã hội nào. Những hành động khác lại phức tạp hơn. Nhiều gia đình Hồi giáo sắp đặt cho con gái của họ những cuộc hôn nhân vốn tiềm ẩn khả năng đi ngược lại quyền được tự lựa chọn bạn đời của những người phụ nữ trẻ tuổi, một số người kém may mắn sau khi không tuân theo sắp đặt đã trở thành mục tiêu của những vụ giết người vì danh dự . Nhiều người Hồi giáo nghiêm mật lại không đồng ý với tình dục đồng giới trong thời kỳ hôn nhân đồng tính lan nhanh khắp châu Âu. Các nhóm Hồi giáo, nhân danh tôn trọng văn hóa, đặt ra đòi hỏi được đối xử khác biệt như: được phép tách biệt phụ nữ và thiếu nữ, hoặc cấm phụ nữ tìm đến các bác sỹ và y tá nam để chữa trị. Và hậu quả của cuộc xung đột gay gắt giữa Israel và Palestine là nhiều người Hồi giáo phô bày chủ nghĩa bài Do Thái mà châu Âu nỗ lực áp chế kể từ khi kết thúc Thế chiến II.

Thập kỷ 2000 chứng kiến cuộc tranh luận gay gắt xuất hiện khắp châu Âu về quyền công dân, nhập cư, và bản sắc quốc gia. Quyền công dân là vấn đề hai mặt: cho công dân các quyền được nhà nước bảo hộ, nhưng cũng buộc họ phải thực hiện nghĩa vụ, mà trên hết là nghĩa vụ trung thành với nguyên tắc và luật pháp của đất nước. Đây là vấn đề đặc biệt đau đầu khi tính đến quyền phúc lợi to lớn của nhiều nhà nước châu Âu: xuất hiện sự phản đối mạnh mẽ đối với việc cung cấp phúc lợi kể trên cho dân nhập cư, những người có vẻ không chấp nhận những điều cơ bản của khế ước xã hội. Và một số lo ngại rằng người Hồi giáo, trái ngược với những nhóm nhập cư trước đó, có thể sẽ không bao giờ hòa nhập hoàn toàn với nền văn hóa của các quốc gia này. Các đảng phái chống nhập cư cánh hữu như Đảng Mặt trận Quốc gia tại Pháp, Đảng Nhân dân Đan Mạch, và Đảng Tự do tại Hà Lan kiếm được sự ủng hộ và gây áp lực lên các chính đảng nhằm thỏa mãn yêu cầu của mình.

Kết quả là nhiều nước châu Âu bắt đầu tư duy lại luật quốc tịch của mình, và theo đó là cơ sở để người nhập cư có thể trở thành thành viên chính thức của những xã hội này. Thất bại trong việc hòa nhập dân nhập cư gây ra nhiều hậu quả: nhiều nền dân chủ châu Âu biến việc được nhận quốc tịch trở nên khó khăn. Quốc tịch có thể được trao tại thời điểm ra đời trên cơ sở jus soli (quyền theo lãnh thổ) hay jus sanguinis (quyền theo huyết thống), hoặc được trao sau đó thông qua nhập tịch. Dưới nguyên tắc jus soli , bất cứ ai sinh ra trên lãnh thổ quốc gia tự động trở thành công dân; còn theo jus sanguinis , quốc tịch được trao dựa trên huyết thống6. Jus soli luôn tồn tại ở Hoa Kỳ, nhưng được thực thi cho người dân thuộc mọi chủng tộc sau khi Tu chính án thứ Mười Bốn được thông qua năm 1868, theo đó “Tất cả những ai sinh ra hoặc nhập quốc tịch Hoa Kỳ, và chịu quyền hạn pháp lý của nước này, đều là công dân của Hoa Kỳ và của tiểu bang mà họ sinh sống”. Quy tắc tương tự được áp dụng ở những nước như Úc và Canada với thái độ khá cởi mở đối với vấn đề nhập cư7.

Tại châu Âu, người Pháp có bề dày lịch sử trong việc tư duy về quốc tịch theo điều khoản lãnh thổ và chính trị, dù thực thi jus sanguinis về mặt kỹ thuật, điều khoản nhập quốc tịch tương đối dễ dàng của họ cho phép các thế hệ người nhập cư thứ hai và thứ ba có quốc tịch gần như tự động8. Quốc tịch Pháp theo truyền thống được ghi nhận là lòng trung thành dành cho nền cộng hòa, ngôn ngữ Pháp, và giáo dục Pháp; nhà thơ người Senegal Leopold Senghor được nhận vào Viện Hàn lâm Pháp danh giá năm 1983 nhờ vào những đóng góp của ông đối với văn học Pháp.

