← Quay lại trang sách

- 1 - Nguyên tác: The other hand

Tôi thường ước gì mình là đồng một bảng Anh chứ không phải là một đứa con gái châu Phi. Mọi người sẽ mừng vui khi thấy tôi xuất hiện. Có thể tôi sẽ đến với bạn vào cuối tuần và rồi đột nhiên sau đó, tôi sẽ đến thăm người đàn ông ở cửa hàng góc phố, vì tôi vốn rày đây mai đó - nhưng bạn sẽ chẳng buồn đâu, vì bạn còn bận chén bánh quế, hoặc nhâm nhi một lon Coca Cola mát lạnh, và bạn sẽ chẳng bao giờ nghĩ đến tôi nữa. Chúng ta sẽ vui vẻ, như những tình nhân gặp nhau trong kì nghỉ lễ rồi chóng quên tên nhau.

Đồng một bảng sẽ tha hồ đi đến những nơi mà nó nghĩ là an toàn nhất. Nó có thể băng sa mạc, vượt đại dương, bỏ tiếng súng đạn và mùi mái tranh cháy khét lại sau lưng. Khi cảm thấy đã ấm áp và an toàn rồi, nó sẽ quay lại mỉm cười với bạn, như cách mà chị Nkiruka của tôi vẫn hay mỉm cười với những người đàn ông trong làng chúng tôi vào mùa hè ngắn ngủi sau khi chị vẫn còn là một cô bé nhưng trước khi chị thực sự trở thành đàn bà, và dĩ nhiên là trước buổi tối mẹ đưa chị đến một nơi vắng vẻ để nói chuyện nghiêm túc.

Dĩ nhiên đồng một bảng cũng biết nghiêm túc. Nó có thể ngụy trang thành quyền lực, hoặc của cải, và chẳng có gì nghiêm túc hơn khi bạn là một cô gái không có cả hai thứ đó. Bạn phải cố tóm lấy đồng một bảng, nhốt nó vào trong túi, để nó không thể đến được một đất nước an toàn trừ khi nó đưa bạn đi cùng. Nhưng đồng một bảng có lắm mưu ma chước quỷ của thầy phù thủy. Khi đuổi theo, tôi đã thấy nó tự làm đứt đuôi như con thằn lằn để bạn chỉ còn nắm trong tay một xu mà thôi. Và khi cuối cùng bạn cũng tóm được nó, đồng một bảng Anh có thể biểu diễn trò ảo thuật phi thường nhất, biến nó thành không phải một mà hai tờ đô la Mỹ màu xanh. Các ngón tay bạn sẽ chỉ nắm được không khí mà thôi, tôi đảm bảo là vậy.

Sao mà tôi thiết tha muốn được làm đồng một bảng Anh đến thế. Đồng một bảng được tự do đi đến chốn an toàn, và chúng ta được tự do nhìn nó ra đi. Đây là thắng lợi của nhân loại. Đây được gọi là toàn cầu hóa. Một đứa con gái như tôi bị chặn lại ở quầy nhập cảnh, trong khi đồng một bảng lại có thể phóng qua cửa quay, thoát được sự truy cản của những người đàn ông to lớn đội mũ đồng phục, rồi nhảy thẳng vào một chiếc taxi đang đón khách ở sân bay. Đến đâu, thưa ngài? Văn minh phương Tây, anh bạn ạ, và lái cho thật nhanh vào.

Thấy đồng một bảng Anh nói chuyện lịch sự khiếp chưa? Nó nói bằng giọng của Nữ hoàng Elizabeth Đệ nhị của nước Anh. Khuôn mặt bà được đóng dấu trên nó, và thỉnh thoảng khi nhìn thật kĩ, tôi có thể thấy đôi môi bà ta mấp máy. Tôi đưa bà đến sát tai mình. Bà ta nói gì? Đặt ta xuống ngay nào, cô gái, nếu không ta sẽ gọi lính gác.

Nếu Nữ hoàng nói chuyện với bạn bằng giọng như thế, bạn nghĩ mình có thể bất tuân mệnh lệnh được không? Tôi đã đọc rằng những người ở xung quanh bà – cả Đức vua và Thủ tướng – đều thấy cơ thể họ phản ứng với các mệnh lệnh của Nữ hoàng trước cả khi não họ nghĩ đến chuyện tại sao lại không phục tùng. Để tôi nói cho bạn biết, phản ứng này không phải do vương miện và quyền trượng gây ra đâu. Nếu là tôi, tôi có thể gắn một chiếc vương miện lên mái tóc ngắn xoăn tít của mình và cầm quyền trượng trong tay, như thế này, mà cảnh sát mang giày to tướng vẫn bước về phía tôi rồi nói, Chúng tôi rất thích bộ trang phục, thưa cô, nhưng giờ thì làm ơn cho xem qua chứng minh thư của cô, nhé? Không, thứ nắm quyền thống trị trên xứ sở của bạn không phải là vương miện và quyền trượng của Nữ hoàng. Thứ ấy chính là văn phạm và giọng nói của bà. Vì thế mà nói chuyện như bà là một điều đáng khao khát. Bằng cách đó bạn có thể nói với những sĩ quan cảnh sát, với một giọng trong như kim cương Cullinan, Chúa ơi, sao ngươi dám?

Tôi sống sót được là nhờ học tiếng Anh của Nữ hoàng. Có thể bạn đang nghĩ, thế thì có gì khó. Nói gì đi nữa, tiếng Anh cũng là ngôn ngữ chính thức ở Nigeria, quê hương tôi cơ mà. Đúng, nhưng vấn đề là ở quê nhà, chúng tôi nói hay hơn các bạn nhiều. Để nói chuyện bằng tiếng Anh của Nữ hoàng, tôi phải quên hết những mánh khóe hay nhất trong tiếng mẹ đẻ của mình. Chẳng hạn, Nữ hoàng không thể nào nói, Rõ phiền phức, con ả đó chỉ giỏi õng ẹo mới dụ được đứa con trai “đỉnh” nhất của bà đính hôn với nó, mà ai nhìn cũng thấy nó sớm muộn gì cũng làm tan nhà nát cửa cái gia đình này thôi. Thay vào đó, Nữ hoàng phải nói, Cô công nương mới của ta đã dùng sự duyên dáng nữ tính của mình để được đính hôn với hoàng tử con trai ta, và người nào cũng có thể nhận ra rằng chuyện sẽ không kết thúc có hậu. Thật là đáng buồn, phải không? Học tiếng Anh của Nữ hoàng cũng giống như tẩy lớp sơn đỏ tươi trên móng chân bạn vào buổi sáng sau đêm khiêu vũ. Mất rất lâu và lúc nào cũng còn sót lại tí chút, một vết màu đỏ cạnh khóe móng để nhắc bạn nhớ về khoảng thời gian vui vẻ mình đã có. Vì thế, bạn có thể thấy rằng tôi học hành rất chậm chạp. Mặt khác, tôi có khối thời gian. Tôi học ngôn ngữ của bạn tại một trại nhập cư, ở Essex, vùng đông nam Vương quốc Anh. Hai năm, họ đã nhốt tôi trong đấy. Thời gian là tất cả những gì tôi có.

