Chương bảy
Đó là người phụ nữ sang trọng tôi thấy ngay trước khi vụ rớt máy bay xảy ra, người phụ nữ lướt đi trên con phố. Tôi phải mất mấy giây để nhận ra điều này. Tôi chỉ nhìn nàng đăm đăm, cố nghĩ xem mình đã gặp nàng ở đâu. Thậm chí tôi còn nghĩ rằng có thể mình thấy nàng trên tivi, nàng đặc biệt như thế đấy. Chính mùi nước hoa giúp tôi nhận ra. Nó kéo tôi vụt trở lại như một cỗ máy thời gian, trở lại ngày trước vụ rớt máy bay, và tôi đó, bước đi vô tư, không hề biết rằng chiếc máy bay sắp rớt. Rồi tôi gặp người phụ nữ sang trọng này, và cảm nhận nỗi hạnh phúc đau nhói khi gặp một người đặc biệt trên phố mà biết người này sẽ chẳng bao giờ trò chuyện với mình hay quan tâm đến việc mình là ai. Trừ phi chính nàng làm điều đó.
Tôi bước ra khỏi tiệm và đâm sầm vào nàng, ngay vào bộ ngực nàng. Tôi cảm nhận được chúng trên ngực tôi, sự cảm nhận về chúng gần như ở lại trong máu tôi vài giây sau khi tôi bước lui lại. “Graham,” nàng nói. “Jennifer Slater.” Tôi chỉ nhìn nàng đăm đăm, nàng phất tay ngang qua trước mặt tôi như thể tôi là một bệnh nhân đang trong cơn hôn mê, rồi nàng phá cười lên nói: “Chính là Graham, phải không nào? Để tôi cho anh biết vài điều, Graham à.”
Đôi mắt nàng. Đôi mắt nàng màu nâu như mắt của Kate nhưng còn to hơn. Chúng như mặt trời vậy, tôi chỉ có thể nhìn vào chúng trong một tích tắc, ngay vào chỗ giữa hai mắt, rồi tôi phải nhìn lảng đi nơi khác. Giọng của nàng có âm hưởng sang trọng của miền Nam nhưng nó không giống giọng của những người đàn bà thường đến tiệm. Những người đàn bà đó đi bằng xe Range Rovers hay xe 4WD. Bạn thấy họ đậu xe bên ngoài cửa sổ. Họ không màng đến chuyện có thể bị phạt, họ giàu mà. Nhiều khi xe của họ màu xám pha xanh cứt ngựa, màu của mấy chiếc xe tăng, điều đó nhắc tôi nhớ đến họ như những vị chỉ huy xe tăng. Họ lên giọng bề trên quát tháo tôi. Lẽ ra họ nên đội mũ sắt và mang tai nghe, báo cáo tình hình với trung tâm chỉ huy hành quân ở một chiếc lều bí mật nằm đâu đó. Giọng họ rất lạnh lùng, đó là điều tôi muốn nói. Nhưng giọng của Jennifer thì ấm áp.
Má có dạy tôi một mẹo vặt để lấy mật ra từ một cái hũ đang để trong ngăn đá tủ lạnh. Bạn hãy nhúng một cái muỗng vào nước nóng, rồi bạn ấn cái muỗng vào mật cho mật tan ra và bọc quanh nó. Cái muỗng nóng làm mọi chuyện trở nên dễ dàng và tốt lành đúng theo ý muốn. Giọng của Jennifer cũng thế, dễ dàng và tốt lành, muỗng và mật.
Nàng nói: “Tôi là người không dễ bị làm cho kinh ngạc. Tôi muốn anh biết như thế.” Giờ nàng đang giữ vai tôi. Khá chặt. Nàng khỏe nhưng không khỏe bằng tôi. Tôi khỏe hơn nhiều so với vẻ bên ngoài, đôi tay góp phần rất lớn. Tôi thoáng nhìn thấy ngực nàng. Áo ngực nàng màu kem quả hồ trăn.
“Ok,” tôi nói. Tôi nhún vai và nàng buông vai tôi ra. Nàng nghĩ rằng tôi cố vùng ra khỏi tay nàng nhưng không phải vậy. Tôi thích nàng chạm vào tôi, tôi chỉ không hiểu nàng đang nói gì. “Tùy ý anh vậy,” nàng nói.