Trái lại, Đức, Áo, và Thụy Sỹ (cũng như các nền dân chủ châu Á như Nhật Bản và Hàn Quốc) khiến việc nhập tịch trở nên khó khăn khi họ có truyền thống trao quốc tịch dựa trên jus sanguinis . Trước khi đạo luật của Đức trở nên tương đối tự do vào năm 2000, con cái thế hệ thứ hai và thứ ba của người nhập cư từ Thổ Nhĩ Kỳ và các nước Trung Đông khác, dù nói tiếng Đức hoàn hảo, vẫn rất khó có được quốc tịch. Ngược lại, những người gốc Đức đến từ những nước Liên bang Xô Viết và các nước thuộc Khối Đông Âu cũ có thể được nhập quốc tịch dựa trên bằng chứng về sắc tộc Đức, dù họ không hề nói tiếng Đức9. Nhật Bản sở hữu một trong những hệ thống hạn chế nhất về quốc tịch và nhập tịch trong số tất cả những nền dân chủ phát triển, cùng với những giới hạn rõ ràng đối với vấn đề nhập cư, dẫn đến kết quả nước này là một trong những nước kém đa dạng nhất trong Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD)10.

Các nước châu Âu riêng lẻ bắt đầu cải tổ luật quốc tịch của mình vào những năm 200011. Về một vài phương diện những thay đổi này là hữu ích đối với sự hòa nhập xã hội, chuyển hướng khỏi jus sanguinis và thiết lập bộ tiêu chuẩn về nhập quốc tịch mà một người nhập cư nhiệt thành có thể thỏa mãn. Công dân mới được kỳ vọng sẽ thể hiện kiến thức về lịch sử đất nước, hiểu biết về thể chế chính trị, và nói được ngôn ngữ quốc gia tương đối thành thạo. Nhưng trong một số trường hợp, những yêu cầu này khắt khe đến mức dường như mục tiêu của chúng là để ngăn chặn nhiều hơn là cho phép nhập quốc tịch. Ví dụ, bang Baden-Württemberg của Đức yêu cầu việc chấp nhận hôn nhân đồng tính là điều kiện để trao quyền công dân, mà bản thân yêu cầu này thật kỳ lạ khi xét đến di sản Công giáo bảo thủ của bang12.

Ngoài quy tắc chính thức về quyền công dân kể trên, phân biệt chủng tộc rõ ràng và các rào cản văn hóa khác vốn khó phát hiện hơn ngăn cản quá trình hòa nhập13. Các tính từ như Đức, Hà Lan, Đan Mạch luôn mang ý nghĩa dân tộc. Trong khi người nhập cư vào Hoa Kỳ sinh ra ở Guatemala hay Hàn Quốc có thể tự hào khẳng định anh ta hay cô ta là người Mỹ kể từ thời khắc tuyên thệ nhập quốc tịch, sẽ khó hơn nhiều cho công dân Đức gốc Thổ Nhĩ Kỳ tuyên bố họ là người Đức, kể cả khi họ sinh ra ở đất nước này và nói tiếng Đức như tiếng mẹ đẻ. Hà Lan nổi tiếng về tinh thần khoan dung, nhưng sự khoan dung này được xây dựng quanh các cộng đồng song song tồn tại hơn là sự hòa nhập ở cấp độ cá nhân. Dưới quá trình “trụ cột hóa” (trong tiếng Hà Lan là verzuiling ), các cộng đồng Tin Lành, Công giáo, và phi tôn giáo duy trì trường học, báo chí, và đảng phái chính trị của mình trong nhiều năm. Khi một lượng lớn người Hồi giáo bắt đầu chuyển tới, họ thường được hướng vào trụ cột của riêng mình, nơi họ chỉ đến trường cùng các trẻ em Hồi giáo khác. Hệ thống của Hà Lan trong lịch sử hoạt động rất tốt để duy trì hòa bình xã hội trong xã hội bị phân hóa, nhưng trong thế kỷ 21 nó lại là trở ngại với việc hòa nhập người nhập cư đến từ nền văn hóa vô cùng khác biệt.

Các nước thành viên mới đến từ Đông Âu của Liên minh châu Âu thậm chí còn kém sẵn sàng hơn các nước sáng lập trong việc chấp nhận những người mới đến từ những nền văn hóa khác biệt. Không giống với Tây Đức và Tây Ban Nha, các nước kể trên không bị buộc phải đấu tranh với quá khứ dân tộc chủ nghĩa, và cũng không cần phải cố gắng áp đặt các giá trị tự do lên công dân của mình. Họ hầu như không có kinh nghiệm về vấn đề nhập cư và thuộc vào nhóm các xã hội kém đa dạng nhất trong thế giới phát triển. Sau năm 1989, họ sẵn sàng gia nhập Liên minh châu Âu, nhưng nhiều công dân của họ không trân trọng giá trị tự do tích cực mà châu Âu mới mang lại. Kết quả là, Viktor Orbán có thể tuyên bố bản sắc quốc gia Hungary dựa trên dân tộc Hungary, cũng giống như Adolf Hitler từng tuyên bố bản sắc Đức dựa trên dòng máu Đức. Nhiều nhà lãnh đạo mới của Đông Âu xem Brussels là mối đe dọa, chủ yếu bởi EU mở cửa cho luồng nhập cư không hạn chế từ Trung Đông và châu Phi.