Nhưng hà cớ gì tôi lại chuốc phiền phức vào người? Đó là vì điều mà một số đứa con gái lớn hơn giải thích với tôi: để sống sót, bạn phải biết chưng diện và mồm mép.

Những đứa giản dị và những đứa kiệm lời, hình như giấy tờ của chúng chẳng bao giờ được giải quyết. Nói theo cách của bạn là chúng nó bị cho hồi hương. Nói theo cách của chúng tôi là bị tống về nhà sớm. Như thể đất nước của bạn là một buổi tiệc cho thiếu nhi – một điều quá tuyệt vời không thể kéo dài mãi mãi. Nhưng những đứa xinh đẹp và những đứa mồm mép, thì được phép ở lại. Theo cách này đất nước của bạn trở nên sống động và đẹp đẽ hơn.

Tôi sẽ kể với bạn chuyện gì đã xảy ra khi họ thả tôi khỏi trại nhập cư. Nhân viên trại giam đặt một tấm phiếu lên tay tôi, một phiếu đi xe, và nói tôi có thể gọi điện kêu taxi. Tôi đáp, Cảm ơn ông, cầu Chúa phù hộ cho ông, đem niềm vui đến trái tim ông và thịnh vượng đến những người thân của ông. Nhân viên đó đưa mắt nhìn trần nhà, như thể trên đấy có gì thú vị lắm, rồi nói, Chúa ơi. Rồi ông ta chỉ tay về phía hành lang và nói, Điện thoại ở đằng kia.

Vậy là tôi xếp hàng để gọi điện thoại. Tôi nghĩ mình đã quá khách sáo khi cám ơn nhân viên trại giam. Nữ hoàng hẳn sẽ chỉ nói Cảm ơn, rồi thôi. Thật ra, Nữ hoàng có lẽ sẽ bảo người nhân viên đó đi mà gọi taxi, bằng không sẽ lệnh cho người xử bắn ông ta rồi bêu đầu ở hàng rào chắn trước Pháo đài Tháp London. Tôi nhận ra, ngay lúc đó, rằng học tiếng Anh của Nữ hoàng từ sách báo trong phòng giam là một chuyện, còn thực sự nói ngôn ngữ đó bằng tiếng Anh lại là chuyện khác. Tôi giận mình ghê gớm. Tôi tự nhủ, Mày không thể phạm những sai lầm như thế, nhỏ ạ. Nếu mày nói chuyện như một kẻ man di học tiếng Anh ở trên tàu, thì bọn họ sẽ tìm ra mày và tống thẳng về nhà. Tôi đã nghĩ như thế đấy.

Có ba cô gái xếp hàng trước tôi. Ngày hôm ấy họ thả một lúc bốn người chúng tôi. Hôm đó là thứ Sáu. Đó là một buổi sáng tháng Năm rực rỡ đầy nắng. Hành lang rất bẩn nhưng có mùi sạch sẽ. Đó là một mẹo hay. Chất tẩy rửa, là cách họ làm được việc đó.

Nhân viên trại giam ngồi sau bàn làm việc, chẳng thèm đếm xỉa đến chúng tôi. Ông ta đang đọc tờ báo trải rộng trên bàn. Nó không phải là một trong những tờ báo mà tôi thường đọc để học ngôn ngữ của bạn – The Times hoặc Telegraph hoặc Guardian. Không, tờ báo này không dành cho những người như bạn và tôi. Có một cô gái da trắng trong bức ảnh của tờ báo, cô ta trống phần trên. Chắc bạn hiểu tôi muốn nói gì rồi, vì chúng ta đang nói bằng ngôn ngữ của bạn mà. Nhưng nếu tôi kể chuyện này với chị Nkiruka của tôi và những đứa con gái cùng làng ở quê nhà, thì tôi sẽ phải dừng lại, ngay chỗ này, và giải thích với chúng: trống phần trên không có nghĩa là cô gái trong báo không có nửa thân trên. Nó nghĩa là cô ta không mặc bất kì trang phục nào ở nửa thân trên cả. Bạn thấy sự khác nhau chưa?

“Gượm đã. Cả xu chiêng cũng không mặc à?”

“Cả xu chiêng cũng không mặc.”

“Eo ôi!”

Và rồi tôi sẽ kể tiếp câu chuyện, nhưng mấy đứa con gái ở quê nhà sẽ to nhỏ với nhau. Chúng sẽ lấy tay che miệng rồi cười khúc khích. Sau đó, khi tôi mới kể tiếp đến buổi sáng họ thả tôi ra khỏi trại nhập cư, lũ con gái ấy sẽ ngắt lời tôi lần nữa. Nkiruka sẽ nói, Nghe này, được không? Nghe này. Để cho hai năm rõ mười nhé. Cô gái trong tấm ảnh trên báo. Cô ta là gái điếm, phải không? Là gái ăn sương? Cô ta có dán mắt xuống đất vì xấu hổ không?

“Không, cô ta chẳng dán mắt xuống đất vì xấu hổ gì cả. Cô ta nhìn thẳng vào ống kính và mỉm cười.”

“Cái gì, trên báo á?”

“Ừ.”

“Vậy ở Anh người ta không xấu hổ khi khoe ngực trên báo à?”

“Không. Không hề xấu hổ. Đàn ông thích như thế và nó chẳng có gì đáng hổ thẹn cả. Nếu không thì cô gái trống phần trên đâu có mỉm cười như thế, chị hiểu chứ?”

“Vậy hết thảy con gái ở đấy có khoe hàng như thế không? Đi khắp nơi với cặp vú tưng tưng? Trong nhà thờ, trong cửa hàng và trên đường?”

“Không, chỉ ở trên báo thôi.”

“Sao họ không khoe ngực hết cả đi, nếu đàn ông thích thế và như thế chẳng có gì là hổ thẹn cả?”

“Em không biết.”

“Em sống ở đấy hơn hai năm rồi, em gái biết tuốt ạ. Sao em lại không biết?”

“Ở đấy là thế mà. Phần lớn thời gian ở đó em sống trong bối rối như thế đấy. Đôi khi em nghĩ cả người Anh còn không biết giải thích những việc đấy thế nào.”

“Trời!”

