- 2 - Nguyên tác: The other hand
Từ mùa xuân năm 2007 đến cuối mùa hè dài khi Ong Nhỏ đến sống với chúng tôi, con trai tôi nhất định chỉ cởi bộ đồ Batman ra mỗi khi đi tắm. Tôi đặt mua một bộ giống hệt để thay thế khi nó vùng vẫy trong bồn tắm, để ít ra tôi vẫn có thể giặt sạch mồ hôi con trai và những vết cỏ ố khỏi bộ thứ nhất. Chiến đấu chống tội phạm là một việc lấm lem đất cát. Nếu không phải là Ông Đóng băng với tia băng nghiệt ngã thì cũng là Chim cánh cụt – kẻ thù nguy hiểm của Batman – hoặc là Puffin[2], kẻ hiểm ác hơn nữa, sự độc ác tuyệt đối của y đã không được các nhà sáng tạo đầu tiên của loạt truyện Batman kể lại. Con trai tôi và tôi sống với các hậu quả - khắp nhà đầy lính lác, tôi tớ, nhìn chúng tôi chòng chọc từ sau ghế sofa, cười bí hiểm trong khe trống nhỏ xíu cạnh kệ sách, và thường thì nhảy xổ vào chúng tôi bất kể lúc nào. Thật tình là hết cú sốc này đến cú sốc khác. Ở tuổi lên bốn, vừa ngái ngủ vừa tỉnh táo, con trai tôi sống trong sự hiếu động thường trực. Không thể nào tách rời nó khỏi chiếc mặt nạ người dơi ma quỷ, bộ quần áo bó sát, chiếc thắt lưng vàng bóng đa năng và áo choàng đen. Và chẳng ích gì khi gọi con trai tôi bằng tên thánh của nó. Nó sẽ chỉ ngoái nhìn sau lưng, hất đầu lên, rồi nhún vai – như muốn nói, Các giác quan dơi của tôi không tìm được đứa bé trai nào tên đó ở đây cả, thưa bà. Cái tên duy nhất mà con trai tôi chịu trả lời, vào mùa hè năm đó, là “Batman”. Cũng như chẳng có cách nào giải thích được với nó rằng bố nó đã chết. Con trai tôi không tin vào khả năng vật lý của cái chết. Cái chết là điều gì đó chỉ xảy ra khi âm mưu thâm độc của kẻ ác không liên tục bị dập tắt – và điều đó, đương nhiên, là chuyện không thể hình dung được.
Mùa hè năm đó – mùa hè chồng tôi qua đời – chúng tôi đều có những danh xưng mà chúng tôi miễn cưỡng phải từ bỏ. Con trai tôi có bộ trang phục Batman, tôi vẫn theo họ chồng, còn Ong Nhỏ, dù đã khá an toàn với chúng tôi, vẫn bám vào cái tên em đã chọn vào thời điểm khủng hoảng. Mùa hè năm đó, chúng tôi là những kẻ tị nạn chạy trốn khỏi hiện thực. Chúng tôi tị nạn khỏi chính bản thân mình.
Dĩ nhiên, chạy trốn khỏi sự tàn nhẫn là điều tự nhiên nhất trên thế gian này. Và thời điểm đưa chúng tôi đến với nhau vào mùa hè năm đó thật quá tàn nhẫn. Ong Nhỏ gọi điện cho chúng tôi vào buổi sáng họ thả em ra khỏi trại giam. Chồng tôi nghe điện thoại. Mãi rất lâu sau tôi mới biết đó là em – Andrew không hề nói với tôi. Có vẻ như cô bé cho anh biết nó sẽ đến, nhưng tôi không nghĩ anh còn muốn nhìn thấy mặt cô bé một lần nữa. Năm ngày sau, anh tự sát bằng cách treo cổ. Người ta tìm thấy chồng tôi đung đưa hai chân trong không khí, không chạm vào đất của một quốc gia nào. Dĩ nhiên, cái chết là một sự tị nạn. Đó là nơi bạn đến khi một cái tên mới, hoặc một chiếc mặt nạ và áo choàng, không thể che giấu bạn khỏi chính bản thân mình được nữa. Đó là nơi bạn chạy đến khi lương tâm chẳng còn cho bạn một chốn dung thân nào.
Ong Nhỏ gõ cửa nhà chúng tôi năm ngày sau khi chồng tôi qua đời, tức mười ngày sau khi họ thả em ra khỏi trại giam. Sau hành trình hơn tám nghìn cây số và hai năm, cuối cùng em đã đến quá muộn để gặp Andrew còn sống, song lại kịp lúc để dự đám tang anh. Chào cô Sarah, em nói.
Ong Nhỏ đến lúc tám giờ sáng và nhân viên lễ tang gõ cửa lúc mười giờ. Không sớm hay muộn một giây. Tôi hình dung nhân viên ấy đã đứng yên trước cửa nhà chúng tôi cả vài phút, nhìn đồng hồ, chờ đợi cuộc đời chúng tôi hội tụ tại đúng rãnh đứt gãy, nơi quá khứ chúng tôi có thể tách rời khỏi tương lai với ba cú đập nhẹ của miếng gõ cửa bằng đồng màu sáng.
Con trai tôi mở cửa, và đưa vào nhà bộ dạng cao nghều của nhân viên tang lễ, trang phục hoàn hảo cùng thái độ tỉnh táo của anh ta. Tôi cho rằng trong mắt mọi người, anh ta trông hệt như hình ảnh đời thường của Batman. Con trai tôi gào lên từ lối đi: Mẹ ơi, là Bruce Wayne[3]!
Sáng hôm ấy tôi bước ra đường và đứng đó, nhìn quan tài của Andrew qua lớp cửa kính dày màu xanh lá nhạt của xe tang. Khi Ong Nhỏ bước ra đứng cùng tôi, nắm tay Batman, nhân viên tang lễ đưa chúng tôi đến một chiếc limousine dài màu đen rồi gật đầu với chúng tôi. Tôi bảo anh ta chúng tôi muốn đi bộ.
Trông chúng tôi như được ghép vào nhau bằng Photoshop, ba người chúng tôi, đi đến đám tang của chồng tôi. Một bà mẹ da trắng tầng lớp trung lưu, một cô gái tị nạn da đen gầy gò, và một hiệp sĩ bóng tối nhỏ bé từ thành phố Gotham. Trông như chúng tôi đã được cắt dán lại. Suy nghĩ trong tôi hỗn loạn, khiếp đảm và rời rạc.
Nhà thờ chỉ cách đấy vài trăm mét, và ba người chúng tôi đi bộ trên đường, phía trước chiếc xe tang, trong khi một hàng dài xe cộ giận dữ ùn ứ phía sau. Tôi cảm thấy điều đó thật khủng khiếp.
Tôi mặc váy màu xám đậm và áo khoác, đeo găng tay và mang tất đen. Ong Nhỏ mặc áo choàng đi mưa trùm bên ngoài lớp quần áo em mặc lúc ra khỏi trại giam – một chiếc áo sơ mi Hawaii không hợp với đám tang chút nào và quần jeans xanh. Mặt con trai tôi hớn hở trông thấy. Nó, Batman, đã chặn đường xe cộ. Chiếc áo choàng tung bay sau lưng khi nó sải những bước chân kiêu hãnh về phía trước, nụ cười rộng hoác từ tai này sang tai kia dưới bóng chiếc mặt nạ. Thỉnh thoảng thị lực siêu phàm của nó lại phát hiện ra một kẻ thù cần tiêu diệt, và khi chuyện này xảy ra, con trai tôi sẽ dừng lại, tấn công, rồi đi tiếp. Nó lo lắng rằng những đội quân vô hình của Puffin sẽ tấn công tôi. Tôi lo rằng con trai tôi chưa kịp đi tè trước khi ra khỏi nhà, và do vậy có thể tè dầm trong quần dơi. Tôi cũng lo lắng về việc sẽ làm góa phụ suốt đời.
Thoạt đầu tôi nghĩ mình khá can đảm khi quả quyết đòi đi bộ đến nhà thờ, nhưng giờ đây tôi cảm thấy chóng mặt và ngu ngốc. Tôi nghĩ mình sắp ngất. Ong Nhỏ nắm chặt khuỷu tay tôi và thì thầm bảo tôi hãy hít thở sâu. Tôi nhớ mình đã nghĩ, Lạ thật, khi chính cháu lại đang giúp cô đứng vững.