Nàng nắm cánh tay tôi. Tôi đang mặc áo thùng rộng. Tôi không lấy tay ra khỏi túi áo, tôi để cho nàng đẩy cánh tay tôi mở ra để nàng xỏ tay nàng qua tay tôi. Nàng hơi dựa vào tôi, như thể muốn nói: “Ta đi nào,” rồi chúng tôi cùng bước đi. Đế giày nàng gõ lách cách. Người ta nghe tiếng quay lại nhìn, họ nhìn một lần, rồi thêm lần nữa. Không phải nhìn tôi, mà nhìn Jennifer. Vì nàng đẹp quá. Và có lẽ phần nào họ cũng nhìn cả hai chúng tôi, ồ, thằng nhóc còm nhom này dính dáng gì với cô nàng hấp dẫn này. Trong một lúc chúng tôi không nói lời nào. Chúng tôi đi về hướng nơi chiếc máy bay rớt. Phải mất một lúc tôi mới nhận ra. Khi tôi nhận ra thì hẳn nàng cũng đã nhận ra. Tôi thấy hơi kỳ cục và Jennifer nói: “Chuyện này phải làm cho ra lẽ.” rồi tiếp tục kéo chúng tôi về phía đó.
Một lát sau nàng hỏi: “Anh thích loại thức ăn nào? Tôi nghĩ một lúc nào đó tôi sẽ mời anh đi ăn tối.”
Tôi thật sự bối rối với chuyện này. Tôi vẫn đang cố nhớ lại ở đây người ta ăn tối lúc mấy giờ và ăn loại thức ăn gì. Tôi thích loại thức ăn nào nhỉ? Tôi chỉ có thể nghĩ ra bánh pizza thôi. “Đừng bận tâm,” nàng nói. “Tôi sẽ cho anh biết sau. Một nơi nào đó khá sang trọng. Anh sẽ phải quen dần với sự sang trọng.”
Nàng dùng đúng chữ đó! Tôi muốn cho nàng biết điều đó thật là tếu, việc nàng dùng từ sang trọng. Nhưng chuyện đó nghe ra không hay lắm. Giờ thì chúng tôi đi dọc theo con phố nơi mà tôi gặp Jennifer lần đầu tiên. Tôi nói cho nàng biết tôi đã chú ý nàng, nàng hỏi: “Vậy sao?” giọng thật trìu mến. Nàng không nói rằng nàng đã chú ý tôi, điều đó không hẳn là tệ. Tôi phát ngán tận óc việc bị chú ý bởi các lý do tầm phào, ví dụ như việc có đôi bàn tay kỳ dị chẳng hạn. Tôi tự hỏi thầm bao giờ thì chúng tôi dừng chân.
Jennifer hỏi: “Anh có đọc báo không? Anh nên đọc, anh biết đấy. Không chỉ một tờ thôi, hãy đọc vài tờ mỗi ngày. Tìm xem anh đang theo đuổi điều gì.” Nàng nhìn tôi và cười phá lên, tôi không thích như vậy chút nào. Nàng đang mang sự cù lần của tôi ra chọc quê. Trên mặt tôi hẳn biểu lộ ra vẻ khó chịu. “Đừng lo,” nàng nói. “Tôi hiểu mà. Tôi sẽ là người hỗ trợ tốt cho anh.”
Tôi thật sự không hiểu điều nàng nói. Nhưng theo cái cách mà nàng nói như thể nàng cho rằng tôi hiểu, và tôi không muốn làm phật ý nàng nên tôi cứ gật đầu. Chúng tôi đi xa hết mức có thể. Dây băng keo màu xanh và trắng của cảnh sát tạo thành một rào chắn ngang qua mặt đường. Chúng tôi đứng cạnh dây băng nhìn. Trước mặt chúng tôi là một dãy tòa nhà đổ nát. Một số bị bay mất mặt tiền. Trông chúng như những ngôi nhà đồ chơi. Có thể thấy một lò sưởi cũ treo trên nửa chừng của bức tường, và một tấm áp-phích in hình một cô gái bang nhạc pop nữ. Nhưng chúng tôi chỉ thoáng liếc qua những thứ đó. Cái mà chúng tôi thật sự tìm nằm ở cuối con đường. Cái tòa nhà từng là dãy căn hộ mà Bé Ade từng sống ở đó. Tòa nhà này là phần tệ nhất trong khu. Nó chỉ còn là một đống gạch đá đổ nát, cao hơn cả một ngôi nhà cao, với một đám bụi mù lơ lửng trên đó. Có một cái chuồng chim nhô ra làm tôi nhớ đến chú chim mà tôi biết tên là Eddie.