Bạn thấy không, chuyện này sẽ diễn ra như vậy đó, nếu tôi phải dừng lại và giải thích từng chi tiết nhỏ cho mấy đứa con gái ở quê nhà. Tôi sẽ phải giải thích về thảm nhựa lót sàn nhà, chất tẩy rửa, sách báo khiêu dâm hạng nhẹ và phép thuật biến hình đổi dạng của đồng một bảng Anh, như thể toàn bộ những điều bình thường trong cuộc sống hằng ngày này là những bí ẩn kì diệu lắm. Và câu chuyện của tôi sẽ nhanh chóng lạc giữa đại dương mênh mông những điều kì diệu này, vì có vẻ như đất nước của bạn là một liên bang những phép màu, còn câu chuyện của tôi chỉ là một điều cực kì nhỏ bé và tầm thường trong đó. Nhưng với bạn, chuyện dễ dàng hơn nhiều vì tôi có thể nói với bạn, chuyện là, vào buổi sáng họ thả chúng tôi, nhân viên trại giam đang dán mắt vào một tấm ảnh của cô gái ngực trần trên báo. Và bạn hiểu tình huống ấy ngay tức thì. Đó là lý do tôi đã dành hai năm để học tiếng Anh của Nữ hoàng, để bạn và tôi có thể nói chuyện như thế này mà không bị ngắt quãng.

Nhân viên trại giam, người đang xem tấm ảnh mát mẻ trên báo – là một người đàn ông nhỏ con, có mái tóc màu vàng nhạt, giống như món xúp nấm đóng hộp họ cho chúng tôi ăn vào các ngày thứ Ba. Cổ tay ông gầy và trắng bệch hệt như những sợi dây điện được bọc nhựa. Bộ đồng phục quá khổ đối với ông. Vai áo gồ lên như cục bướu ở mỗi bên đầu, giống như ông đang giấu những con vật nhỏ trong đó. Tôi nghĩ đến cảnh những sinh vật đó chớp mắt trước ánh đèn khi ông cởi áo ra vào buổi tối. Tôi nghĩ, Vâng thưa ông, nếu là vợ ông thì tôi sẽ mặc xu chiêng, cám ơn.

Rồi tôi lại nghĩ, Tại sao ông lại dán mắt vào cô gái trong báo, thưa ông, chứ không phải những cô gái đang đứng xếp hàng gọi điện thoại ở đây? Nhỡ chúng tôi bỏ chạy hết thì sao? Nhưng rồi tôi nhớ ra, họ đã thả chúng tôi rồi mà. Điều này thật khó mà hiểu được sau ngần ấy thời gian. Hai năm, tôi đã sống trong trại giam đó. Tôi mới mười bốn tuổi khi đến đất nước của bạn nhưng tôi không có bất kì giấy tờ gì để chứng minh điều đó, vì thế họ đưa tôi vào trại giam của người lớn. Vấn đề là, ở đó nam nữ bị nhốt chung với nhau. Ban đêm họ giam đàn ông ở một mé khác của trại giam. Họ nhốt những người ấy vào lồng giống như bầy sói khi mặt trời khuất dạng, nhưng vào ban ngày những người đàn ông trà trộn vào chúng tôi, ăn thức ăn giống chúng tôi. Tôi nghĩ trông họ vẫn đói khát. Tôi nghĩ họ nhìn tôi với ánh mắt thèm thuồng. Vì thế khi những đứa con gái lớn hơn thì thầm với tôi, Để sống sót mày phải biết chưng diện và mồm mép, tôi quyết định rằng nói chuyện thì sẽ an toàn hơn cho tôi.

Tôi khiến mình trông tởm lợm bằng cách né tắm gội, để cho da dẻ nhễ nhại. Tôi quấn một mảnh vải cotton to quanh ngực dưới lớp áo để làm cho ngực mình bé đến mức gần như phẳng lì. Khi những thùng quà từ thiện được gửi đến, chứa đầy quần áo và giày dép cũ, vài đứa con gái khác lại cố gắng trau chuốt để đẹp hơn, nhưng tôi chỉ lục lọi những thùng giấy bồi để tìm quần áo che được thân hình mình. Tôi mặc quần jeans xanh rộng thùng thình và áo sơmi Hawaii của nam giới, mang giày bốt đen nặng trịch với mũi thép bóng loáng trên lớp da bị rách. Tôi đi gặp y tá trại giam và bảo cô cắt cụt mái tóc của mình bằng kéo y tế. Suốt hai năm trời tôi không cười, thậm chí cũng không nhìn vào mặt bất kì người đàn ông nào. Tôi sợ. Chỉ về đêm, sau khi người ta đã nhốt cánh đàn ông, tôi mới trở về phòng giam của mình, tháo miếng vải khỏi ngực và hít thở sâu. Sau đó tôi cởi đôi giày bốt nặng trịch và co hai đầu gối lên chống cằm. Mỗi tuần một lần, tôi ngồi trên miếng nệm xốp của giường mình và sơn móng chân. Tôi tìm thấy lọ sơn nhỏ ở dưới đáy thùng từ thiện. Nó còn nguyên nhãn giá. Nếu biết được ai là người cho nó, tôi sẽ nói với người đó rằng với một đồng bảng Anh và chín mươi chín xu, họ đã cứu cuộc đời tôi. Vì đây là điều tôi làm ở nơi đó, để nhắc mình nhớ rằng mình vẫn còn sống bên dưới tất cả mọi thứ: dưới mũi giày thép tôi sơn móng chân màu đỏ. Thỉnh thoảng khi cởi bốt ra, tôi lại nhắm nghiền mắt cố không khóc, rồi đung đưa người tới lui, run cầm cập vì lạnh.

Chị Nkiruka của tôi, chị ấy đã thành đàn bà vào mùa dậy thì, dưới mặt trời châu Phi, và ai có thể trách chị nếu cái nóng đỏ rực của nó làm chị thẫn thờ và ngả ngớn? Ai có thể tựa lưng vào cột cửa và mỉm cười vẻ mãn nguyện khi thấy mẹ tôi bảo chị ngồi xuống để nói, Nkiruka, con gái yêu của mẹ, con không được cười với những chàng trai lớn hơn như thế, nghe chưa?

Còn tôi, tôi thành đàn bà dưới ánh điện huỳnh quang trắng, trong một căn phòng dưới mặt đất ở một trại nhập cư cách London sáu mươi lăm cây số về phía đông. Ở đó không có mùa. Ở đó lạnh cắt da cắt thịt, và tôi chẳng có ai để đưa đẩy cười duyên. Những năm tháng lạnh lẽo ấy đã đóng băng trong lòng tôi. Cô bé châu Phi bị họ nhốt ở trại nhập cư, cô bé tội nghiệp, nó chưa bao giờ thực sự trốn thoát. Trong tâm hồn tôi nó vẫn bị nhốt ở đó, vĩnh viễn, dưới ánh đèn huỳnh quang, ngồi bó gối trên tấm thảm nhựa trải sàn, hai đầu gối đặt dưới cằm. Còn người đàn bà họ thả từ trại giam, sinh vật là tôi lúc này, là một chủng người mới. Ở tôi chẳng có gì là tự nhiên. Tôi được sinh ra – không – tôi được tái sinh – trong cảnh giam cầm. Tôi học ngôn ngữ của mình từ báo chí của bạn, quần áo của tôi là đồ loại thải của bạn, và chính đồng bảng của bạn khiến túi tôi đau đớn mỗi khi nó vắng mặt. Hãy tưởng tượng một cô gái trẻ được cắt ra từ ảnh quảng cáo tươi cười của tạp chí Cứu trợ trẻ em, mặc bộ quần áo màu hồng nhàu nát từ thùng rác trong bãi đỗ xe siêu thị gần nhà bạn và nói thứ tiếng Anh như mục xã luận trên báo The Times, hình dung mà xem. Tôi sẽ băng qua đường để tránh chính mình. Nói thật, đây là điều duy nhất mà người dân ở đất nước bạn và người dân ở đất nước tôi đều đồng tình. Họ nói, Con bé tị nạn đó không phải là người của chúng tôi. Con bé đó không thuộc về chúng tôi. Đó là một kẻ nửa người nửa ngợm, một sản phẩm của quá trình phối giống không tự nhiên, một khuôn mặt xa lạ trên cung trăng.