Trong nhà thờ, tôi ngồi ở hàng ghế đầu tiên, Ong Nhỏ ngồi bên trái và Batman ngồi bên phải tôi. Rất đông người chia buồn đến nhà thờ, đương nhiên rồi. Không có ai từ chỗ làm – tôi cố gắng tách bạch giữa cuộc đời mình với tạp chí của tôi – nhưng trừ việc đó ra, mọi người mà Andrew và tôi quen biết đều có mặt ở đó. Thật mất phương hướng, giống như yêu cầu toàn bộ những cái tên trong danh bạ điện thoại mặc trang phục màu đen rồi xuất ra thành những hàng ghế không theo thứ tự chữ cái. Họ đã tự phân loại theo những quy định bất thành văn về chia buồn, người thân ruột rà ngồi thật sát quan tài, những cô bạn gái cũ ngồi thành nhóm miễn cưỡng cạnh bình đựng nước thánh. Tôi không chịu nổi cảnh phải nhìn ra sau lưng và thấy trật tự tự nhiên mới này. Mọi việc thật quá đột ngột. Một tuần trước tôi còn là một bà mẹ đi làm thành đạt. Giờ tôi đang ngồi ở đám tang của chồng mình, tô điểm bằng một siêu anh hùng và một người tị nạn Nigeria. Giống như một giấc mơ mà người ta có thể thức dậy không mấy khó khăn. Tôi nhìn trân trối vào quan tài chồng, được rải những bông hoa huệ tây trắng. Batman nhìn vị mục sư chăm chú. Nó biểu lộ ánh mắt chấp thuận dành cho khăn choàng và áo thụng của mục sư. Nó đưa hai ngón tay cái lên tán thưởng vị mục sư ấy, sự tán thưởng giữa một hiệp sĩ tử vì đạo mặc áo choàng dành cho một hiệp sĩ tử vì đạo mặc áo choàng khác. Vị mục sư đáp trả lời chào, sau đó ngón tay cái ông đặt trở lại mép sách mạ vàng đã ngả màu của quyển Kinh thánh.
Nhà thờ trở nên im lặng, chờ đợi. Con trai tôi nhìn quanh quất, rồi nhìn lại tôi. Bố đâu ạ? Nó hỏi.
Tôi siết chặt bàn tay nóng đẫm mồ hôi của con trai, và lắng nghe tiếng ho, tiếng khịt mũi vang vọng trong nhà thờ. Tôi tự hỏi làm sao mình có thể giải thích được cái chết của chồng cho con trai. Chính sự trầm cảm đã giết chết Andrew, tất nhiên – sự trầm cảm và tội lỗi. Nhưng con trai tôi không tin vào cái chết, nói gì đến những cảm xúc thuần túy gây ra cái chết. Những tia băng của Ông Đóng băng, có thể. Sải cánh chết người của Puffin, xỉa một phát đi đời. Nhưng một cuộc điện thoại bình thường, từ một cô gái châu Phi gầy nhẳng? Thật không tài nào giải thích nổi.
Tôi nhận ra ngày nào đấy tôi sẽ phải kể toàn bộ câu chuyện này cho con trai mình. Tôi tự hỏi sẽ bắt đầu từ đâu. Chính từ hai năm trước, vào mùa hè 2005, Andrew bắt đầu trượt dài và chậm rãi vào cơn trầm cảm, để rồi cuối cùng nó đã cướp đi sinh mạng anh. Chuyện bắt đầu vào ngày đầu tiên chúng tôi gặp Ong Nhỏ, trên một bãi biển vắng vẻ ở Nigeria. Kỉ vật duy nhất tôi có từ cuộc gặp đầu tiên đó là sự ra đi của ngón giữa bàn tay trái của tôi. Cú chặt khá ngọt. Ở chỗ ngón tay tôi hiện giờ là một mẩu thịt, một ngón tay ảo từng chịu trách nhiệm gõ phím E, D và C trên bàn phím máy laptop. Tôi không thể dựa vào E, D và C được nữa. Chúng mất tích khi tôi cần đến chúng nhất. “Hài lòng” biến thành “làm ơn”. “Sự phấn khích” trở thành “ngưng trệ”.[4]
Tôi nhớ ngón tay mình nhiều nhất vào những ngày đến hạn nộp bài, khi những người kiểm tra bản thảo đã về nhà hết còn tôi đang hì hụi gõ những phần bổ sung phút chót vào tạp chí của mình. Chúng tôi từng đăng một bài xã luận trong đó tôi viết rằng tôi “cảnh giác trước những người đàn ông nhạy cảm”. Dĩ nhiên, ý tôi là “ngán ngẩm”[5], và sau hàng trăm lá thư sôi sùng sục từ những anh bạn trai sốt sắng tình cờ đọc được bài viết của tôi trên bàn cà phê của bạn gái mình (giả sử như giữa lúc mátxa lưng và rửa bát), tôi bắt đầu nhận ra tôi ngán ngẩm bản thân mình thế nào. Đó là một tai nạn đánh máy gây ra bởi một cây rựa trên một bãi biển Nigeria. Ý tôi là, người ta dùng từ gì để gọi cuộc gặp khiến ta có được một cô gái châu Phi và mất đi E, D và C? Cháu không nghĩ cô có từ nào để gọi nó trong ngôn ngữ của cô đâu. Ong Nhỏ sẽ nói như thế.
Tôi ngồi trên ghế, xoa mẩu thịt trên ngón tay mình, và nhận ra lần đầu tiên trong đời, tôi thừa nhận rằng chồng mình đã tới số kể từ ngày chúng tôi gặp Ong Nhỏ. Hai năm xen giữa đã đem lại một loạt điềm báo ngày một xấu, lên đến đỉnh điểm vào buổi sáng kinh hoàng mười ngày trước, khi tôi choàng tỉnh bởi tiếng điện thoại reo. Toàn thân tôi sởn gai ốc vì sợ. Đó là một buổi sáng bình thường trong tuần. Quyển tạp chí ấn bản tháng Sáu của tôi đã chuẩn bị ra nhà in, và bài bình luận của Andrew viết cho tờ The Times cũng sắp lên khuôn. Chỉ là một buổi sáng bình thường, nhưng những sợi lông tơ trên cánh tay tôi đã dựng đứng.
Tôi không phải tuýp phụ nữ vô lo lúc nào cũng quả quyết rằng thảm họa là từ trên trời giáng xuống. Với tôi, đã có vô số những điềm báo, vô vàn những trúc trắc nhỏ thường xuyên. Bộ râu cằm quên cạo của Andrew, chai rượu thứ hai được khui một đêm trong tuần, dùng thể bị động trong ngày thứ Sáu hạn chót. Những thái độ nhất định được xã hội này chấp nhận đã khiến cây bút bình luận này hơi lạc lối. Đó là câu cuối cùng chồng tôi viết ra. Trong chuyên mục đăng trên Times, anh luôn chính xác với từng từ viết ra. Với người thường, lạc lối có thể đồng nghĩa với hoang mang. Với chồng tôi, nó có nghĩa là một lời tạm biệt được cân nhắc.
Trong nhà thờ rất lạnh. Tôi lắng nghe mục sư nói Hỡi cái chết, nọc độc của mi ở đâu? Tôi dán mắt vào những bông hoa huệ tây và ngửi hương vị buộc tội ngọt ngào của chúng. Chúa ơi, tôi ước gì mình đã quan tâm đến Andrew nhiều hơn.
Làm sao để giải thích với con trai tôi rằng những dấu hiệu cảnh báo rất mờ nhạt? Rằng tai họa, khi đã chắc chắn vào sức mạnh của nó rồi, sẽ tự xướng lên mà gần như chẳng nhếch môi? Người ta nói rằng vào khoảnh khắc trước động đất, mây sẽ giăng kín bầu trời, gió dịu lại thành một làn hơi nóng, và chim muông dừng hót trên cây cối ở quảng trường thị trấn. Đúng, nhưng thành thật mà nói, đây cũng là những điều diễn ra trước giờ ăn trưa. Nếu chúng ta phản ứng thái quá mỗi khi cơn gió dịu lại, thì mãi mãi chúng ta sẽ nằm dưới bàn ăn trong khi thực ra nên đặt bát đĩa lên trên nó.
Liệu con trai tôi có chấp nhận đây chính là điều đã xảy ra với bố nó? Lông tay mẹ dựng đứng, Batman ạ, nhưng mẹ còn phải làm việc nhà. Mẹ không bao giờ hiểu được rằng bố sẽ thực sự làm như thế. Tất cả những gì tôi có thể nói một cách thành thật là tôi đã giật mình vì tiếng chuông điện thoại và cơ thể tôi đã dự đoán về một chuyện chưa xảy ra, dù tôi không bao giờ hình dung nổi nó lại nghiêm trọng đến thế.