Anh là một nước thành viên Liên minh châu Âu khác chưa bao giờ thực sự công nhận bản sắc châu Âu. Trong nhiều năm, Anh từng là nước thành viên chủ chốt có thái độ hoài nghi EU, thể hiện qua các thành phần quan trọng trong Đảng Bảo thủ và qua các nhóm mới như Đảng Độc lập Vương quốc Anh (UKIP) dưới sự lãnh đạo của Nigel Farage14. Kết quả bầu cử bất ngờ đưa Anh rời Liên minh châu Âu vào tháng Sáu năm 2016 được dự báo dẫn tới hệ quả kinh tế mang tính thảm họa, nhưng vấn đề đối với nhiều cử tri lựa chọn Rời Đi lại là về bản sắc hơn là kinh tế. Kết quả bầu cử này có lẽ dễ hiểu khi xét đến di sản lịch sử về bản sắc Anh quốc.

Tư tưởng hoài nghi châu Âu của người Anh bắt nguồn từ niềm tin lâu đời về tính ngoại lệ của Anh quốc. Đất nước này bị một triều đại Pháp chinh phục năm 1066 và trong vài trăm năm sau đó có lịch sử tương quan sâu sắc với Lục địa châu Âu. Nhưng khi Henry VIII cắt đứt quan hệ với Giáo hoàng vào đầu thế kỷ 16 và thiết lập nhà thờ quốc gia Tin Lành mới, cảm nhận đặc biệt về bản sắc Anh quốc bắt đầu hình thành. Theo lời sử gia Alan Smith:

Cảm giác về bản sắc dân tộc và tính độc nhất tiếp tục phát triển, đạt đến tuyệt đỉnh dưới thời Elizabeth khi nó được gán cho biểu hiện kinh điển trong một trong những tác phẩm có ảnh hưởng nhất của toàn bộ nền văn học Anh. Tác phẩm Acts and Monuments của John Fox… là tuyên ngôn vang dội cho học thuyết nước Anh Tin Lành là “quốc gia được lựa chọn” của Chúa, đứng cao hơn những tín đồ theo Giáo hoàng của Lục địa châu Âu, và hoàn toàn độc lập với mọi quyền lực khác ngoại trừ quyền của Hoàng gia… Đó là học thuyết về Anh quốc và sau này về tính quốc gia Liên hiệp Anh, tồn tại kể từ đó cho đến những năm 1970, khi việc trở thành thành viên của Cộng đồng châu Âu một lần nữa đặt đất nước này dưới quyền quyết định của một thế lực ngoại bang15.

Tư tưởng ly khai này được hun đúc bởi chiến thắng của quốc gia trước Hạm đội Tây Ban Nha, và bởi đấu tranh chính trị xung quanh cuộc Nội chiến thiết lập quyền lực của Quốc hội vào thế kỷ 17. Chủ quyền khó đạt được đó không dễ gì bị từ bỏ: nếu ai đó lắng nghe lập luận của những người ủng hộ Brexit, thì châu Âu vẫn đang bị nô dịch, lần này không phải dưới quyền một vị Giáo hoàng hay hoàng đế, mà là Liên minh châu Âu.

Bản sắc dân tộc ở châu Âu ngày nay, nói một cách nhẹ nhàng, là đầy hỗn loạn. Những người khởi xướng Liên minh châu Âu không thành công trong việc tạo ra ý thức mạnh mẽ về bản sắc châu Âu để thay thế bản sắc của quốc gia thành viên. Bản sắc dân tộc đó có tính lâu bền và biến đổi rất lớn so với nhau, từ bản sắc tương đối cởi mở cho phép chấp nhận cộng đồng dân cư đa dạng, như trường hợp của Pháp, cho đến bản sắc cố tình tạo ra rào cản đối với quá trình hòa nhập của người nhập cư, ví dụ như Hungary. Khu vực châu Âu không bị đe dọa bởi dân nhập cư nhiều như bởi phản ứng chính trị bắt nguồn từ người nhập cư và đa dạng văn hóa. Những bóng ma chống người nhập cư, chống Liên minh châu Âu trỗi dậy thường có tính phi tự do sâu sắc và có khả năng hủy hoại trật tự chính trị cởi mở, vốn đang là nền tảng cho sự thịnh vượng của khu vực. Xử lý phản ứng này không phụ thuộc vào việc chối bỏ chính bản sắc, mà phụ thuộc vào sự định hình có chủ ý các bản sắc dân tộc theo cách giúp đẩy mạnh ý thức về cộng đồng cởi mở và dân chủ.

So với phần lớn các quốc gia châu Âu, Hoa Kỳ có kinh nghiệm dài lâu hơn với vấn đề nhập cư và phát triển một bản sắc dân tộc phù hợp hơn với người nhập cư đang trong quá trình hòa nhập. Những bản sắc này là sản phẩm của cuộc đấu tranh chính trị trong thời gian dài và thậm chí đến ngày hôm nay vẫn chưa ngã ngũ. Nó cũng được một số người bàn cãi gay gắt kể từ khi Donald Trump được bầu làm tổng thống năm 2016.