Từ sau vụ rớt máy bay tôi chưa trở lại đây. Không dưng tôi cảm thấy khác thường. Hai chân tôi bắt đầu run rẩy như trong ngày chuyện đó xảy ra, và tôi lại cảm nhận được vị bụi đất nằm trong cuống họng, và tôi thoáng nếm được cái vị kỳ lạ mà tôi đã nếm trong hôm ấy, cái vị của điều gì đó thật khủng khiếp. Jennifer bóp mạnh tay tôi và gần như đỡ tôi dậy. “Tôi đã đứng khoảng chỗ này,” nàng nói. “Tôi đi theo anh vì tôi nghĩ rằng anh biết mình đang đi đâu. Rồi tôi chứng kiến điều anh làm. Như tôi nói, tôi không phải là người dễ kinh ngạc.”
Chuông di động của Jennifer reng. Tiếng reo giống như tiếng một chiếc xe tải kêu lên khi chạy lùi lại. Nàng buông tay tôi ra và quay đi. Nàng không nói a-lô khi mở máy lên mà chỉ lắng nghe. Nghe chừng một phút nàng nói: “Đồng ý. Làm đi.” Rồi gấp di động lại. Giọng nàng nghe quái dị, không ấm áp nhưng lại lạnh tanh. Rồi nàng nói với tôi thì nó lại ấm áp trở lại. “Tôi phải đi rồi. Tôi rất mừng vì chúng ta gặp nhau. Tôi sẽ báo cho anh biết về bữa ăn tối tôi mời.”
Nàng bước đi bỏ lại tôi ở đó, bên dây băng màu trắng và xanh. Tôi nhìn theo. Dáng nàng lướt đi, và cái hình tam giác ở sau cổ nơi tóc nàng cạo đi trông giống như mảnh lụa đen.
Tôi dậy trễ một tí trong buổi sáng sau lần đầu tiên gặp Jennifer. Tôi không có đủ thì giờ mua ly cà phê sữa ở tiệm World Bean. Tôi mãi nghĩ về nàng trên suốt con đường đến tiệm, rồi tôi thấy chiếc Merc của cậu George và lúc này tôi không thể nghĩ gì thêm về Jennifer trong một lúc. Giờ thì tôi phải đối phó với cậu George. Khi cậu ta nhảy vào đầu bạn thì cậu lấn mọi người khác văng tưng ra ngoài.
Qua cửa sổ, tôi thấy cậu bước quanh mấy cây đàn, như cậu thường làm khi nổi giận. Cậu cầm một miếng giấy trên tay. Và tôi thấy mảnh giấy mà Kate dán trên cửa không còn ở đó nữa. Có một cái chuông nhỏ kêu leng keng khi cửa mở ra. Nó tượng trưng cho tiếng nhạc dương cầm. Lần đầu tiên đưa tôi đến tiệm, cậu George chỉ lên phía trên đầu mình và hỏi: “Nghe ra không?” Tôi đáp tôi nghĩ rằng mình có nghe nó đâu đó trong chương trình quảng cáo của tivi. “Trời đất ơi, Joe!” Cậu la lên, “Sô-panh. Sô-panh phải không nào?” Tôi lắc đầu.
Chức năng của ông Sô-panh là làm cho bất cứ ai chuồn vào tiệm cũng bị người bên trong nhận biết, nhưng nó không có mấy tác dụng, tôi nhận ra vậy. Không có ma nào chôm được một cái piano bỏ trong túi áo rồi bỏ chạy cả.