Charlie vẫn còn ngủ. Andrew nhấc điện thoại trong phòng làm việc của anh lên, rất nhanh, trước khi tiếng ồn của chuông điện thoại làm thằng bé tỉnh giấc. Giọng Andrew trở nên cáu kỉnh. Tôi nghe được khá rõ từ phòng ngủ. Hãy để tôi yên, anh nói. Những chuyện đó xảy ra lâu lắm rồi và đó không phải lỗi của tôi.
Vấn đề là, chồng tôi không thật sự tin như thế.
Tôi thấy anh đang khóc. Tôi hỏi ai gọi điện, nhưng anh không nói. Rồi sau đó, vì cả hai chúng tôi đều đã dậy nhưng Charlie vẫn còn ngủ, chúng tôi làm tình. Thỉnh thoảng tôi vẫn làm việc ấy với Andrew. Chủ yếu vì anh hơn là vì tôi. Đến giai đoạn đó trong cuộc hôn nhân của chúng tôi, nó đã trở thành một hoạt động bảo trì, như xả khí khỏi máy sưởi – chỉ là một phần trong quá trình làm việc nhà. Tôi đã không biết – thật sự thì tôi vẫn không biết – ta sẽ gặp phải hậu quả kinh khủng nào nếu không xả khí máy sưởi. Đó không phải là việc mà một phụ nữ thận trọng cho phép bản thân mình phát hiện ra.
Chúng tôi không nói một lời. Tôi đưa Andrew vào phòng ngủ và nằm xuống chiếc giường dưới khung cửa sổ Georgia cao với màn lụa màu vàng. Tấm màn thêu cảnh mùa thu nhạt. Những con chim lụa nấp ở đấy trong sự im lặng sợ hãi. Đó là một buổi sáng tháng Năm chói chang ở Kingston-mạn-trên-Thames, nhưng ánh nắng xuyên qua màn cửa có màu vàng nghệ rực rỡ và đậm nét. Ánh nắng nóng hổi, tựa như cơn sốt rét. Tường phòng ngủ có màu vàng và nâu đất. Đối diện đầu cầu thang kêu cót két, phòng làm việc của Andrew có màu trắng – màu của những trang giấy trắng, trong suy nghĩ của tôi. Đó là nơi tôi tìm thấy anh, sau cú điện thoại đáng sợ. Tôi đọc vài chữ trong bài chuyên mục của anh, từ sau lưng anh. Anh đã thức suốt đêm để viết một bài bình luận về Trung Đông, khu vực mà anh chưa bao giờ đặt chân đến và cũng chẳng hề có kiến thức chuyên môn gì. Đó là mùa hè năm 2007, con trai tôi đang đánh nhau với Chim cánh cụt và Puffin, đất nước tôi đang đánh Iraq và Iran, còn chồng tôi đang định hướng công luận. Đó là kiểu mùa hè mà không ai cởi trang phục của họ ra.
Tôi lôi chồng rời khỏi điện thoại. Tôi nắm cọng tua rua trên áo ngủ của anh để lôi anh vào phòng ngủ, vì tôi đã đọc ở đâu đó rằng chiêu này có thể làm anh hưng phấn.
Tôi kéo anh xuống giường.
Tôi nhớ cách anh di chuyển bên trong tôi, như chiếc đồng hồ có kim giờ bị liệt. Tôi kéo mặt anh lên gần mặt mình và thì thầm, Ôi, Chúa ơi, Andrew, anh có sao không? Chồng tôi không trả lời. Anh chỉ nhắm nghiền mắt để ngăn nước mắt rơi ra. Chúng tôi bắt đầu chuyển động nhanh hơn khi những tiếng rên nhỏ miễn cưỡng phát ra từ miệng người này và chạy trốn vào tiếng rên của người kia trong sự tuyệt vọng không thành lời.
Giữa bi kịch nhỏ này, con trai tôi bước vào. Thằng bé đang tham gia vào cuộc chiến chống kẻ xấu ở nhà trên quy mô lớn hơn, dễ hạ gục hơn. Tôi mở mắt ra thì thấy nó đứng ở lối vào phòng ngủ, nhìn chúng tôi qua hai hốc mắt nhỏ hình thoi của chiếc mặt nạ dơi. Từ biểu lộ trên phần mặt có thể nhìn thấy được của nó, có vẻ như nó đang thắc mắc thiết bị nào (nếu có) trên chiếc đai lưng đa dụng có thể hữu ích trong tình huống này.
Khi trông thấy con trai, tôi đẩy Andrew ra khỏi người rồi quáng quàng tung chăn lên che cả hai lại. Tôi nói, Ôi, Chúa ơi, Charlie, mẹ xin lỗi.
Con trai tôi phóng mắt ra sau lưng nó, rồi nhìn lại tôi. “Charlie không có ở đây. Con là Batman.” Tôi gật đầu, và cắn môi.
“Xin chào, Batman.”
“Mẹ và bố đang làm gì đấy ạ?”
“Ơ…”
“Bố mẹ là bắt kẻ xấu phải không?”
“Bố mẹ đang bắt kẻ xấu phải không, Charlie ạ. Không phải bố mẹ là.”
“Bố mẹ đang bắt phải không?”
“Đúng rồi, Batman ạ. Đúng, chính xác là bố mẹ đang làm thế.”
Tôi mỉm cười với con trai, và chờ đợi. Tôi không biết Batman sẽ nói gì. Cuối cùng nó nói, “Có người thì ị đùn trong đồ của con, mẹ ạ.”
“Đã ị đùn, Charlie.”
“Vâng. Một đống to, thật to.”
“Ôi, Batman. Con đã ị đùn trong bộ đồ của con rồi à?”
Batman lắc đầu. Đôi tai dơi rung rung. Dưới lớp mặt nạ, một nét ranh mãnh hiện ra trên phần nhìn thấy của gương mặt.
“Không phải con ị đùn đâu. Chính là Puffin đấy.”
(Chữ in nghiêng là của nó.)
“Con định nói là Puffin đến vào buổi tối rồi ị vào bộ đồ dơi của con à?”
Batman gật đầu, vẻ nghiêm nghị. Tôi để ý thấy nó vẫn đeo mặt nạ dơi nhưng đã cởi bộ đồ dơi ra. Nó đứng trần truồng, trên người chỉ có mỗi chiếc mặt nạ và áo choàng. Nó đưa bộ đồ dơi lên cho tôi kiểm tra. Một cục gì đấy rơi ra và chạm xuống thảm.
Mùi của nó không thể diễn tả nổi. Tôi ngồi dậy trên giường và nhìn thấy một đường dài những cục rải rác băng qua tấm thảm từ cửa phòng ngủ. Ở đâu đó bên trong tôi, đứa con gái từng được điểm A môn khoa học nhận ra, với sự thích thú theo kinh nghiệm, rằng phân cũng đã tìm được đường đến những địa điểm bao gồm – nhưng không chỉ chừng ấy – hai tay của Batman, khung cửa, tường phòng ngủ, chiếc radio báo thức của tôi, và dĩ nhiên, cả bộ đồ dơi nữa. Phân của con trai tôi đang ở khắp nơi. Phân trên tay. Phân trên mặt. Thậm chí trên cả biểu tượng dơi màu vàng đen của bộ đồ dơi. Tôi cố gắng, nhưng không thể buộc mình tin được rằng đấy là phân của Puffin. Đây là phân dơi.
Tôi mơ hồ nhớ lại điều mình đã đọc trên trang làm cha mẹ.
“Không sao đâu, Batman. Mẹ không giận đâu.”
“Mẹ dọn phân đi.”
“Ừm. Ơ. Chúa ơi.”
Batman lắc đầu một cách nghiêm trọng.
“Không, không phải Chúa. Mẹ.”
Sự bực dọc đã bắt đầu vượt qua cảm giác ngượng ngùng và tội lỗi. Tôi nhìn sang Andrew, anh đang nằm nhắm mắt, hai bàn tay đan chặt vào nhau trước sự khủng khiếp tột độ từ cơn trầm cảm lâm sàng của anh, cuộc mây mưa bất hạnh bị gián đoạn của chúng tôi, và mùi xú uế nồng nặc của phân.
“Batman, sao con không nhờ bố tắm rửa cho con?”
Con trai tôi nhìn qua bố nó một lúc lâu, rồi quay sang nhìn tôi. Hết sức kiên nhẫn, như thể đang giải thích điều gì đó cho một kẻ khờ khạo, nó lắc cái đầu nhỏ của mình lần nữa.
“Nhưng sao lại không?” (lúc này tôi đang cầu khẩn). “Sao không nhờ bố?”