Trump xây dựng chiến dịch của mình xung quanh sự phản đối vấn đề nhập cư, đặc biệt những người đến từ Mexico và thế giới Hồi giáo. Giống như những người chống nhập cư ở châu Âu, nhiều người ủng hộ Trump xác nhận họ muốn”giành lại đất nước của ta”, một yêu sách ngụ ý rằng đất nước họ bị đánh cắp theo nghĩa nào đó. Cuộc biểu tình “Đoàn kết Cánh hữu” ở Charlottesville vào tháng Tám năm 2017, hội tụ các nhóm tân phát-xít và phân biệt chủng tộc hát vang “máu và đất”, và thắp sáng bằng đèn pin với chủ ý gợi nhớ về Chủ nghĩa Quốc xã. Đáp lại cuộc biểu tình, thượng nghị sỹ Cộng hòa Ben Sasse đăng lên Twitter, “Những con người này rõ ràng là đang nổi loạn - và không có hiểu biết gì về nước Mỹ. Quốc gia tuyên tín này dứt khoát cự tuyệt chủ nghĩa dân tộc ‘máu và đất’.”16

Sasse cho rằng Hoa Kỳ là quốc gia tuyên tín. Quan điểm này rất đáng được ca ngợi, đặc biệt khi đối mặt với vị tổng thống đường như đồng tình với nhiều cảm tính xấu xa phô bày tại cuộc biểu tình, cũng như với sự hèn nhát rõ ràng của các chính trị gia Cộng hòa khác khi họ thất bại trong việc chỉ trích tổng thống. Nhưng bản sắc quốc gia Mỹ đã phát triển trong nhiều năm; một bản sắc tuyên tín nổi lên sau nhiều thập niên đấu tranh chính trị và không được tất cả người Mỹ ngày nay chấp nhận.

Trong Tiểu luận Liên bang số 2, John Jay mở ra cuộc tranh luận về bản Hiến pháp Mỹ được đề xuất bằng những lời lẽ sau:

Thượng đế sẵn lòng ban quốc gia đoàn kết này cho một dân tộc đoàn kết dân tộc có chung tổ tiên, nói chung ngôn ngữ, theo chung tôn giáo, gắn bó với nguyên tắc chung về chính phủ, rất giống nhau cả về hành vi và tập quán, và là dân tộc, nhờ vào sự liên kết ý chí, vũ khí, và nỗ lực, sát cánh chiến đấu trong cuộc chiến dai dẳng và đẫm máu, thiết lập một cách cao quý nền độc lập và tự do chung.

Hãy để ý định nghĩa của Jay về bản sắc Mỹ cụ thể và hẹp đến mức nào. Nó dựa trên tôn giáo chung (Tin Lành), sắc tộc chung (có tổ tiên là người Anh), ngôn ngữ chung (tiếng Anh), và niềm tin vào giá trị cộng hòa chung của chính phủ. Ngay cả Thomas Paine, được coi là nhân vật cực tả vào thời kỳ Cách mạng Mỹ, chỉ nhận tình huynh đệ với “mọi Kitô hữu châu Âu”. Thomas Jefferson ngờ rằng ông có chung dòng máu với “người Scotland” và lo lắng về người nhập cư vào Hoa Kỳ từ những khu vực không phù hợp của châu Âu, những người sẽ mang đến “nguyên tắc của chính phủ mà họ từ bỏ, vốn được tiêm nhiễm từ thuở họ còn trẻ; hay, nếu họ có thể vứt bỏ chúng, thì sẽ để đổi lấy sự bừa bãi không giới hạn”17.

Jefferson không phải là nhân vật lịch sử duy nhất lo lắng rằng nhân cách Mỹ bị tha hóa khi chấp nhận những người nhập cư không phù hợp. Việc lượng lớn người Công giáo Ireland cập cảng vào những năm 1840 kích động phản ứng của người theo chủ nghĩa bản địa, những người lo sợ tác động của “Giáo hội La Mã” và thói nghiện rượu, nỗi sợ mà sau cùng dẫn đến việc thông qua Tu chính án thứ Mười Tám về Cấm Rượu vào năm 1917. Giới tinh hoa Tin Lành gốc Anglo-Saxon của đất nước đôi lúc sợ hãi người Đức nhập cư, vốn có thể mang thiên hướng chuyên chế của họ vào Hoa Kỳ. Nỗi sợ này đạt đỉnh điểm sau khi đất nước này tham gia Thế chiến I, khi người Mỹ gốc Đức phải tìm cách che giấu di sản dân tộc của họ. Điều tương tự cũng đúng với hàng triệu người Nam và Đông Âu đổ đến trong làn sóng nhập cư khổng lồ khởi đầu từ những năm 1880 và kéo dài đến tận khi thông qua Đạo luật Johnson-Reed năm 1924, giới hạn quyền nhập cảnh vào Hoa Kỳ dựa trên xuất xứ quốc gia.