Thế đấy, tôi là một người tị nạn, và tôi rất cô đơn. Có phải là lỗi của tôi khi tôi trông không giống một cô gái Anh và tôi nói chuyện chẳng giống người Nigeria? Chà, ai bảo một cô gái Anh phải có làn da trắng bệch như những đám mây trôi qua mùa hè của cô ta? Ai bảo một cô gái Nigeria phải nói thứ tiếng Anh thua trận, tựa như tiếng Anh đã đụng độ với tiếng Ibo, tít ở trên khí quyển, rồi trút xuống miệng cô sầm sập như thác đổ và khiến cô sặc sụa với những câu chuyện đáng yêu về màu da châu Phi tươi sáng và dư vị của món chuối chiên? Không phải như một người kể chuyện, mà như một nạn nhân được cứu khỏi lũ lụt, khạc từ phổi ra thứ nước thuộc địa?

Xin thứ lỗi cho tôi vì đã học ngôn ngữ của bạn một cách tử tế. Tôi ở đây để kể cho bạn nghe một câu chuyện có thật. Tôi không đến để nói với bạn về màu da sáng châu Phi. Tôi là một công dân được tái sinh của một nước đang phát triển, và tôi sẽ chứng tỏ cho bạn thấy màu cuộc đời tôi là màu xám. Và nếu tôi có lén lút yêu thích món chuối chiên, thì chuyện đấy phải được giữ kín giữa hai chúng ta và tôi van nài bạn đừng kể với ai hết. Được chứ?

Vào buổi sáng thả chúng tôi khỏi trại giam, họ trả lại chúng tôi toàn bộ tài sản của mình. Tôi giữ tài sản của tôi trong một chiếc túi nhựa trong suốt. Một quyển Từ điển tiếng Anh bỏ túi của Collins Gem, một đôi tất xám, một chiếc quần lót xám, một giấy phép lái xe tại Vương quốc Anh không phải của tôi, và một tấm danh thiếp chống thấm cũng không phải của tôi nốt. Nếu bạn muốn biết, thì những thứ này thuộc về một người da trắng tên là Andrew O’Rourke. Tôi gặp chú ấy trên một bãi biển.

Chiếc túi nhựa nhỏ này là vật tôi đang cầm trong tay khi nhân viên trại giam bảo tôi đi đến chỗ xếp hàng để gọi điện thoại. Cô gái đầu tiên trong hàng cao hơn tôi và rất xinh. Ưu điểm của cô ấy là nhan sắc, không phải là tài ăn nói. Tôi tự hỏi ai trong hai chúng tôi đã có lựa chọn sáng suốt hơn để sống sót. Cô gái này đã nhổ sạch lông mày của mình rồi sau đó vẽ lại chúng bằng bút chì. Đó là việc cô đã làm để cứu mạng mình. Cô đang mặc một chiếc đầm chữ A màu tím, in hình những ngôi sao và mặt trăng màu hồng. Cô quấn một chiếc khăn choàng màu hồng xinh xắn quanh tóc mình, chân đi dép màu tím. Tôi nghĩ cô hẳn đã bị nhốt rất lâu trong trại giam của chúng tôi. Chắc bạn cũng hiểu, phải lục lọi qua một số lượng lớn thùng từ thiện mới kết hợp được một bộ trang phục thực sự gọi là ra tấm ra món.

Trên đôi chân màu nâu của cô gái có nhiều vết sẹo nhỏ màu trắng. Tôi không rõ những vết sẹo đó có rải khắp cơ thể cô như những ngôi sao và mặt trăng trên chiếc đầm cô mặc? Tôi nghĩ như thế cũng đẹp, và tôi đề nghị bạn vào ngay lúc này đồng ý với tôi rằng, sẹo không có gì là xấu xí cả. Những kẻ gây ra sẹo muốn chúng tôi nghĩ chúng rất xấu xí. Nhưng giữa bạn với tôi, chúng ta phải nhất trí để chống lại bọn họ. Chúng ta phải thấy mọi vết sẹo đều đẹp đẽ. Được chứ? Đây sẽ là bí mật của chúng ta. Vì, tin tôi đi, sẹo không hình thành trên kẻ sắp chết. Một vết sẹo có nghĩa là “Tôi đã sống sót”.

Một chốc nữa tôi sẽ kể vài chuyện buồn với bạn. Nhưng bạn phải nghe nó như cách mà chúng ta đã nhất trí sẽ nhìn nhận những vết sẹo vào lúc này. Những chuyện buồn cũng là một nét đẹp. Một câu chuyện buồn có nghĩa là người kể câu chuyện này còn sống. Rồi bạn sẽ nhận ra điều tốt lành sẽ đến với cô ấy, điều gì đó phi thường, và rồi cô ấy sẽ ngoái đầu lại và mỉm cười.

Cô gái chân sẹo mặc chiếc đầm chữ A màu tím đang nói vào ống nghe điện thoại. A nô, taxi à? Anh đến đón em, há? Tốt. Ồ, nơi em đến há? Em đến từ Jamaica í, cứ biết vậy đi. Hả? Cái gì? Ồ, em đến đâu bây giờ á? Được giồi, chờ nhá.

Cô lấy tay bịt ống nghe, quay sang cô thứ hai trong hàng, hỏi, Này cậu, ở đây tên nà dì, bây giờ bọn ta đang ở đâu ấy nhẩy? Nhưng cô thứ hai chỉ ngước lên nhìn cô rồi nhún vai. Cô thứ hai rất gầy, làn da màu nâu sậm, mắt màu xanh lá cây tựa viên kẹo thạch sau khi bạn mút hết lớp đường ở bên ngoài rồi đưa nó lên dưới ánh trăng. Cô ấy đẹp đến nỗi tôi chẳng biết giải thích ra làm sao. Cô mặc áo sari vàng và đang cầm túi nhựa trong như tôi, nhưng bên trong chẳng có gì. Ban đầu tôi tưởng nó trống rỗng, nên đã nghĩ, Sao bạn lại cầm chiếc túi đó nếu bên trong nó chẳng có gì? Tôi có thể nhìn xuyên túi thấy bộ sari của cô, vì vậy tôi kết luận là cô đang cầm một chiếc túi màu vàng chanh. Đó là tất cả những gì cô ấy có khi họ thả chúng tôi ra.