Tôi mở cửa, cái chuông reo lên tăng-tăng tăng-tăng tăng-tăng tăng-tăng tằng, và mọi người ngó tôi. Cậu George ngưng nói với họ và nói với tôi: “Chào buổi trưa.” Derek cười sằng sặc. Cậu George chờ cho tôi ngồi xuống. Rồi cậu lại bước quanh mấy cái đàn. Cậu mặc một cái áo khoác mới mà trước đây tôi chưa thấy. Cái áo khoác làm tôi vui lên. Nó là một cái áo da nhẹ, gần như màu cam và đầy những cái túi vô tích sự. Tôi biết những cái áo thùng của tôi cũng có nhiều túi, nhưng chúng có lý do của chúng. Nào là di động, máy nghe nhạc Discman, đĩa CD… đều cho vào túi gọn gàng. Túi của cậu George là chỉ để làm dáng thôi, người ta biết ngay vì trông chúng xẹp lép, và trông thật dỏm. Cậu thật bự con, và toàn bộ các thứ đó làm cho cậu trông giống như một cái tủ có nhiều hộc. Cái lý do nó làm tôi vui lên là tôi biết cậu George nghĩ rằng mình trông sang trọng.
Còn một điều khác nữa về cậu George. Cậu có đôi tai kỳ cục. Lông đen mọc thò ra ngoài và dái tai thì rất dài nên chúng trông giống như đôi bông tai làm bằng thịt. Người ta chẳng thể nào biết rằng cậu là em của má. Má khá nhỏ nhắn với đôi tai thanh nhã. Má cũng có màu da sáng như tôi. Bà có hàng ria nhạt nhưng người ta không thể thấy vì các sợi lông tơ màu trắng. Nếu tóc má sậm như tóc cậu George thì bà đã trông giống một mụ đồng bóng. Có lẽ họ là con nuôi, hay một trong hai người là con nuôi. Có lẽ ông bà ngoại – vào lúc này thì họ đều qua đời rồi – có một bí mật. Có rất nhiều bí mật trong gia đình mà người ta chẳng hề biết, hay chỉ biết khi có ai đó qua đời khoảng năm mươi năm rồi, và khi đó thì quá muộn để nó mang lại một ý nghĩa gì nữa. Ví dụ, trước đây tôi thường băn khoăn rằng có phải mình là con nuôi không. Tôi không giống má hay ba.
Cậu George rê các ngón tay lên mặt một cây đàn Rickenmuller xem có bụi không. Cậu xem kỹ đầu các ngón tay. “Chà,” cậu giơ tấm bảng lên, đọc to: “‘Tiệm đóng cửa. Chỉ tiếp người có hẹn trước.’ Ngon nhỉ?” Cậu ngưng lời nhìn chúng tôi, nhìn từng đứa một. “Ta muốn nói là, hãy mở cửa tiệm nhưng suốt ngày không cho ai vào cả. Bằng cách đó chúng ta có thể vui chơi rửng mỡ. Phải không?” Chúng tôi không ai trả lời nên cậu lại hỏi tiếp: “Phải không nào?”
“Mọi chuyện rối tung lên,” Kate nói: “rớt máy bay và đủ thứ chuyện.” Cô nhún vai.
George chỉ ngón tay vào cô và hỏi: “Ai dán cái thông báo lên đó?”
Mọi người im lặng, cứ như là lũ học trò trở lại trường học, vậy mà tôi nghĩ mình đã gia nhập vào đám người lớn. Cậu George nhìn hết người này đến người khác. Rồi Derek khai: “Chính là nhóc Joe.”
Tôi căm ghét khi Derek gọi mình như thế. Cha nội Derek này được mấy tuổi rồi chứ? Chẳng cần biết, nhưng nhiều khi mày bao nhiêu tuổi cũng chẳng quan trọng, cái đầu mày luôn luôn chỉ vừa mới lên bảy thôi. Derek là gần như thế. Nếu hắn bằng tuổi tôi, học cùng trường với tôi, thì hẳn là hắn cũng sắp hàng để châm lửa lên tóc tôi. Nếu bọn Đức mà thắng Thế Chiến Thứ Hai thì Derek đã mặc đồng phục của chúng và có đặc quyền để chơi cha người Anh rồi.
Kate nói: “Derek, Chúa ơi. Ông không có mặt ở đây mà. Tôi làm đó. Ô kê, George à.”
Derek nói: “Đúng vậy. Nhưng em làm vì nó. Em phải làm vậy.”