Tôn giáo và chủng tộc, nói cách khác, là cấu phần chủ yếu của cách người Mỹ nghĩ về bản thân họ. Những câu chuyện tuyên tín cũng có gốc rễ lịch sử sâu xa tương ứng, vốn đi ngược lại với quan điểm nói trên. J. Hector St. John de Crèvecœur, người nhập cư gốc Pháp, viết vào những năm 1780 rằng Mỹ là “nơi trú ẩn của tự do, như là cái nôi của các dân tộc tương lai, và là chốn nương náu của những người châu Âu gặp hoạn nạn” nơi mà “mọi giáo phái cũng như mọi dân tộc được hòa trộn”. George Washington mô tả quan niệm chính trị về một Hoa Kỳ tương lai như là nơi “mở cửa đón nhận không chỉ kẻ giàu sang và người Ngoại quốc đáng kính, mà cả những kẻ bị áp bức và ngược đãi thuộc mọi Dân tộc và Tôn giáo”. Cả Thomas Paine, vốn chỉ có thể hình dung tình huynh đệ với những người Kitô giáo ở một nơi khác, đã nhìn nhận Hoa Kỳ được hình thành “bởi những người thuộc những dân tộc khác nhau, nói những ngôn ngữ khác nhau, nhưng vì thế “bằng hoạt động đơn giản là xây dựng chính phủ trên nguyên tắc xã hội và Quyền Con người, mọi khó khăn đều biến mất và mọi cấu phần trở nên đồng thuận hòa hảo”18. Những cảm nghĩ này làm cơ sở cho khẩu hiệu tô điểm Đại Ấn Hoa Kỳ (Great Seal of the United States): Novus ordo seclorum (Trật tự mới của thời đại) và E pluribus unum (Một, từ đa số).

Nội chiến Mỹ có cội nguồn là cuộc chiến vì bản sắc dân tộc Mỹ. Các bang miền Nam công khai gắn bản sắc với chủng tộc bằng cách không công nhận quyền công dân của những người không phải da trắng. Họ dựa vào nguyên lý nền tảng của Hiến pháp, giống như Stephen Douglas đã làm, để lập luận rằng số đông dân chủ ở mỗi tiểu bang có quyền bỏ phiếu thuận hoặc chống chế độ nô lệ như họ mong muốn, và chính quyền liên bang không có quyền can thiệp vào lựa chọn này. Ngược lại, Abraham Lincoln kêu gọi không dựa trên Hiến pháp mà trên Tuyên ngôn Độc lập, theo đó khẳng định “tất cả mọi người sinh ra đều bình đẳng”. Trong cuộc tranh luận của mình với Douglas, Lincoln cho rằng nguyên tắc bình đẳng vượt trên quyền của các bang; số đông dân chủ ở mỗi tiểu bang không thể bỏ qua quyền cơ bản của người dân sống ở đó. Trong khi Lincoln đưa đất nước mình vào cuộc chiến với lập luận đang bảo vệ Liên hiệp miền Bắc, ông hiểu từ đầu rằng vấn đề thực sự là chế độ nô lệ và mối họa mà nó đại diện đối với nguyên tắc nền tảng về quyền bình đẳng19. Khái niệm rộng hơn này về bản sắc là “sự ra đời tự do” mà ông nhắc đến trong Diễn văn Gettysburg20.

Việc miền Nam thất trận trong Nội chiến mở rộng nhận thức về dân tộc Mỹ thông qua Tu chính án thứ Mười Ba , với nội dung xóa bỏ chế độ nô lệ; Tu chính án thứ Mười Bốn , định nghĩa quyền công dân bao gồm tất cả những ai sinh ra hoặc nhập quốc tịch trên lãnh thổ Hoa Kỳ (nguyên tắc jus soli ), và trao cho họ quyền bình đẳng dựa trên quá trình đó; và Tu chính án thứ Mười Lăm , cấm việc chối bỏ quyền bầu cử dựa trên chủng tộc, màu da, hoặc điều kiện phục vụ trước đây. Đáng xấu hổ thay, những gì các tu chính án này hứa hẹn chỉ được thực hiện trong thời kỳ quyền dân sự một trăm năm sau đó, và thậm chí đến ngày nay chúng vẫn bị đe dọa bởi những biện pháp tìm cách giới hạn quyền lực của cử tri thiểu số. Dẫu vậy, nguyên tắc về bản sắc dân tộc không dựa trên chủng tộc được trình bày rõ ràng, cũng như quyền lực của chính quyền liên bang trong việc thực thi quyền cơ bản của người Mỹ. Nó trở thành một phần của cách mà người Mỹ nghĩ về bản thân mình.

Đến giữa thế kỷ 20, sự đa dạng trên thực tế của Hoa Kỳ khiến việc định nghĩa tính dân tộc Mỹ bằng thuật ngữ tôn giáo hay sắc tộc hầu như là không thể. Theo sau làn sóng nhập cư khổng lồ đầu thế kỷ 20, tỉ lệ người Mỹ là người được sinh ra ở nước ngoài lên đến 15% toàn bộ dân số. Quá nhiều người trong số đó và con cái của họ nằm ngoài cách phân loại truyền thống dựa trên tôn giáo hay sắc tộc để các chính trị gia có thể phát biểu về Hoa Kỳ như là một quốc gia “Kitô giáo” hoặc “Anglo-Saxon” như họ từng làm. Trong bốn đặc điểm của John Jay về tính dân tộc - chung tôn giáo, chung sắc tộc, chung ngôn ngữ, và chung cam kết với nguyên tắc chính phủ phổ biến - chỉ hai đặc điểm sau, ngôn ngữ và sự cống hiến chung dành cho chính phủ dân chủ, còn tồn tại21. Điều này đại diện cho khái niệm “tuyên tín” về bản sắc Mỹ được thượng nghị sỹ Sasse nhắc tới.