Tôi biết một chút về cô thứ hai. Có lần tôi bị giam cùng phòng với cô trong hai tuần, nhưng cả hai chưa bao giờ nói chuyện với nhau. Cô không hề nói một từ tiếng Anh nào. Đó là lý do vì sao cô chỉ nhún vai và nắm chặt chiếc túi màu vàng chanh của mình. Vì vậy cô gọi điện ngước mắt nhìn trần nhà, giống như nhân viên trại giam ngồi ở bàn đã làm.

Rồi cô gọi điện quay sang cô thứ ba trong hàng và hỏi, Thế cậu biết tên chỗ lày đang ở há? Nhưng cô thứ ba cũng không biết. Cô mặc áo thun màu xanh dương và quần jeans xanh, mang giày thể thao màu trắng hiệu Dunlop Green Flash. Cô chỉ đứng sựng đó và nhìn xuống chiếc túi trong suốt chứa đầy thư từ và tài liệu của mình. Có quá nhiều giấy tờ trong túi, tất cả đều nhàu nhò, đến nỗi cô phải dùng một tay đỡ dưới túi để nó không bị rách. Cô thứ ba này, tôi cũng biết một chút. Cô không đẹp, cũng chẳng giỏi ăn nói, nhưng vẫn còn một thứ có thể giúp bạn khỏi bị trả về nhà sớm. Ưu điểm của cô gái này là, cô viết tất tần tật chuyện của mình ra giấy và hợp pháp hóa nó. Có những con dấu ở cuối câu chuyện của cô khẳng định bằng mực đỏ rằng chuyện này là CÓ THẬT. Tôi nhớ có lần cô kể chuyện của mình cho tôi nghe và nó giống như thế này, toán-người-đến-và-chúng-đốt-làng-tôi-trói-các-con-gái-tôi-hiếp-các-con-gái-tôi-bắt-các-con-gái-tôi-đánh-chồng-tôi-cắt-ngực-tôi-tôi-bỏ-chạy-băng-qua-rừng-thấy-một-con-tàu-băng-qua-biển-rồi-họ-đưa-tôi-vào-đây. Hoặc đại loại một chuyện như thế. Tôi bị lẫn lộn giữa các câu chuyện trong trại giam đó. Tất cả các câu chuyện của những cô gái đều bắt đầu bằng toán-người-đến-và-chúng-. Và tất cả các câu chuyện đều kết thúc bằng rồi-họ-đưa-tôi-vào-đây. Các câu chuyện đều buồn, nhưng bạn và tôi đã nhất trí với nhau về những chuyện buồn. Với cô gái này – cô thứ ba trong hàng – câu chuyện của cô khiến cô buồn đến mức không biết cả tên của cái nơi mà cô đang ở và cũng không muốn biết. Cô thậm chí không một chút tò mò.

Thế là cô gái đang cầm ống nghe lại hỏi cô thứ ba lần nữa. Cái gì? Cô ấy nói. Cậu cũng chẳng lói được há? Sao cậu nại chẳng biết tên chỗ đang ở lày?

Rồi cô thứ ba trong hàng lại hướng mắt mình lên trần nhà, vì vậy cô gái đang cầm ống nghe lại hướng mắt lên trần nhà lần thứ hai. Tôi nghĩ, Được rồi, giờ thì nhân viên trại giam đã nhìn lên trần nhà một lần, cô thứ ba đã nhìn lên trần nhà một lần, cô thứ nhất đã nhìn lên trần nhà hai lần, vậy có lẽ rốt cuộc là có câu trả lời trên trên trần nhà thật rồi. Có lẽ có những câu chuyện được viết trên trần nhà với nội dung đại khái như toán-người-đến-và-họ-đem-cho-chúng-tôi-váy-áo-sặc-sỡ-tìm-củi-nhóm-lửa-kể-chuyện-tiếu-lâm-uống-bia-với-chúng-tôi-đuổi-bắt-chúng-tôi-đến-khi-chúng-tôi-cười-ngặt-nghẽo-ngăn-muỗi-không-đốt-kể-cho-chúng-tôi-mẹo-tóm-đồng-một-bảng-Anh-biến-mặt-trăng-thành-phô-mai Ô, và rồi họ đưa tôi vào đây.

Tôi ngước lên trần nhà, nhưng trên đấy chỉ có sơn trắng và những bóng đèn huỳnh quang.

Cuối cùng cô gái gọi điện thoại nhìn tôi. Thế là tôi bảo cô, Tên nơi này là Trung tâm Điều chuyển Nhập cư Black Hill. Cô gái nhìn tôi chăm chú. Cô em dỡn há, cô ấy nói. Tên quái chiêu vậy há? Vì thế tôi chỉ vào tấm biển kim loại được bắt vít vào tường phía trên chiếc điện thoại. Cô nhìn nó rồi nhìn lại tôi, và nói, Xin nỗi cưng, chị ứ biết đọc. Vì thế tôi đọc to cho cô nghe, và đọc đến từ nào tôi chỉ vào từ đó. TRUNG TÂM ĐIỀU CHUYỂN NHẬP CƯ BLACK HILL, HIGH EASTER, CHELMSFORD, ESSEX. Cám ơn, người quí hóa, cô đầu tiên nói, rồi nhấc ống nghe lên.

Cô nói vào ống nghe: Được giồi, nghe đây ông anh, chỗ em đang ở lày gọi nà Điều truyển Tập chung Black Hill. Rồi cô nói, Khoan lào, đợi đã. Rồi cô buồn bã gác ống nghe lên điện thoại. Tôi hỏi, Có chuyện gì vậy? Cô đầu tiên thở dài đáp, Tài xế taxi bảo ứ rước khách chỗ lày. Rồi não nói, nũ chúng mày nà đồ scum. Cưng biết từ lày không?

Tôi nói không, vì không biết chắc lắm, nên tôi lấy quyển từ điển tiếng Anh bỏ túi của Collins Gem ra khỏi chiếc túi trong suốt của mình để tra từ đó. Tôi nói với cô đầu tiên, Chị là lớp váng bẩn hoặc rau củ hình thành trên bề mặt chất lỏng. Cô nhìn tôi rồi nhìn lại mình và chúng tôi cười khúc khích vì chẳng biết làm gì với thông tin ấy. Đây luôn là vấn đề của tôi mỗi khi tôi học nói ngôn ngữ của bạn. Mỗi từ đều có khả năng tự vệ. Khi ta vừa định tóm lấy, nó đã tách thành hai nghĩa khác nhau, khiến cho việc hiểu ý nghĩa của nó cứ lơ lửng trên không trung. Tôi ngưỡng mộ các bạn. Các bạn giống hệt những thầy phù thủy và các bạn đã giữ cho ngôn ngữ của mình an toàn cũng như tiền bạc của các bạn vậy.