Kate nói: “Mọi chuyện cứ phát rồ lên, phải không nào? Người ta cứ đổ xô vào. Tôi nghĩ đó là cách tốt nhất.”
Derek nói: “Họ nghĩ nó là Chúa Giê-su hay sao đó. Tôi nói bọn khùng kìa.”
Tôi nói: “Chuyện đó đâu phải là lỗi của tôi phải không? Làm sao tôi cản được chuyện người ta làm.”
Cậu George nói: “Thưa quí vị. Đinh đong! Mình phải bán đàn nhé. Này, nói cho vui thôi mà.” Rồi cậu đổi ngay thái độ. Vừa đang hoạnh họe đó thì lại đổi giọng cười vui xuề xòa, người đẫm mồ hôi, hai tay xoa xoa nhau.
“Mình thảy được cái Bechstein rồi, tôi nghe thế,” cậu nói: “Cái ở cửa sổ. Giỏi lắm, Joe.” Cậu đấm vào cánh tay tôi. Giờ thì cậu giống như một anh hề chọc cười trên sân khấu và chúng tôi là khán giả. “Ta có đọc một số chuyện hay ho về con cháu trong nhà mình trong mấy ngày vừa qua. Mấy người có xem cái này không?” rồi cậu giơ tay ra như thể đang viết một cái tựa đề to đùng lên bầu trời:
JOE NGỐ CHẠM VÀO HỒN CỦA ĐẤT NƯỚC
“Mấy người có hiểu không? Tốt, miễn là mày đừng chạm đến vào mông đít của nó, Joe à. Cái kế tiếp rõ là:
NHÓC JOE LỠ CHẠM VÀO MÔNG CỦA NƯỚC ANH – RỒI HỐI HẬN
“Ha ha ha! Tha cho tụi tao đi, Joe à. Tao phạm lỗi đậu xe cán lên hai vạch vàng rồi.”
Cậu George có hai điều hay. Thứ nhất là, cậu không bao giờ nhắc nhở gì đến đôi tay của tôi, dù một lần cũng không. Và thứ hai là, cậu cho tôi lái chiếc Merc của cậu. Nhưng những điều này không có nghĩa cậu là một người tốt. (Sự khôn ngoan xuất chúng của Graham Sinclair đây này: Người ta có thể làm những điều tốt vì những lý lẽ xấu.) Về chuyện đôi tay, tôi nghĩ rằng cậu không nhắc nhở gì đến chúng là vì cậu mập ù. Còn chuyện chiếc xe thì phức tạp hơn.
Lần cậu George đến thăm chúng tôi khi tôi lên mười hai tuổi, cậu chở tôi bằng chiếc Merc mới toanh đến cái sân bay cũ mà ba chỉ cho, rồi cậu dạy tôi lái. Cậu phải đẩy cái ghế tới trước cho tôi, nhưng cơ bản thì việc lái xe trở nên dễ ẹt khi tôi hiểu cách vận hành tay số tự động. Tôi nắm bắt được dễ dàng, đó là lý do vì sao tôi lái xe được khi đến London dù là tôi chỉ mới mười bốn tuổi và chưa bao giờ học một bài học lái xe đúng đắn nào.
Thậm chí cậu còn để tôi lái trên những con đường chính. Nếu cậu đậu trên hai vạch vàng bên ngoài tiệm thì cậu ném cho tôi chùm chìa khóa, hay bảo tôi tìm chùm chìa phụ trong phòng vệ sinh, rồi tôi phải lái chiếc Merc ra hướng đường Hammersmith đậu vào chỗ đậu có tính tiền ở đó.
Tôi đã từng nghĩ cha này tuyệt quá, nhưng sau đó tôi không dám chắc. Bạn có nghĩ là cậu sẽ thừa nhận rằng cậu đã sai tôi lái chiếc Merc nếu cảnh sát thổi tôi lại không? Khỏi có chuyện đó đi! Và mấy tay cớm tin lời cậu chứ không tin tôi. Còn Kate và Derek thì quá sợ không dám nói gì cho dù họ biết chuyện. À, có lẽ Kate thì không như thế nhưng đó là trò mạo hiểm mà cậu George sẽ chơi. Cậu khoái chơi trò mạo hiểm vì cậu không thấy sợ. Không phải vì cậu can đảm mà vì cậu không biết dừng hẳn lại. Tôi đoán là thế.