Batman trông có vẻ nghiêm trang. “Bố đang đánh kẻ xấu,” nó nói. Ngữ pháp chuẩn không cần chỉnh. Tôi nhìn sang bố nó, và thở dài. “Đúng, mẹ nghĩ con nói đúng.”
Năm ngày sau, vào buổi sáng cuối cùng tôi thấy chồng mình còn sống, tôi đã mặc xong quần áo cho chàng hiệp sĩ áo choàng của mình, rồi cho con ăn sáng, và dắt nó đến câu lạc bộ Những Con chim Dậy sớm ở trường mẫu giáo. Trở về nhà, tôi đi tắm. Andrew ngắm tôi khi tôi mang tất. Tôi luôn ăn mặc cầu kỳ vào những ngày báo sắp đi in. Giày cao gót, váy, áo khoác màu xanh lá cây. Việc xuất bản tạp chí có những nhịp điệu riêng, nếu một tổng biên tập không thể nhảy theo đúng nhịp thì không thể trông chờ nhân viên của mình làm thế. Tôi không thể làm bay bổng những ý tưởng về bài phóng sự khi đi giày cao gót Fendi, và tôi không hoàn tất một kì báo khi mang giày Puma. Vì thế tôi hối hả mặc quần áo trong lúc Andrew nằm khỏa thân trên giường và ngắm tôi. Anh không nói một lời. Lần cuối tôi nhìn anh, trước khi đóng cửa phòng ngủ, anh vẫn đang ngắm tôi. Làm sao để giải thích cho con trai tôi nét mặt nhìn thấy lần cuối của bố nó? Tôi quyết định sẽ kể cho con trai tôi rằng bố nó đã mang nét mặt bình yên. Tôi quyết định sẽ không kể cho nó nghe rằng chồng tôi đã mở miệng để nói gì đó, nhưng tôi đang muộn giờ và đã quay lưng đi.
Tôi đến văn phòng lúc khoảng 9 giờ 30 sáng. Tòa soạn đặt tại Spitalfields, trên phố Thương mại, cách Kingston-mạn-trên-Thames chín mươi phút bằng phương tiện công cộng. Thời khắc tồi tệ nhất đến khi bạn rời khỏi hệ thống trên mặt đất và bước xuống trung tâm của Thế giới dưới lòng đất. Có hai trăm người chen chúc nhau trong mỗi toa tàu. Chúng tôi lắng nghe tiếng rít của bánh xe kim loại trên đường ray trong khi cơ thể mình bị ghìm chặt và bất động. Suốt ba chặng liền tôi bị ép vào một người đàn ông gầy gò mặc áo khoác nhung kẻ trông khá ủ rũ. Người khác thường sẽ nhìn lảng đi, nhưng đầu tôi bị đặt ở vị trí mà tôi chỉ có thể nhìn. Lẽ ra tôi nên khoác một cánh tay qua người đàn ông đó – thậm chí chỉ một cái chạm tay thông cảm lên vai ông ấy cũng đã đủ. Nhưng hai tay tôi bị kẹt cứng giữa những hành khách đứng hai bên. Có thể một số người cũng muốn đưa tay ra chạm người đàn ông ấy, nhưng tất cả chúng tôi bị ép chặt đến nỗi chẳng thể động đậy gì. Số người có thiện chí quá ít ỏi khiến cho lòng trắc ẩn trở nên kì quặc. Một người trong số chúng tôi đã có thể đẩy những người khác ra, và nêu gương cho những người còn lại, một việc hoàn toàn không hề giống người Anh. Tôi không chắc mình muốn thể hiện sự dịu dàng như thế, trên một chuyến tàu đông người, dưới ánh mắt im lặng của người khác. Thật kinh khủng khi tôi không giúp người đàn ông ấy, nhưng tôi bị giằng xé giữa hai cảm giác hổ thẹn. Một mặt, sự xấu hổ khi không thể hiện nghĩa vụ của con người. Mặt khác, sự điên rồ của việc làm người đầu tiên trong đám đông chuyển động.
Tôi mỉm cười bất lực trước người đàn ông ủ rũ, lòng không thôi nghĩ về Andrew.
Tất nhiên, ngay khi vừa lên đến mặt đất, người ta có thể nhanh chóng quên đi những nghĩa vụ con người của mình. London là một cỗ máy xinh đẹp để làm điều ấy. Thành phố thật tươi sáng, trong lành và mời gọi vào sáng hôm đó. Tôi rất phấn khích vì sắp hoàn tất số báo tháng Sáu, và thực sự đã chạy bộ trong hai phút cuối đến tòa soạn. Bên ngoài tòa nhà là tên của tạp chí, NIXIE, bằng chữ đèn neon màu hồng cao gần một mét. Tôi đứng bên ngoài một lúc, hít sâu vài lần. Không khí lặng như tờ, bạn có thể nghe tiếng đèn neon kêu lách tách trên tiếng ầm ầm của xe cộ. Tôi đứng đặt một tay lên cửa và thắc mắc Andrew định nói gì, ngay trước khi tôi ra khỏi nhà.
Chồng tôi hiếm khi không tìm được từ để nói. Những khoảnh khắc im lặng kéo dài chỉ bắt đầu vào ngày chúng tôi gặp Ong Nhỏ. Trước đó, anh không bao giờ hạ giọng dù chỉ một phút. Trong tuần trăng mật, chúng tôi đã nói và nói liên tục. Chúng tôi ở trong một căn villa nhìn ra biển, uống rượu rum với nước chanh và nói nhiều đến nỗi tôi thậm chí chẳng biết nước biển có màu gì. Mỗi khi tôi cần dừng lại và nhắc mình nhớ tôi từng yêu Andrew đến nhường nào, tôi chỉ cần nghĩ về chuyện này. Rằng đại dương bao phủ bảy phần mười bề mặt trái đất, vậy mà chồng tôi có thể khiến tôi không chú ý đến nó. Anh đã to lớn với tôi đến thế đấy. Khi chúng tôi trở về căn hộ uyên ương ở Kingston, tôi hỏi Andrew về màu của nước biển trăng mật đó. Anh nói, Ừ, nó màu xanh phải không? Tôi nói, Thôi nào, Andrew, anh là chuyên gia mà, anh giỏi hơn thế. Và Andrew nói, Thôi được, sắc thắm tuyệt diệu của đại dương nằm ở sự diễm lệ của màu xanh biếc tô điểm với màu đỏ thắm và vàng ươm khi mặt trời óng ả dát trên đầu sóng và đẩy chúng xuống những khoảng tối giữa hai ngọn sóng, biến thành màu chàm sẫm rợn người.
Anh ngân ở âm áp chót, nhấn giọng một cách hoa mỹ kiểu cách ngay cả khi nhướn chân mày. CHÀM-sẫm, giọng anh âm vang.
Dĩ nhiên em biết tại sao anh không màng gì đến biển mà? Đó là vì anh đã dành trọn hai tuần với cái đầu anh…
Chà, cái đầu anh ở đâu thì là chuyện riêng giữa tôi và anh.
Cả hai chúng tôi đều cười khúc khích không ngừng được và lăn lộn trên giường, và Charlie, Charlie yêu dấu, đã hình thành mầm sống.
Tôi đẩy cánh cửa mặt tiền rồi bước vào sảnh đợi của tòa soạn. Sàn nhà lót đá hoa cương Ý màu đen là nét tao nhã duy nhất còn sót lại sau những năm tháng thuê mướn văn phòng của chúng tôi. Phần còn lại của sảnh đợi thuần túy mang phong cách của tờ tạp chí. Những thùng áo mẫu từ các công ty thời trang muốn được nổi tiếng chất chồng lên nhau dọc một bức tường. Một nhân viên tập sự nào đấy đã phân loại chúng bằng bút lông màu xanh nét to: GIỮ ĐỂ CHỤP ẢNH, hoặc Ồ TÔI NGHĨ LÀ KHÔNG, hoặc một lời khẳng định thẳng thừng ĐÂY KHÔNG PHẢI LÀ THỜI TRANG. Một cây bách xù Nhật khô cắm trong một chiếc lọ Otagiri vàng bị nứt. Trên cây vẫn còn treo lủng lẳng ba món đồ trang trí Giáng sinh lòe loẹt. Các bức tường được trang trí bằng hoa vân anh và đèn chớp tắt, và ngay cả trong ánh sáng tù mù từ những ô cửa kính nhuộm màu nhìn ra phố Thương Mại, lớp sơn ấy trông vẫn rõ nét và màu mè. Tôi đã nuôi dưỡng phong cách phóng túng này. Chúng tôi không mong Nixie trông giống những tạp chí dành cho nữ giới khác. Hãy cứ để họ giữ sảnh đợi sạch không tì vết và những chiếc ghế Eames đỏm dáng. Khi phải đưa ra những quyết định tòa soạn, tôi thà có một dàn nhân viên sáng láng và một sảnh đợi tù mù.