Quan niệm tuyến tín về bản sắc Mỹ xuất hiện là kết quả của cuộc đấu tranh kéo dài gần hai thế kỷ và đại diện cho sự tuyệt giao mang tính quyết định với phiên bản bản sắc trước đó dựa trên chủng tộc, sắc tộc, hay tôn giáo. Người Mỹ có thể tự hào về bản sắc rất đặc biệt này; nó dựa trên niềm tin vào nguyên tắc chính trị chung về hiến pháp, pháp quyền, trách nhiệm dân chủ, và nguyên tắc “tất cả mọi người sinh ra đều bình đẳng” (giờ được hiểu bao gồm tất cả phụ nữ). Ý tưởng chính trị này xuất phát trực tiếp từ thời kỳ Khai sáng và là cơ sở khả thi duy nhất để đoàn kết nền dân chủ tự do hiện đại mà bản thân nó trở nên đa văn hóa trên thực tế.

Loại hình chính trị bản sắc ngày càng được thực hành nhiều hơn bởi cả cánh tả và cánh hữu có vấn đề lớn, bởi lẽ nó quay trở lại với khái niệm về bản sắc dựa trên đặc điểm cố định, chẳng hạn như chủng tộc, sắc tộc, và tôn giáo, những thứ trước đó bị xóa bỏ với cái giá phải trả rất lớn.

Về phía cánh tả, những người đề xuất nền chính trị bản sắc hẹp khẳng định rằng bản sắc Mỹ chính là sự đa dạng của nó, hay chúng ta bằng cách nào đó đoàn kết nhờ vào sự đa dạng của mình. Những người khác thì lập luận rằng Hoa Kỳ quá đa dạng để có thể có bản sắc dân tộc, và chúng ta không nên lo lắng về nó cách này hay cách khác. Khi xét đến khái niệm dân túy về bản sắc mới nổi lên gần đây, dễ hiểu tại sao người ta lui về với bản sắc như một đức hạnh. Tuyên bố rằng Hoa Kỳ là xã hội đa dạng là đúng đắn. Nhưng bản thân tính đa dạng không thể là cơ sở cho bản sắc giống như khi nói rằng bản sắc của chúng ta là không có bản sắc, hoặc đúng hơn, rằng ta nên làm quen với việc chúng ta không có điểm gì chung và thay vào đó nhấn mạnh bản sắc chủng tộc hoặc sắc tộc hẹp của mình.

Phía cánh hữu, một số người thoái lui về phiên bản cũ hơn của bản sắc dựa trên chủng tộc và tôn giáo. Cựu ứng cử viên phó tổng thống Đảng Cộng hòa, Sarah Palin, từng phân loại “người Mỹ thực thụ” là người sống ở các thị trấn nhỏ và vùng nông thôn, với chủ ý loại bỏ dân cư đa dạng của các thành phố Mỹ Donald Trump đưa quan điểm này lên tầm cao mới, bằng cách gợi lên hình thái xấu xí của chủ nghĩa dân tộc dân túy mà bản thân nó tái khẳng định khái niệm về sắc tộc hoặc tôn giáo của đất nước. Như ông ta phát biểu trong một cuộc mít-tinh tranh cử năm 2016, “Thứ duy nhất quan trọng là sự thống nhất dân tộc” bởi “những người còn lại không có nghĩa lý gì.”22 Điều này thực tế ngụ ý “dân tộc thực thụ” trục xuất hoặc dùng vũ lực loại bỏ “những người còn lại” khỏi đời sống công dân - đây không phải là công thức cho đoàn kết dân tộc, mà để tạo ra nội chiến.

Nhiều nhà lý luận về dân chủ hiện đại lập luận rằng chấp nhận thụ động về tuyên tín dân chủ là không đủ để khiến hệ thống đó hoạt động. Nền dân chủ cần có phẩm chất tích cực nhất định cả từ phía công dân. Đặc biệt, Alexis de Tocqueville cảnh báo về việc người dân thuộc xã hội dân chủ bị cám dỗ trở nên ích kỷ và chỉ bận tâm đến phúc lợi dành riêng cho họ và gia đình. Nền dân chủ thành công, theo ông, cần có công dân ái quốc, có thông tin, năng động, có tinh thần cộng đồng, và sẵn lòng tham gia vào vấn đề chính trị. Trong kỷ nguyên phân cực hóa này, ta có thể thêm rằng họ cần phải có đầu óc cởi mở, chấp nhận quan điểm khác, và sẵn sàng thỏa hiệp quan điểm của mình vì mục đích đồng thuận dân chủ.

Samuel Huntington là một trong những nhà tư tưởng chính trị đương đại lập luận rằng thành công của Hoa Kỳ dưới danh nghĩa quốc gia phụ thuộc vào không chỉ khái niệm tuyên tín tối thiểu về bản sắc, mà còn về chuẩn mực và phẩm chất văn hóa nhất định. Trong cuốn sách cuối cùng của mình, Chúng ta là ai? (Who Are We?), ông đặt ra câu hỏi nổi tiếng: “Liệu nước Mỹ có là nước Mỹ ngày nay nếu trong thế kỷ 18 và 19 nó được khai phá không phải bởi người Tin Lành gốc Anh, mà bởi người Công giáo Pháp, Tây Ban Nha, hay Bồ Đào Nha? Câu trả lời là không. Nó sẽ không còn là nước Mỹ, nó sẽ là Quebec, Mexico, hoặc Brazil”23. Ông nói về cái mà ông gọi là văn hóa Anh-Tin Lành như một cấu phần cần thiết của bản sắc Mỹ, nền văn hóa được xây dựng dựa trên đạo đức lao động mang tính Tin Lành.