Vậy là tôi và cô thứ nhất trong hàng chờ gọi điện thoại cười khúc khích với nhau, và tôi đang cầm chiếc túi trong suốt của mình, còn cô cầm chiếc túi trong suốt của cô. Có một chiếc chì kẻ lông mày màu đen và một cây nhíp với ba khoanh dứa khô trong túi cô ấy. Cô đầu tiên thấy tôi đang nhìn túi cô và ngưng cười. Nhìn gì mà nhìn? Cô hỏi. Tôi nói tôi không biết. Cô nói, Lày, tôi nà tôi biết cô em đang nghĩ gì nhá. Cô nghĩ nà, giờ chả có taxi lào đón, chị ứ đi xa được với cây chì kẻ nông mày cộng cây nhíp với ba khoanh dứa? Cho nên tôi nói với cô, Có lẽ chị có thể dùng cây chì kẻ lông mày để viết chữ GIÚP TÔI VỚI, sau đó có thể tặng những khoanh dứa cho người đầu tiên giúp chị. Cô ấy nhìn tôi như thể tôi bị hâm, rồi nói: Được giồi, cô em, một, chị mày chẳng giấy lào để viết, hai, chị mày ứ biết viết, chỉ biết vẽ nên nông mày, và ba, chị mày định ăn chỗ dứa đấy. Rồi cô trợn mắt nhìn tôi trừng trừng.

Khi chuyện này diễn ra, cô thứ hai trong hàng, cô gái mặc sari màu vàng chanh và cầm chiếc túi đầy màu vàng, trở thành cô đầu tiên trong hàng, vì lúc này cô đang cầm ống nghe điện thoại trong tay. Cô đang thì thầm vào nó bằng một ngôn ngữ nghe như những cánh bướm chìm trong hũ mật. Tôi vỗ vai cô, giật sari của cô, và bảo cô: Làm ơn đi, chị phải cố nói chuyện với họ bằng tiếng Anh. Cô gái sari nhìn tôi, và dừng nói chuyện bằng ngôn ngữ loài bướm. Thật chậm rãi và thận trọng, như đang nhớ lại các từ trong một giấc mơ, cô nói vào ống nghe: Nước Anh, Vâng làm ơn. Vâng làm ơn cám ơn, tôi muốn đến nước Anh.

Thế là cô mặc áo đầm chữ A màu tím gí sát mũi mình vào mũi cô mặc sari vàng chanh, rồi gõ ngón tay mình lên trán cô ta và miệng phát ra âm thanh như tiếng cán chổi khua vào thùng rỗng. Boong! Boong! Cô váy tím nói. Cậu đã ở Anh rồi nhá, hiểu không? Rồi cô chỉ cả hai ngón trỏ xuống sàn nhà trải thảm nhựa. Cô nói: Đây nà nước Anh, người đẹp ơi, cậu không thấy à? Ngay đây lày, thấy chưa? Đây nà chỗ bọn ta ở rồi.

Cô áo sari vàng câm như hến. Cô chỉ nhìn lại trân trối với đôi mắt màu xanh lá cây như hai mặt trăng thạch. Vì thế cô váy tím, cô Jamaica, nói, Đây, đưa ló cho tôi, rồi giật lấy ống nghe khỏi tay cô mặc sari. Đoạn cô đưa ống nghe lên miệng rồi nói, Nghe đây, đợi đã, xin chờ một phút. Nhưng sau đó cô im lặng và chuyền ống nghe cho tôi. Tôi áp tai nghe, nhưng chỉ có tiếng tút tút. Thế là tôi quay sang cô mặc sari. Chị phải bấm số trước, tôi nói. Chị hiểu không? Bấm số trước, rồi nói với người lái taxi chị muốn đi đâu. Được không?

Nhưng cô mặc sari, cô ấy chỉ nheo mắt nhìn tôi, rồi kéo chiếc túi trong suốt màu vàng chanh lại gần mình hơn một chút, như thể tôi sắp sửa giật lấy nó giống như cách mà cô gái kia đã giật lấy ống nghe điện thoại. Cô mặc áo đầm tím thở dài rồi quay sang tôi. Bó chưn rồi, nhóc, cô ấy nói. Chúa sẽ gọi các con của ngài về nhà trước cả khi con nhỏ lày gọi được taxi. Rồi cô chuyển ống nghe cho tôi. Đây lày, cô nói. Nhóc thử một nần coi.

Tôi chỉ vào cô thứ ba trong hàng, cô có chiếc túi đựng tài liệu và mặc áo thun xanh, mang giày thể thao Dunlop Green Flash. Còn chị ấy thì sao? Tôi nói. Chị ấy xếp hàng trước em. Ờ, cô mặc áo đầm tím nói, nhưng mụ ấy không có đ-ộng n-ực. Phải không, cô em? Rồi cô nhìn chằm chằm vào cô gái với túi tài liệu, nhưng cô gái với túi tài liệu chỉ nhún vai và nhìn xuống đôi giày Dunlop Green Flash của mình. Không phải vậy sao, cô mặc áo đầm tím nói, rồi quay sang tôi. Tùy nhóc đó. Phải lói nàm xao để xách cả bọn ra khỏi đây, trước khi lũ kia đổi ý nhốt hết đám nại.

Tôi nhìn xuống cái ống nghe màu xám bẩn thỉu và chợt cảm thấy sợ. Tôi nhìn lại cô đầm tím. Chị muốn đi đâu? Tôi hỏi. Cô ấy đáp, Đâu cũng đi. Gì cơ? Đâu cũng được, cô em ạ.

Tôi bấm số của hãng taxi in trên điện thoại. Giọng một người đàn ông vang lên. Ông ta có vẻ mệt mỏi. Dịch vụ chở khách, ông nói. Nghe như ông đang làm ơn làm phước cho tôi chỉ với việc nói ra những từ đấy.

“Xin chào, tôi muốn gọi một chiếc taxi ạ.”

“Cô muốn gọi xe chở khách?”

“Vâng. Làm ơn. Một chiếc taxi-chở khách. Cho bốn người.”

“Từ chỗ nào?”

“Từ Trung tâm điều chuyển nhập cư Black Hill, thưa ông. Ở High Easter. Nó gần Chelmsford.”

“Tôi biết nó ở đâu. Giờ cô nghe tôi đây…”

“Làm ơn, được rồi. Tôi biết các ông không đón người tị nạn. Chúng tôi không phải dân tị nạn. Chúng tôi là lao công. Chúng tôi làm việc ở đây.”

“Các cô là lao công?”

“Vâng.”