Clarissa, chủ biên mảng phóng sự của tôi, bước qua những cánh cửa ngay sau lưng tôi. Chúng tôi hôn nhau một, hai, ba lần – bạn bè từ thời đi học mà – và cô nàng cặp tay tôi khi cả hai đi bộ lên cầu thang. Tầng tòa soạn nằm ngay trên cùng của tòa nhà. Đi được nửa đường tôi mới nhận ra có gì đó không ổn ở Clarissa.
“Clarissa, cậu đang mặc quần áo của ngày hôm qua.”
Cô nàng cười ranh mãnh. “Thì cậu cũng sẽ như thế, nếu cậu gặp anh chàng hôm qua.”
“Ôi, Clarissa. Tớ phải làm gì với cậu bây giờ?”
“Tăng lương, cà phê mạnh, paracetamol.”
Cô cười tươi trong lúc điểm các yêu sách trên mấy ngón tay. Tôi tự nhắc mình rằng Clarissa không có những điều tuyệt vời nhất mà tôi có trong đời, ví dụ như Batman, cậu con trai đẹp đẽ của tôi, và vì thế cô hầu như chắc chắn là cảm thấy kém mãn nguyện hơn tôi.
Ngày làm việc hôm đấy của các nhân viên cấp dưới bắt đầu lúc 10 giờ 30 sáng, phúc cho họ, ấy vậy mà vẫn chưa có ai đến. Trên tầng tòa soạn, các nhân viên lao công vẫn còn làm việc. Họ đang hút bụi, lau chùi máy tính để bàn, và lật ngược toàn bộ những bức ảnh lồng khung các anh chàng bạn trai của nhân viên tôi, để chứng tỏ họ đã lau bụi phía dưới. Đây là phần nhe-răng-cười-và-chịu-đựng của việc biên tập tờ Nixie. Tại Vogue hoặc Marie Claire, những thư kí tòa soạn sẽ có mặt tại bàn làm việc lúc tám giờ, mặc đồ hiệu Chloé và nhấm nháp trà xanh. Nhưng bù lại, họ sẽ không nán lại lúc đêm hôm khuya khoắt để viết CECI N’EST PAS PRÊT-À-PORTER[6] lên thùng hàng mẫu mà họ sắp gửi trả lại cho một công ty thời trang Paris danh giá.
Clarissa ngồi ở góc bàn của tôi còn tôi ngồi vào bàn, chúng tôi nhìn ra phòng làm việc không vách ngăn nơi đội quân những khuôn mặt màu đen đang làm biến mất những mẫu vải sợi và những tách cà phê Starbucks của ngày hôm qua.
Chúng tôi bàn luận về số báo sắp hoàn tất. Nhân viên phòng quảng cáo đã làm tốt bất thường vào tháng đó – có lẽ sự tăng giá chóng mặt của các loại thuốc cấm đã khiến họ dành nhiều thời gian ở công sở hơn – và chúng tôi nhận ra có nhiều bài vở hơn là trang bỏ trống. Tôi có một bài phóng sự cho mục “Đời sống thật” mà tôi thực sự nghĩ rằng nên được đăng – kí sự nhân vật về một người phụ nữ tìm cách thoát khỏi Baghdad – và Clarissa có một bài về kiểu cực khoái mới mà bạn chỉ có thể đạt được với sếp của mình. Chúng tôi thảo luận nên đăng bài nào. Đầu óc tôi chẳng mấy tập trung. Tôi nhắn tin cho Andrew, để xem anh thế nào rồi.
Màn hình phẳng ở cuối tầng của chúng tôi đang mở kênh Tin tức 24 của BBC với âm thanh vặn nhỏ. Họ đang phát một đoạn phim về chiến tranh. Khói bốc lên từ một trong những đất nước dính vào cuộc chiến. Đừng hỏi tôi đó là nước nào – đến lúc đó tôi đã chẳng còn biết đầu đuôi gì nữa. Cuộc chiến đã kéo dài bốn năm. Nó bắt đầu vào đúng tháng mà con trai tôi ra đời, và cả hai đã lớn lên cùng nhau. Thoạt tiên cả hai đều gây sốc mạnh và đòi hỏi sự chú ý liên tục, nhưng sau từng năm, chúng trở nên tự chủ hơn và ta có thể rời mắt khỏi chúng trong những khoảng thời gian dài. Đôi khi một sự kiện đặc biệt có thể khiến tôi nhìn đứa này hoặc đứa kia một chút – con trai tôi, hoặc cuộc chiến – với toàn bộ sự chú ý, và đôi khi những lúc thế này tôi lại nghĩ, Chúa ơi, con không chịu lớn hay sao?
Tôi rất muốn biết làm thế nào để đạt kiểu cực khoái mới này. Tôi ngước khỏi bài viết.
“Tại sao cậu chỉ có thể đạt cực khoái kiểu này với sếp?”
“Nó giống như trái cấm ấy, đúng không? Cậu sẽ có thêm một cơn rùng mình vì đã phạm điều cấm kị chốn công sở. Từ hormone đến chất dẫn truyền thần kinh và những thứ như thế. Cậu biết đấy. Khoa học mà.”
“Ừm. Thế các nhà khoa học có thật sự chứng minh được điều này chưa?”
“Đừng lôi sách vở ra đây, Sarah ạ. Chúng ta đang nói về một lĩnh vực khoái cảm tình dục hoàn toàn mới. Chúng ta sẽ gọi nó là điểm B, như trong từ boss[7] ấy. Cậu hiểu vấn đề chưa?”
“Tài thật!”
“Cảm ơn cậu. Chúng ta đều cố gắng mà.”
Tôi miên man nghĩ đến những người phụ nữ trên khắp đất nước được các giám đốc trung niên mặc complet với đũng quần bóng lộn làm cho thỏa mãn. Trên màn hình phẳng, Tin tức 24 đã mở rộng từ Trung Đông sang châu Phi. Bối cảnh khác, cột khói đen khổng lồ vẫn giống. Một đôi mắt hằn học nhìn ra với sự thụ động hệt như thái độ Andrew đã thể hiện, ngay trước khi tôi quay lưng để đi làm. Lông tay tôi lại dựng đứng. Tôi nhìn đi chỗ khác, rồi bước ba bước đến khung cửa sổ nhìn xuống phố Thương mại. Tôi tựa trán vào kính, một việc tôi vẫn thường làm khi cố gắng suy nghĩ.
“Cậu không sao chứ, Sarah?”
“Tớ không sao. Nghe này, hãy làm búp bê dễ thương và đi lấy cà phê cho chúng ta, được không?”
Clarissa đi đến máy pha cà phê đẳng cấp cao của chúng tôi, loại máy có thể trở thành một phòng trà trong nhà ở các văn phòng của Vogue. Phía dưới, trên phố Thương mại, một chiếc xe tuần tra của cảnh sát dừng lại và đỗ ở hai vạch vàng trước tòa nhà chúng tôi. Một sĩ quan cảnh sát mặc sắc phục bước ra từ mỗi bên cửa xe. Họ nhìn nhau qua nóc xe. Một người có mái tóc húi vàng hoe, người kia có một khoanh tóc quanh đỉnh đầu vừa tròn vừa gọn gàng hệt như tóc tu sĩ. Tôi nhìn ông nghiêng đầu để nghe máy bộ đàm đeo trên ve áo. Tôi mỉm cười, nghĩ bâng quơ đến một dự án mà Charlie đang thực hiện ở nhà trẻ: “Cảnh sát: Những người giúp đỡ chúng ta”. Con trai tôi – khỏi cần giải thích – tuyệt đối không tin vào điều đó. Luôn trong tình trạng báo động cao trong chiếc áo choàng và mặt nạ dơi, Charlie tin rằng toàn thể công dân phải sẵn sàng để tự cứu mình.
Clarissa quay lại với hai cốc latte bốc mùi nhựa. Trong một cốc, chiếc máy pha cà phê đã cắm sẵn một thìa khuấy bằng nhựa acrylic trong. Trong cốc kia, nó đã biểu quyết không làm thế. Clarissa do dự không biết nên đưa cốc nào cho tôi.
“Quyết định tòa soạn lớn đầu tiên trong ngày,” cô nói.
“Dễ ợt. Tớ là sếp. Đưa tớ cốc có thìa khuấy.”
“Thế nếu tớ không đưa thì sao?”