Huntington bị lên án là người phân biệt chủng tộc và, gần đây hơn, là tiền thân trong giới học thuật của Donald Trump24. Tuy nhiên, cách hiểu đúng đắn hơn về lập luận của Huntington đã gỡ bỏ cáo buộc về ông đối với phân biệt chủng tộc, kể cả khi ta bất đồng với khuyến nghị chính sách của ông đối với vấn đề nhập cư.

Huntington không lập luận về khái niệm Anh-Tin Lành của bản sắc Mỹ nếu điều đó có nghĩa là chỉ những người Tin Lành gốc Anglo-Saxon mới đủ tư cách để được coi là người Mỹ. Thay vào đó, ông cho rằng những người Anh-Tin Lành đến Hoa Kỳ định cư mang theo nền văn hóa có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển tiếp sau đó của đất nước để trở thành nền dân chủ. Yếu tố văn hóa của những người tham gia mới là quan trọng, chứ không phải bản sắc sắc tộc hay tôn giáo. Quan điểm của ông, theo tôi, là đúng đắn đến mức không thể phủ nhận.

Một trong những yếu tố của nền văn hóa mà Huntington nhấn mạnh là đạo đức lao động “Tin Lành”. Dựa trên thực nghiệm, người Mỹ quả thật làm việc chăm chỉ hơn nhiều dân tộc khác trên thế giới - không chăm chỉ bằng nhiều dân tộc châu Á, nhưng chắc chắn hơn phần lớn dân châu Âu25. Nguồn gốc lịch sử của đạo đức lao động này có thể thực sự nằm ở tính Thanh giáo của những người đầu tiên đến đây lập nghiệp, nhưng ngày nay, ở Hoa Kỳ còn ai làm việc chăm chỉ? Việc là chủ cửa hàng tạp hóa Hàn Quốc hay lái xe taxi Ethiopia hay người làm vườn Mexico cũng có khả năng giống như người có nguồn gốc Anh-Tin Lành sống dựa vào cổ tức trong các câu lạc bộ giải trí của họ. Trong khi chúng ta có thể công nhận gốc rễ lịch sử của nền văn hóa này, ta cũng cần thừa nhận nó bị tách rời khỏi nguồn gốc sắc tộc-tôn giáo đặc biệt của mình để trở thành đặc tính chung của mọi người dân Mỹ.

Huntington, theo tôi, đã sai khi sợ rằng cuối cùng người nhập cư Mexico sẽ không đón nhận giá trị và thói quen Anh-Tin Lành. Trên thực nghiệm, nỗi lo này dường như bị thổi phồng. Ông có lý hơn khi sợ rằng cách hiểu đương đại về chủ nghĩa đa văn hóa và chính trị bản sắc dựng lên rào cản không cần thiết đối với quá trình hòa nhập, điều vốn không tồn tại với thế hệ người nhập cư trước đây.

Câu hỏi đặt ra không phải là liệu người Mỹ có nên quay về với khái niệm bản sắc dựa trên sắc tộc và tôn giáo. Số phận hiện thời của Hoa Kỳ - và của bất kỳ nền dân chủ đa văn hóa nào muốn tồn tại - là trở thành quốc gia tuyên tín. Nhưng nó cũng đòi hỏi hiểu biết về phẩm chất, không bó buộc vào nhóm nhất định nào, cần thiết để nền dân chủ hiệu quả. Trong khi việc kết nối bản sắc với chủng tộc, sắc tộc, hay tôn giáo ngày nay là sai trái, sẽ đúng đắn khi nói rằng bản sắc quốc gia trong nền dân chủ vận hành hiệu quả sẽ đòi hỏi thứ gì đó lớn hơn sự chấp nhận thụ động một tuyến tín. Nó đòi hỏi quyền công dân và việc thực thi những phẩm chất nhất định. Một bản sắc tuyên tín là cần thiết, nhưng không phải là điều kiện đủ dẫn tới thành công.

Lập luận này được nêu ra trong Sunil Khilnani, The Idea of India (New York: Farrar, Straus and Giroux, 1998).↩︎

Câu chuyện này được kể trong Fukuyama, Political Order and Political Decay , 322-334.↩︎

Mục này dựa trên bài giảng Latsis của tôi “European Identity Challenges”.↩︎

Lý thuyết cho quan điểm này được phác thảo bởi Jürgen Habermas; xem Habermas, The Postnational Constellation: Political Essays (Cambridge, Massachusetts: MIT Press, 2001); “Citizenship and National Identity: Some Reflections on the Future of Europe”, Praxis International 12 (1) (1993): 1-19, và những tài liệu khác. Xem thêm Chia Nodia, “The End of the Postnational Illusion”, Journal of Democracy 28 (2017): 5-19.↩︎

Về bản sắc dân tộc trong Liên minh châu Âu, xem Kathleen R. McNamara, The Politics of Everyday Europe: Constructing Authority in the European Union (Oxford: Oxford University Press, 2015).↩︎