“Và đó là sự thật, phải không? Vì nếu tôi được một bảng mỗi khi có một người nhập cư chó chết lên sau xe tôi mà không biết chúng muốn đi đâu và bắt đầu nói huyên thuyên với tài xế của tôi bằng tiếng Swahili rồi tìm cách trả tiền bằng thuốc lá, thì giờ này tôi đã chơi golf thay vì nói chuyện với cô rồi.”

“Chúng tôi là lao công.”

“Được rồi. Đúng là cô không nói năng như bọn chúng. Cô muốn đi đâu?”

Tôi đã ghi nhớ địa chỉ trên tờ giấy phép lái xe Vương quốc Anh trong chiếc túi nhựa trong của mình. Andrew O’Rourke, người đàn ông da trắng tôi đã gặp trên bãi biển: chú ấy sống ở thị trấn Kingston-mạn-trên-Thames ở hạt Surrey của Anh. Tôi nói vào ống nghe.

“Làm ơn đến Kingston.”

Cô váy tím chộp cánh tay tôi và rít lên. Đừng, nhóc! Đâu cũng được trừ Jamaica. Bọn đó tóm được tôi nà xử niền nập tức, chết khỏi ngáp nuôn. Tôi không hiểu tại sao cô lại sợ, nhưng giờ thì tôi biết rồi. Có một Kingston ở nước Anh nhưng cũng có một Kingston ở Jamaica, nơi khí hậu khác hẳn. Đây lại là một công trình vĩ đại khác mà những thầy phù thủy các bạn đã tạo ra – ngay cả thành phố của các bạn cũng có bản sao.

“Kingston hả?” Người đàn ông trong điện thoại hỏi.

“Kingston-mạn-trên-Thames,” tôi nói.

“Chỗ đó xa tít mù nhỉ? Nó nằm ở đâu?”

“Surrey,” tôi nói.

“Surrey. Các cô là bốn người lao công đến từ hạt Surrey lịch sự, cô định nói với tôi thế hả?”

“Không. Chúng tôi là lao công ở gần đây. Nhưng họ cử chúng tôi đến dọn dẹp ở Surrey.”

“Vậy thì, tiền mặt hay tài khoản đây?”

Giọng người đàn ông đó thật mệt mỏi.

“Gì ạ?”

“Cô sẽ trả bằng tiền mặt, hay là sẽ tính vào hóa đơn của trại giam?”

“Chúng tôi sẽ trả tiền mặt, thưa ông. Chúng tôi sẽ trả khi đến nơi.”

“Nên là thế.”

Tôi lắng nghe trong một phút rồi ấn bàn tay xuống giá để ống nghe của điện thoại. Tôi bấm một số khác. Đây là số điện thoại in trên tấm danh thiếp mà tôi giữ trong chiếc túi trong suốt của mình. Tấm danh thiếp đã bị nước làm hỏng. Tôi không phân biệt được số cuối cùng là 8 hay 3. Tôi thử số 8, vì ở nước tôi những số lẻ thường đem lại xui xẻo, mà đó là thứ duy nhất tôi đã có quá đủ.

Một người trả lời điện thoại. Ông ta bực dọc.

“Ai đấy? Giờ này mới sáu giờ sáng.”

“Có phải là chú Andrew O’Rourke không ạ?”

“Phải. Cô là ai?”

“Cháu đến gặp chú được không, thưa chú?”

“Kẻ quái quỷ nào thế này?”

“Chúng ta gặp nhau trên bãi biển ở Nigeria. Cháu nhớ chú rất rõ, thưa chú O’Rourke. Bây giờ cháu đang ở Anh. Cháu đến gặp chú và cô Sarah được không? Cháu không còn nơi nào để đi nữa.”

Đầu dây bên kia im lặng. Rồi người đàn ông cất tiếng ho và phá ra cười.

“Đây là một trò đùa, có phải không? Ai đấy? Tôi cảnh cáo nhé, tôi gặp những kẻ tâm thần như cô nhiều rồi. Để tôi yên, nếu không cô sẽ không xong đâu. Báo của tôi sẽ truy tố đấy. Họ sẽ truy tìm người thực hiện cuộc gọi này và tìm ra cô ở đâu rồi đến bắt cô. Cô không phải là người đầu tiên đâu.”

“Chú không tin là cháu sao?”

“Hãy để tôi yên. Hiểu chưa? Tôi không muốn nghe nữa. Những chuyện đó xảy ra lâu lắm rồi và đó không phải lỗi của tôi.”

“Cháu sẽ đến nhà chú. Như vậy chú mới tin đấy là cháu.”

“Không.”

“Cháu không biết ai khác ở nước này nữa, thưa chú O’Rourke. Cháu xin lỗi. Cháu chỉ định báo với chú để chú chuẩn bị thôi.”

Người đàn ông không còn nóng nảy nữa. Ông phát ra một tiếng rên nhỏ, như một đứa bé sợ sệt về chuyện sắp xảy ra. Tôi gác máy và quay lại những cô gái khác. Tim tôi đập nhanh đến nỗi tôi nghĩ mình sẽ nôn ra ngay trên sàn nhà lót thảm nhựa đó. Những cô khác đang nhìn tôi trân trối, hồi hộp và chờ đợi.

“Thế lào?” Cô mặc đầm tím hỏi.

“Hmm?” Tôi đáp.

“Taxi đó, cô em! Có chuyện với taxi giồi há?”

“Ồ, phải rồi, xe taxi. Ông taxi nói mười phút nữa xe sẽ đến đón chúng ta. Ông ấy bảo chúng ta đợi bên ngoài.” Cô mặc đầm tím mỉm cười.

“Tên chị nà Yevette. Từ Jamaica, à há. Em có ích đấy, cưng à. Người ta gọi em nà gì?”

“Tên em là Ong Nhỏ.”

“Tên đấy mà nà tên há?”

“Đó là tên em.”

“Em tới từ xứ lào, xứ lào mà nại gọi mấy đứa con gái bằng tên côn trùng?”

“Nigeria.”

Yevette phá ra cười. Đó là một tiếng cười lớn, như giọng cười của vai chính phản diện trong các bộ phim cướp biển.

WU-ha-ha-ha-ha! Nó khiến ống nghe điện thoại rung rinh trên giá đỡ. Nye-JIRRYA! Yevette nói. Rồi cô xoay người lại những cô gái khác, cô mặc sari và cô cầm tài liệu. Đi với bọn tớ lào, các cô gái, cô nói. Bọn mình nà Niên Hịp Quấc đấy há, hôm lay cả bọn đi theo Nye-JIRRYA. WU-ha-ha-ha-ha!