“Thì chúng ta có thể sẽ không bao giờ tính đến chuyện xác định điểm B của cậu, Clarissa ạ. Tớ báo trước rồi đấy.”
Clarissa nhợt mặt đi, đưa cho tôi cốc cà phê có thìa khuấy. Tôi nói, “Tớ thích bài Baghdad.” Clarissa thở dài, xụi vai.
“Tớ cũng thế, Sarah ạ, đương nhiên là tớ cũng thích. Đó là một bài rất hay.”
“Năm năm trước, chúng ta nhất định đã đăng bài đó. Không cần bàn cãi.”
“Năm năm trước lượng phát hành của chúng ta quá thấp nên mới phải đánh liều.”
“Và chúng ta đã lớn mạnh như thế – bằng cách khác biệt. Đó là chúng ta.”
Clarissa lắc đầu. “Trở nên lớn mạnh khác với luôn luôn lớn mạnh. Cậu cũng biết rõ như tớ, chúng ta không thể cứ đăng những câu chuyện đạo đức trong khi các tạp chí lớn khác đang bán báo bằng sex.”
“Nhưng cậu nghĩ tại sao độc giả của chúng ta ngày một ngu ngốc hơn?”
“Không phải thế. Tớ nghĩ các độc giả cũ của chúng ta không còn đọc tạp chí nữa, chỉ thế thôi. Họ chuyển sang những thứ cao cấp hơn, cậu có thể cũng sẽ như thế nếu cậu cũng tham gia cuộc chơi khốc liệt này. Có lẽ cậu không nhận ra cậu lớn mạnh thế nào, Sarah ạ. Công việc tiếp theo của cậu có thể là làm biên tập tại một tờ báo quốc gia.”
Tôi thở dài. “Thú vị thật. Tớ có thể đăng hình những cô nàng ngực trần lên tất cả các trang.”
Ngón tay bị mất của tôi ngứa ngáy. Tôi nhìn xuống chiếc xe tuần tra của cảnh sát. Hai sĩ quan đang đội mũ lên. Tôi gõ điện thoại di động vào răng cửa của mình.
“Làm việc xong chúng ta đi uống rượu đi, Clarissa. Đem theo cả anh chàng mới rợi kia nếu cậu thích. Tớ sẽ đưa Andrew đi.”
“Thật á? Ở chốn công cộng á? Với chồng cậu? Chẳng phải việc đấy xảy ra từ tận mùa trước sao?”
“Thật ra là từ tận năm năm trước rồi.” Clarissa nghiêng đầu nhìn tôi.
“Cậu đang định nói gì đấy, Sarah?”
“Tớ chẳng định nói gì cả, Clar. Tớ quá quý cậu đến nỗi không nói nên lời. Tớ chỉ đang tự vấn lương tâm, thật đấy. Tớ đang tự hỏi biết đâu những lựa chọn tớ đưa ra năm năm trước thật ra không đến nỗi tệ lắm thì sao.”
Clarissa mỉm cười nhẫn nại. “Được thôi. Nhưng đừng nghĩ tớ sẽ không đặt tay lên đùi anh ấy dưới bàn, chỉ vì anh ấy là chồng cậu.”
“Cậu mà làm thế, tớ sẽ cho cậu làm biên tập viên cấp dưới của mục Tử vi cả đời đấy, Clarissa ạ.”
Điện thoại trên bàn tôi vang lên. Tôi nhìn đồng hồ trên màn hình. 10 giờ 25 sáng. Thật lạ khi những chi tiết này ám ảnh ta. Tôi nhấc ống nghe, quầy tiếp tân gọi, giọng chán như cơm nguội. Tại Nixie, chúng tôi dùng quầy tiếp tân như thùng rác tội lỗi – nếu một cô nàng trở nên quá đỏng đảnh ở tầng tòa soạn, chúng tôi sẽ chuyển cô ta xuống ngồi ở chiếc bàn bóng lộn nhất trụ sở trong một tuần.
“Có hai cảnh sát ở đây.”
“Ô. Họ vào đây à? Họ muốn gì?”
“Okay, thử nghĩ xem tại sao tôi lại bấm số của chị.”
“Họ muốn nói chuyện với tôi ư?”
“Chẳng hiểu sao người ta cho chị lên làm sếp nữa, Sarah.”
“Mẹ kiếp. Tại sao họ muốn nói chuyện với tôi?” Im lặng.
“Tôi có thể hỏi họ, chắc vậy.”
“Nếu không quá phiền.” Im lặng lâu hơn.
“Họ nói muốn quay phim khiêu dâm trong văn phòng. Họ nói họ không phải là cảnh sát thật và con giống của họ to khủng khiếp.”
“Ôi, Chúa ơi. Bảo họ tôi xuống ngay.”
Tôi gác máy và nhìn Clarissa. Lông tay tôi lại dựng đứng. “Là cảnh sát,” tôi nói.
“Bình tĩnh,” Clarissa đáp. “Họ không thể bắt cậu vì âm mưu đăng một bài phóng sự nghiêm túc.”
Sau lưng cô, màn hình phẳng đang phát hình Jon Stewart[8]. Ông ấy đang cười. Khách của ông ấy cũng đang cười. Tôi cảm thấy khá hơn. Mùa hè năm ấy, bạn phải tìm chuyện gì đấy để cười về số nơi bị đốt cháy. Bạn cười, hoặc là bạn mặc trang phục siêu anh hùng, hoặc bạn thử một kiểu cực khoái mà khoa học chẳng hiểu sao đã bỏ lỡ.
Tôi bước vội trên cầu thang bộ xuống sảnh đợi. Hai viên cảnh sát đang đứng sát rạt nhau, với mũ trong tay và những đôi giày da bự chảng, bền chắc dận trên sàn đá hoa cương của tôi. Người trẻ hơn có khuôn mặt đỏ lựng.
“Thành thật xin lỗi,” tôi nói và liếc qua nhân viên tiếp tân. Cô ta nhe răng cười lại với tôi từ dưới mái tóc vàng hoe rẽ ngôi.
“Sarah O’Rourke?”
“Summers.”
“Xin bà thứ lỗi?”
“Sarah Summers là tên đi làm của tôi.”
Viên cảnh sát lớn tuổi hơn nhìn tôi vẻ lạnh nhạt.
“Đây là chuyện riêng tư, thưa bà O’Rourke. Chúng ta có thể đi đâu để nói chuyện không?”
Tôi dẫn họ đến phòng họp ở tầng một. Tông màu hồng và tím, bàn kính dài, nhiều đèn neon hơn.
“Các anh uống cà phê nhé? Hay là trà? Ý tôi là, tôi không thể đảm bảo tuyệt đối nó sẽ cho ra cà phê hay trà. Cái máy của chúng tôi khá là…”
“Có lẽ bà nên ngồi xuống, thưa bà O’Rourke.”
Gương mặt của hai viên cảnh sát sáng lên bất thường dưới ánh đèn màu hồng. Trông họ như những người đàn ông trong phim trắng đen, được tô màu bằng máy tính. Người lớn tuổi hơn, là người có khoanh tóc hói, khoảng bốn mươi lăm. Người trẻ hơn, người có mái tóc vàng hoe cắt ngắn, có thể hai mươi mốt hoặc hai mươi tư. Môi đẹp. Đầy đặn và trông khá mọng. Cậu ta không đẹp, nhưng tôi bị hút hồn trước dáng đứng và cách cậu ta nhìn xuống thành kính trong lúc nói chuyện. Và dĩ nhiên lúc nào cũng có điều gì đó liên quan đến bộ sắc phục. Tôi nghĩ ta thường tự hỏi liệu những phép tắc có bị cởi ra cùng với chiếc áo khoác cảnh sát hay không.
Hai người đặt mũ lên mặt kính màu tím khói. Họ xoay tròn mũ bằng những ngón tay trắng muốt. Cả hai đều dừng lại chính xác cùng thời điểm, tựa như đạt được chính xác một góc quan trọng mà họ đã luyện tập trong khóa huấn luyện cơ bản.
Họ nhìn tôi chăm chú. Điện thoại di động của tôi réo ầm ĩ trên mặt bàn kính – có tin nhắn mới. Tôi mỉm cười. Hẳn là của Andrew.
“Tôi có tin xấu cho bà, thưa bà O’Rourke,” viên cảnh sát lớn tuổi hơn nói.
“Ý anh là sao?”
Tình hình trở nên căng thẳng hơn là tôi hình dung. Hai viên cảnh sát dán mắt vào mũ của họ trên bàn. Tôi cần đọc tin nhắn điện thoại mới nhận được. Khi tôi với tay chạm điện thoại, tôi thấy hai người nhìn vào mẩu thịt chỗ ngón tay bị mất của tôi.