Tôi phải đẩy ghế tới trước để có thể với tới các bàn đạp. Có vài đèn giao thông trên đường đến nơi tôi thường đậu xe. Tôi thầm cầu nguyện chúng bật xanh khi tôi chạy đến. Tôi ghét bị kẹt xe và các tài xế xe khác ngó tôi. Họ kinh ngạc như trong phim hoạt hình, nhưng đây là trong đời thật. Suốt đời, người ta cứ kinh ngạc với đôi tay tôi. Cứ như thể đầu óc họ được nối dây hơi chậm. Họ ngó rồi quay đầu đi rồi quay đầu lại vì họ chợt hiểu ra rằng mình vừa trông thấy một điều gì kỳ lạ; họ kiểm tra xem họ có thật sự nhìn thấy cái mà họ nghĩ rằng họ vừa thấy. Đây là điều các tay tài xế khác làm nếu họ thấy tôi ở đèn giao thông trên đường đến Hammersmith. Không phải vì đôi tay tôi, họ không thấy chúng rõ từ trong xe, nhưng vì tôi là một thằng nhóc.
THẰNG NHÓC LÁI XE MERC! là điều mà họ nghĩ. Lần này tôi lái qua mấy ngọn đèn giao thông và thấy một chỗ đậu trả tiền ngay trước mặt. Tôi cho rằng mình có đủ thời gian đi uống một ly cà phê trong cái quán mà tôi chỉ nhìn bên ngoài nhưng chưa hề vào trong. Trong quán có hai gã đang bàn chuyện với nhau, quán nồng mùi thuốc lá và dầu mỡ nấu ăn, còn cà phê thì dở ẹt nếu so với tiệm World Bean, nhưng tôi vẫn thích nó vì không ai ngó ngàng gì đến ai. Mọi người trong quán đều kỳ quái. Không phải kỳ quái theo cái kiểu mất-nửa-gương-mặt, nhưng cũng đủ để gọi là kỳ quái. Không ai kinh ngạc cả.
Tôi mua mấy tờ báo trong tiệm báo ở kế bên. Jennifer bảo tôi là anh phải theo dõi những gì mà người ta đang nói. Đây là điều tôi đọc được:
THẢM HỌA HÀNG KHÔNG Ở FULHAM “KHÔNG PHẢI DO KHỦNG BỐ”
Có nhiều khả năng nguyên nhân của vụ rớt máy bay hôm thứ Ba ở phía Tây London là do hư hỏng hệ thống máy móc. Đó là kết luận sơ bộ trong việc tìm kiếm nguyên nhân của các điều tra viên tại hiện trường…
Và SỐ NGƯỜI CHẾT LÊN ĐẾN 47
Ban đầu tôi không tìm được gì ở tờ Nguyệt Cầu. Câu chuyện trên trang đầu là về vụ cầu thủ David Beckham bị phát hiện có sơn móng chân. Người ta đăng tấm hình cận cảnh to đùng các ngón chân của chàng ta trong đôi săng-đan. Màu tím lịm mới ghê chứ! Nhưng đọc trang trong tôi tìm thấy vài chỗ nhắc đến:
ĐỘC GIẢ: “CHÚNG TÔI THƯƠNG ADE”
Các đường dây điện thoại của chúng tôi bị bận liên tục khi bạn đọc chuyển tiền ủng hộ cho Lời Kêu Gọi Giúp Đỡ Bé Ade…
Và
BỌN TỒI TỆ
CƯỚP BÓC
KHU VỰC
RỚT MÁY BAY
Kế bên dòng chữ này là một tấm hình lấy ra từ phim video chụp một gã béo đội mũ lưỡi trai khệ nệ khiêng một cục thiết bị điện tử còn lòng thòng dây thò ra phía sau. Gã vừa chôm nó từ một cửa tiệm Dixon bị vỡ cửa sổ trong vụ rớt máy bay. Tôi tự hỏi có phải nó là tiệm Dixon gần tiệm đàn, nơi tôi mua máy Discman.
Sự thật là tôi thấy thất vọng vì báo chí không nhắc nhở gì đến mình.