Yevette vẫn cười sằng sặc khi bốn người chúng tôi đi qua khỏi bàn an ninh về phía cửa. Nhân viên trại giam ngước lên từ tờ báo khi chúng tôi đi qua. Cô ngực trần đã biến mất – ông ta đã giở sang trang mới. Tôi nhìn xuống tờ báo của ông. Tiêu đề trên trang mới viết NGƯỜI XIN TỊ NẠN ĐANG ĂN THỊT THIÊN NGA[1] CỦA CHÚNG TA. Tôi nhìn lại nhân viên trại giam, nhưng ông không ngước lên nhìn tôi. Trong lúc tôi nhìn ông đưa tay lên che tiêu đề đó lại. Ông làm ra vẻ như muốn gãi cùi chỏ. Hoặc có thể đúng là ông cần gãi cùi chỏ. Tôi nhận ra mình chẳng biết gì về đàn ông ngoại trừ nỗi sợ hãi. Một bộ đồng phục quá khổ đối với bạn, một chiếc bàn quá nhỏ đối với bạn, một ca làm tám tiếng quá dài đối với bạn, rồi đột nhiên xuất hiện cô gái với ba kí lô tài liệu và không một mảy may động lực nào, một cô khác với đôi mắt màu xanh thạch và chiếc áo sari vàng xinh đẹp đến độ bạn không thể nhìn cô quá lâu nếu không tròng mắt bạn sẽ nổ tung, một cô thứ ba đến từ Nigeria được đặt tên theo một con ong mật, và một ả đàn bà ồn ào từ Jamaica có giọng cười như cướp biển Bluebeard. Có lẽ đây chính xác là kiểu tình huống khiến cùi chỏ của một người đàn ông ngứa ngáy.

Tôi ngoái lại nhìn nhân viên trại giam trước khi đi ra khỏi khung cửa hai cánh. Ông đang dõi theo chúng tôi. Trông ông thật bé nhỏ và đơn độc ở đó, với cổ tay gầy gò nhỏ nhắn, dưới ánh đèn huỳnh quang. Ánh sáng khiến làn da ông trông xanh xao, màu của một con ngài mới ra khỏi kén. Ánh mặt trời sáng sớm đang chiếu xuyên qua lớp cửa kính. Người nhân viên nhíu mắt vì chói. Tôi nghĩ chúng tôi chỉ còn là những cái bóng trong mắt ông. Ông mở miệng ra, như định nói gì đấy, nhưng rồi dừng lại.

“Cái gì ạ?” Tôi hỏi. Tôi nhận ra ông định bảo chúng tôi rằng đã có sự nhầm lẫn. Tôi tự hỏi chúng tôi có nên bỏ chạy không. Tôi không muốn trở lại trại giam. Tôi tự hỏi nếu chạy thì chúng tôi có thể chạy được bao xa. Tôi tự hỏi liệu họ có dùng chó đuổi theo chúng tôi không.

Nhân viên trại giam đứng dậy. Tôi nghe tiếng ghế dịch chuyển trên nền nhà lót thảm nhựa. Ông đứng đấy, hai tay chống nạnh.

“Này các cô?” Ông gọi.

“Vâng ạ?”

Ông nhìn xuống đất, rồi lại ngước lên.

“Chúc may mắn nhé,” ông nói.

Và chúng tôi quay lại, tiến về phía ánh sáng. Tôi đẩy cánh cửa mở toang, rồi đứng im như trời trồng. Chính ánh sáng mặt trời chặn tôi lại. Tôi cảm thấy thật mong manh khi bước ra từ trại giam, tôi sợ những ánh sáng mặt trời rực rỡ ấy sẽ ngắt nửa tôi ra. Tôi không thể đặt bước đầu tiên ra ngoài.

“Xao ngừng nại, Ong Nhỏ?”

Yevette đang đứng sau lưng tôi. Tôi đang chắn đường của mọi người.

“Xin chờ một chút.”

Bên ngoài, không khí trong lành mang mùi hương cỏ ướt. Nó thổi vào mặt tôi. Mùi hương khiến tôi bấn loạn. Trong hai năm tôi đã chỉ ngửi thấy mùi nước tẩy, mùi sơn móng tay của mình, và mùi thuốc lá của những người bị giam khác. Không có gì tự nhiên. Không có gì như thế này. Tôi cảm thấy nếu mình tiến lên một bước, mặt đất sẽ dựng lên và khước từ tôi. Ở tôi chẳng có gì tự nhiên cả. Tôi đứng đó trong đôi bốt nặng trịch, với bộ ngực bị bó chặt, không phải đàn bà cũng chẳng ra con gái, một sinh vật đã quên mất ngôn ngữ của mình và học ngôn ngữ của bạn, một sinh vật với quá khứ đã tan thành tro bụi.

“Cô em đợi cái quái dì lữa hả?”

“Em sợ, Yevette ạ.”

Yevette lắc đầu và mỉm cười.

“Có nẽ em sợ nà đúng, Ong Nhỏ à, vì em nà đứa thông minh. Có nẽ chị nà quá ngu lên chẳng sợ rì. Nhưng chị đã bị nhốt ở chốn đấy mười tám tháng giồi, và lếu em nghĩ chị đủ ngốc để đợi một giây chỉ vì em giun và sợ vãi ra, thì em lên nghĩ nại.”

Tôi quay lại để nhìn mặt cô, tay vẫn nắm chặt khung cửa.

“Em không nhúc nhích được,” tôi nói.

Đúng lúc đó Yevette đẩy ngực tôi thật mạnh khiến tôi văng ra phía sau. Và mọi chuyện là như thế, lần đầu tiên tôi chạm đất Anh như một người tự do không phải bằng gót giày bốt của mình mà bằng mông quần.

“WU-ha-ha-ha-ha!” Yevette nói. “Chào mừng đến Vương quốc Anh, thật nà vẻ vang quá phải không lào?”

Khi đã hoàn hồn, tôi cũng phá ra cười. Tôi ngồi trên mặt đất, mặt trời ấm áp chiếu lên lưng, và tôi nhận ra mặt đất đã không khước từ tôi, ánh sáng đã không cắn tôi đứt đôi.

Tôi đứng dậy và mỉm cười với Yevette. Tất cả chúng tôi đi vài bước ra khỏi khu trại giam. Trong lúc bước đi, khi những cô gái khác không để ý, tôi luồn tay xuống dưới làn áo sơ mi Hawaii của mình và gỡ miếng băng đang đè chặt ngực. Tôi tháo nó ra, ném xuống và dùng gót giày gí nó sâu xuống đất. Tôi hít thở thật sâu bầu không khí trong lành, sạch sẽ.

Khi chúng tôi đến cổng chính, bốn người dừng lại một chút. Chúng tôi nhìn ra hàng rào dây thép gai cao ngút và nhìn xuống sườn đồi Black Hill. Miền đồng quê nước Anh trải dài đến tận chân trời. Sương mù bảng lảng treo lơ lửng trên các thung lũng, và đỉnh những ngọn đồi nhỏ vàng rực dưới ánh mặt trời buổi sáng, tôi mỉm cười vì toàn thế giới thật tươi tắn, mới mẻ và tinh khôi.