“Ồ. Cái này à? Tôi mất nó trong một kì nghỉ. Thật ra là trên bãi biển.”
Hai người cảnh sát nhìn nhau rồi quay sang nhìn tôi. Người lớn tuổi hơn lên tiếng. Giọng của ông chợt trở nên khô khốc.
“Chúng tôi rất lấy làm tiếc, thưa bà O’Rourke.”
“Ồ, xin các anh, đừng như thế. Không sao đâu, thật đấy. Giờ tôi ổn rồi. Chỉ là một ngón tay thôi mà.”
“Ý tôi không phải vậy, bà O’Rourke. Tôi e rằng chúng tôi được lệnh phải báo với bà là…”
“Nhìn xem, thật lòng mà nói, các anh sẽ quen với việc mất ngón tay này. Thoạt đầu các anh nghĩ chuyện rất to tát, rồi sau đó các anh học được cách dùng bàn tay kia.”
Tôi ngước lên và thấy hai người đang nhìn tôi, mặt xám ngoét và nghiêm trọng. Đèn neon kêu lách tách. Trên chiếc đồng hồ treo tường, một phút mới chớp lấy phút cũ.
“Điều thật sự buồn cười là, tôi vẫn cảm nhận được nó, các anh biết không? Ý tôi là, ngón tay tôi ấy. Cái ngón bị mất này này. Đôi khi nó ngứa ơi là ngứa. Tôi phải gãi nó và dĩ nhiên ở đấy chẳng có gì cả. Trong mơ, ngón tay tôi mọc lại, tôi vui sướng quá đỗi khi lại có nó, dù tôi đã học được cách dùng bàn tay thiếu ngón. Thật ngốc nghếch nhỉ, các anh thấy không? Nó biết ngứa.”
Viên cảnh sát trẻ hít thật sâu rồi nhìn xuống sổ tay của mình.
“Chồng bà được phát hiện bất tỉnh tại tư gia của ông bà ngay sau chín giờ sáng nay, thưa bà O’Rourke. Hàng xóm của bà nghe tiếng kêu và gọi 999 để báo tin có một người đàn ông dường như gặp sự cố. Cảnh sát đã đến địa chỉ đó và phá cửa vào phòng trên lầu lúc chín giờ mười lăm, và thấy ông Andrew O’Rourke bất tỉnh. Các sĩ quan của chúng tôi đã làm hết sức trong khả năng và một chiếc xe cấp cứu đã đến đưa nạn nhân đi nhưng tôi thật lòng lấy làm tiếc phải nói với bà, thưa bà O’Rourke, rằng chồng bà đã được tuyên bố qua đời tại hiện trường lúc… à đây rồi, chín giờ ba mươi phút sáng.”
Viên cảnh sát đóng quyển sổ lại. “Chúng tôi rất tiếc, thưa bà.”
Tôi cầm điện thoại lên. Tin nhắn mới đúng là đến từ Andrew. RẤT XIN LỖI, tin nhắn viết.
Anh ấy xin lỗi.
Tôi chuyển điện thoại, và bản thân, sang chế độ im lặng. Sự im lặng kéo dài suốt tuần. Nó sôi ùng ục trong chiếc taxi về nhà. Nó rống lên khi tôi đón Charlie từ nhà trẻ. Nó vỡ vụn trong cuộc điện thoại cho bố mẹ tôi. Nó gào thét trong tai tôi khi nhân viên tang lễ so sánh những ích lợi của quan tài bằng gỗ sồi và gỗ thông. Nó hắng giọng vẻ xin lỗi khi biên tập viên mục cáo phó của tờ The Times gọi điện để kiểm tra một số chi tiết cuối cùng. Giờ thì sự im lặng đã theo tôi vào trong nhà thờ lạnh lẽo, vang vọng này.
Làm sao để giải thích cái chết cho một siêu anh hùng bốn tuổi? Làm sao để tuyên bố sự xuất hiện đột ngột của nỗi buồn đau? Bản thân tôi thậm chí còn chưa chấp nhận được nó. Khi cảnh sát nói với tôi rằng Andrew đã chết, tâm trí tôi từ chối chứa nhận thông tin đó. Tôi nghĩ mình là một người phụ nữ rất bình thường, và tôi được trang bị khá tốt để đương đầu với cái xấu mỗi ngày. Tình dục bị gián đoạn, những quyết định tòa soạn khó khăn và máy pha cà phê hỏng – những việc này đầu óc tôi có thể sẵn sàng chấp nhận. Nhưng còn Andrew của tôi, đã chết? Việc đó dường như vẫn không thể nào xảy ra được. Đã có lúc, anh từng bao phủ bảy phần mười diện tích trái đất cơ mà.
Vậy mà tôi lại ở đây, nhìn trân trối vào quan tài gỗ sồi trơn của Andrew (Một sự lựa chọn cổ điển, thưa bà), trông nó khá nhỏ bé trong gian giữa giáo đường rộng lớn của nhà thờ. Một giấc mơ im lặng, bệnh hoạn.
Mẹ ơi, bố đâu rồi?
Tôi ngồi ở hàng ghế đầu của nhà thờ, vòng tay ôm con trai, và nhận ra mình đã bắt đầu run cầm cập. Mục sư đang đọc điếu văn. Ông đang nói về chồng tôi ở thì quá khứ. Bài điếu văn được ông đọc thật súc tích. Tôi chợt nhận ra ông chưa bao giờ gặp gỡ Andrew ở thì hiện tại, hoặc đọc lại các bài viết của anh, hoặc cảm thấy anh đang chết lịm trong lòng như một món đồng hồ hỏng.
Charlie ngọ nguậy trong tay tôi và lặp lại câu hỏi, vẫn là câu mà nó đã hỏi mười lần một ngày từ khi Andrew chết. Mẹ ơi, bố con bây giờ ở đâu? Tôi cúi xuống tai con thì thầm, Sáng nay bố đã ở một nơi rất đẹp trên thiên đường, Charlie ạ. Có một căn phòng dài rất đẹp mà mọi người đều đến sau khi ăn sáng, với rất nhiều sách và những việc thú vị để làm.
“Ồ. Có vẽ-và-sơn không ạ?”
“Có, có vẽ-và-sơn.”
“Bố của con có đang vẽ không?”
“Không, Charlie ạ, bố đang mở cửa sổ và nhìn lên trời.”
Tôi rùng mình, tự hỏi sẽ còn phải tiếp tục kể câu chuyện sau cái chết của chồng mình đến bao giờ nữa.
Thêm nhiều lời nói, rồi đến các bài thánh ca. Những bàn tay nắm khuỷu tay tôi dẫn ra ngoài. Tôi quan sát bản thân mình đứng trong nghĩa trang cạnh một cái hố sâu hoắm trên mặt đất. Sáu nhân viên tang lễ mặc complet đang hạ quan tài bằng những sợi dây thừng bằng lụa màu xanh lá cây đậm với các đầu dây tua rua. Tôi nhận ra nó chính là chiếc quan tài đã dựng trên giá đỡ ở trước nhà thờ. Chiếc quan tài chạm đáy. Những nhân viên tang lễ thu dây thừng lại, mỗi người với một cú lắc nhẹ cổ tay khéo léo. Tôi nhớ mình đã nghĩ, Đảm bảo là họ đã làm việc này nhiều lần, như thể đó là một nhận định sáng lạn lắm. Ai đó nhét một nắm đất vào tay tôi. Tôi nhận ra mình đang được mời – thậm chí là bị giục – ném nó xuống hố. Tôi bước đến miệng hố. Cỏ xanh gọn gàng, sạch sẽ đã được trồng quanh đường viền mộ. Tôi nhìn xuống thấy chiếc quan tài tỏa sáng yếu ớt dưới đất sâu. Batman nắm chặt chân tôi và hé mắt nhìn xuống mộ với tôi.
“Mẹ ơi, tại sao những chú Bruce Wayne ấy lại đặt chiếc hộp xuống cái hố?”
“Tạm thời ta khoan nghĩ về việc đấy nhé, con yêu.”
Tôi dành quá nhiều thời gian giải thích về thiên đường cho Charlie trong tuần đó – mọi căn phòng cùng kệ sách và hố cát trong đó – đến nỗi tôi chẳng bao giờ thực sự đương đầu với vấn đề về con người bằng xương bằng thịt của Andrew cả. Tôi nghĩ đòi hỏi con trai mình, ở tuổi lên bốn, phải hiểu về sự tách lìa giữa thể xác và linh hồn là điều quá mức. Giờ đây nghĩ lại, tôi cho rằng mình đã đánh giá thấp cậu con trai có thể sống đồng thời ở Kingston-mạn-trên-Thames và thành phố Gotham. Tôi nghĩ nếu mình cố gắng bắt con ngồi xuống và giải thích với nó một cách dịu dàng, thì hẳn nó sẽ hoàn toàn bằng lòng với thực tế hai mặt đó.