T. Alexander Aleinikoff và Douglas B. Klusmeyer, eds, From Migrants to Citizens: Membership in a Changing World (Washington, DC: Carnegie Endowment for International Peace, 2000), 1-21; Gerhard Casper, “The Concept of National Citizenship in the Contemporary World: Identity or Volition?” (Hamburg, Đức: Bucerius Law School, 2008).↩︎

Aleinikoff và Klusmeyer, From Migrants to Citizens , 32-118.↩︎

Rogers Brubaker, Citizenship and Nationhood in France and Germany (Cambridge, MA: Harvard University Press, 1992).↩︎

Marc Morje Howard, The Politics of Citizenship in Europe (New York: Cambridge University Press, 2009), 119-34; Nergis Canefe, “Citizens v. Permanent Guests: Cultural Memory and Citizenship Laws in a Reunified Germany”, Citizenship Studies 2 (3) (1998): 519-544.↩︎

Chikako Kashiwazaki, “Citizenship in Japan: Legal Practice and Contemporary Development”, trong Aleinikoff và Klusmeyer, From Migrants to Citizens .↩︎

Sara W. Goodman, “Fortifying Citizenship: Policy Strategies for Civic Integration in Western Europe”, World Politics 64 (4) (2012): 659-698; Robert Leiken, Europe’s Angry Muslims: The Revolt of the Second Generation , repr. ed. (Oxford: Oxford University Press, 2015). Một số kết luận của ông dường như nay đã lạc hậu khi xét đến những cuộc tấn công khủng bố gần đây tại Pháp.↩︎

“Discussion Guide for the Naturalization Authorities-Status 01.09.2005”, Country Commissioner for Data Protection Baden-Württemberg. 01 tháng Chín, 2005, https://www.baden-wuerttemberg.datenschutz.de/gesprachsleitfaden-furdie-einburgerungsbehorden-stand-01-09-2005/. Xem thêm Simon McMahon, Developments in the Theory and Practice of Citizenship (Newcastle upon Tyne, Anh.: Cambridge Scholars, 2012), 29ff.↩︎

Về bằng chứng thực nghiệm về định kiến mà người Hồi giáo Pháp phải đối diện, xem David Laitin, Claire L. Adida, và Marie-Anne Valfort, Why Muslim Integration Fails in Christian Heritage Societies (Cambridge, MA: Harvard University Press, 2016).↩︎

Về lịch sử của đảng UKIP xem Robert Ford và Matthew Goodwin, Revolt on the Right: Explaining Support for the Radical Right in Britain (London: Routledge, 2014).↩︎

Alan G. R. Smith, The Emergence of a Nation-State: The Commonwealth of England, 1529-1660 (London: Longman, 1984), 89.↩︎

Đăng trên Twitter ngày 12 tháng Tám, 2017.↩︎

Trích dẫn trong Smith, Political Peoplehood , 150, 152.↩︎

Ibid. Paine trích dẫn trong Gerhard Casper, “Forswearing Allegiance”, trong Jahrbuch des öffentlichen Rechts der Gegenwart , ed. Peter Häberle (Tübingen, Đức: Mohr Siebeck, 2013), 703.↩︎

Như Lincoln phát biểu trong diễn văn nhậm chức lần hai của mình, “Một phần tám toàn bộ dân số là nô lệ da màu, không được phân bổ đều khắp Liên hiệp, mà tập trung ở khu vực phía nam. Những người nô lệ này tạo thành lợi ích đặc biệt và mạnh mẽ. Mọi người đều biết lợi ích này, bằng cách nào đó, là nguyên nhân của cuộc chiến”.↩︎

Xem Ramon Lopez, “Answering the Alt-Right”, National Affairs 33 (2017): www.nationalaffairs.com/publications/detail/answering-the-alt-right.↩︎

Tiếng Anh tiếp tục là đặc điểm kết nối quan trọng của bản sắc Mỹ, cũng là lý do vì sao các chương trình song ngữ và đa ngữ trong trường công bị chỉ trích.↩︎

William A. Galston, Anti-Pluralism: The Populist Threat to Liberal Democracy (New Haven, Connecticut: Yale University Press, 2018), 39.↩︎

Samuel P. Huntington, Who Are We? The Challenges to America’s National Identity (New York: Simon and Schuster, 2004), 59.↩︎

Xem thêm ví dụ trong Carlos Lazada, “Samuel Huntington, a Prophet for the Trump Era”, Washington Post , 18 tháng Bảy, 2017.↩︎

Theo OECD, người Mỹ làm việc trung bình 34,29 giờ mỗi tuần, so với trung bình 33,23 giờ tại Liên minh châu Âu, và 39,79 giờ tại Hàn Quốc. Tuy nhiên, những con số trung bình này bao gồm cả nhân công bán thời gian, vốn có số lượng nhiều hơn một cách bất cân xứng tại Hoa Kỳ; số giờ làm trung bình tuần cho nhân công toàn thời gian tại Mỹ là 47. Xem OECD (2018), Hours worked (indicator). DOI: 10.1787/47belc78-en (truy cập 14 tháng Hai, 2018).↩︎