Tôi quỳ xuống, choàng hai tay qua vai con, cố tỏ ra dịu dàng, nhưng đầu óc cứ quay cuồng và tôi nhận ra có lẽ chỉ Charlie mới là người giữ tôi không rơi xuống hố. Tôi nắm chặt hơn. Charlie kề miệng vào tai tôi thì thầm, “Bây giờ bố con ở đâu?”
Tôi thì thầm đáp lại, “Bố con đang ở trên những ngọn đồi ở thiên đường, Charlie ạ. Rất đông người vào thời điểm này trong năm. Mẹ nghĩ bố rất hạnh phúc ở đó.”
“Mmm. Bố sẽ sớm về chứ?”
“Không, Charlie ạ. Người ta không trở về từ thiên đường. Chúng ta đã nói về việc đó rồi mà.”
Charlie dẩu môi. “Mẹ,” nó lại nói, “tại sao người ta đặt cái hộp xuống đấy?”
“Mẹ nghĩ là họ muốn giữ cho nó an toàn.”
“Ồ, họ có định đến lấy nó sau không?”
“Không, Charlie ạ, mẹ không nghĩ vậy.”
Charlie chớp mắt. Dưới lớp mặt nạ dơi, nó nhăn nhó cố hiểu mọi chuyện.
“Thiên đường ở đâu hở mẹ?”
“Làm ơn đi Charlie. Không phải lúc này.”
“Cái gì ở trong hộp vậy?”
“Chúng ta nói chuyện này sau, được không con yêu?
Mẹ đang cảm thấy hơi chóng mặt.”
Charlie nhìn tôi chăm chú. “Bố con có ở trong cái hộp đấy không?”
“Bố con đang ở trên thiên đường, Charlie.”
“CÁI HỘP ĐẤY CÓ PHẢI THIÊN ĐƯỜNG KHÔNG?” Charlie hỏi to.
Mọi người đều nhìn. Tôi không nói nổi. Con trai tôi nhìn trân trối xuống hố. Rồi nó ngước lên nhìn tôi với vẻ hoảng hốt cực độ.
“Mẹ ơi! Đưa bố RA! Đưa bố con ra khỏi thiên đường đi!”
Tôi siết chặt vai con. “Ôi, Charlie, làm ơn đi mà, con không hiểu đâu!”
“ĐƯA BỐ RA! ĐƯA BỐ RA!”
Con trai vùng vằng trong tay tôi và thoát ra. Sự việc xảy ra rất nhanh. Nó đứng sát bên miệng hố. Nó ngoái lại nhìn tôi, rồi quay lưng và tiến về trước, nhưng cỏ xanh mọc chồm lên miệng hố và nhượng bộ dưới chân nó, nó ngã xuống, chiếc áo choàng dơi bay phía sau, vào trong huyệt mộ. Nó hạ cánh với một ngón tay cái đặt trên đỉnh quan tài Andrew. Một tiếng thét khẩn thiết lẻ loi phát ra từ một trong những người đến đưa tang. Tôi nghĩ đó là âm thanh đầu tiên, kể từ khi Andrew chết, thật sự phá vỡ sự im lặng.
Tiếng thét vang lên không dứt trong đầu tôi. Tôi cảm thấy buồn nôn, và đường chân trời chao đảo điên loạn. Vẫn quỳ gối, tôi rướn người qua miệng hố. Sâu bên dưới, trong bóng tối, con trai tôi đang đập lên quan tài và gào thét, Bố ơi, bố ơi, ra NGOÀI đi! Nó bám chặt vào nắp áo quan, và chống đôi giày dơi lên cạnh bên của huyệt mộ, cố nhấc nó lên khỏi những cây đinh đã đóng chặt nắp quan tài. Tôi đưa hai tay vói xuống miệng hố. Tôi van nài Charlie nắm lấy tay tôi để tôi lôi nó lên, nhưng chắc nó chẳng nghe gì.
Thoạt đầu, con trai tôi hành động với một sự quả quyết không kịp thở. Dù sao đi nữa, Batman trong mùa xuân năm đó là bất khả chiến bại. Nó đã hạ Chim cánh cụt, Puffin, và Ông Đóng băng. Trong đầu con tôi, việc nó có thể không chiến thắng trong thử thách mới này là điều khó xảy ra. Nó gào thét trong phẫn nộ và giận dữ. Nó không chịu bỏ cuộc, nhưng nếu tôi nghiêm khắc và buộc mình vào lúc này phải quyết định chính xác ở thời khắc nào trong toàn bộ câu chuyện này, trái tim tôi đã tan vỡ không thể chữa lành, thì đó chính là khoảnh khắc khi tôi thấy sự kiệt sức và nghi ngờ trườn vào những cơ bắp tí hon của con trai tôi, các ngón tay nó trượt ra, lần thứ mười, khỏi nắp quan tài gỗ sồi màu nhạt.
Những người đưa tang tụm lại quanh miệng hố, tê liệt trước nỗi kinh hoàng của việc này, sự phát hiện đầu tiên về cái chết còn tồi tệ hơn chính cái chết. Tôi cố gắng tiến lên nhưng những bàn tay trên khuỷu tay tôi đang níu tôi lại. Tôi căng người cưỡng lại sự níu kéo của họ và nhìn vào hết thảy những gương mặt hoảng hốt quanh mộ rồi nghĩ, Tại sao không có ai làm điều gì đó đi?
Nhưng thật sự khó, rất khó, để làm người đầu tiên.
Cuối cùng chính Ong Nhỏ đã xuống mộ và nâng con trai tôi lên để những bàn tay khác kéo lên. Charlie đấm đá, cắn xé và chống trả điên cuồng trong chiếc mặt nạ và áo choàng vấy bùn. Nó muốn xuống đó trở lại. Và chính Ong Nhỏ, khi đã được đưa lên mặt đất, đã ôm và giữ chặt nó lại trong lúc nó gào lên KHÔNG, KHÔNG, KHÔNG, KHÔNG, KHÔNG, khi từng người đưa tang bước lên dải cỏ xanh và thả nắm đất nhỏ xuống. Tiếng thét gào của con tôi dường như vang lên không dứt trong một thời gian dài kinh khủng. Tôi nhớ mình đã tự hỏi liệu đầu óc mình có vỡ ra vì âm thanh ấy, như ly rượu vang bị vỡ vì giọng của một ca sĩ soprano. Thật ra, một đồng nghiệp cũ của Andrew, một phóng viên chiến trường từng đến Iraq và Darfur, đã gọi điện cho tôi vài ngày sau đó kèm theo tên của một bác sĩ chống trầm cảm mà anh ấy từng tham vấn. Anh thật tốt quá, tôi đã bảo anh ấy, nhưng tôi đâu có rơi vào một cuộc chiến.
Tại nghĩa trang, khi tiếng thét gào đã dứt, tôi nhấc Charlie lên và ôm con trước ngực, đầu nó tựa lên vai tôi. Nó mệt lả. Qua hai hốc mắt trên mặt nạ dơi, tôi thấy mi mắt nó sụp xuống. Tôi nhìn những người đưa tang khác rời đi thành một hàng chậm rãi về phía bãi đỗ xe. Những chiếc ô màu sắc sặc sỡ nổi bật trên những bộ y phục tối tăm. Trời bắt đầu mưa.
Ong Nhỏ ở lại với tôi. Chúng tôi đứng bên cạnh huyệt mộ và nhìn nhau.
“Cám ơn cháu,” tôi nói.
“Không có chi,” Ong Nhỏ đáp. “Cháu chỉ làm điều mà ai cũng sẽ làm.”
“Đúng,” tôi nói. “Chỉ có điều mọi người khác đã không làm.”
Ong Nhỏ nhún vai. “Nếu cô là người ngoài thì dễ hơn.”
Tôi rùng mình. Mưa mỗi lúc một nặng hạt.
“Chuyện này sẽ chẳng bao giờ kết thúc,” tôi nói. “Phải không, Ong Nhỏ?”
“Dù trăng biến mất bao lâu, một mai trăng lại sáng thâu đêm dài. Người ở làng cháu thường nói thế.”
“Mưa tháng Tư mời hoa tháng Năm. Người ở chỗ cô thường nói thế.”
Chúng tôi cố gắng mỉm cười với nhau.
Tôi đã không hề thả nắm đất của mình xuống mộ. Tôi dường như cũng không