PHỤ LỤC VỀ TÁC GIẢ - TÁC PHẨM
John Stuart Mill là triết gia và nhà hoạt động chính trị nổi tiếng ở nước Anh thế kỷ XIX. Ông sinh ngày 20 tháng 5 năm 1806 tại London. Trong cuốn Tự truyện (Autobiography, 1873) ông viết rằng sự phát triển trí tuệ của ông chịu ảnh hưởng lớn của hai người: cha ông James Mill, và vợ ông Harriet Taylor.
James Mill đã chuẩn bị cho con trai mình một chương trình giáo dục đầy đủ và đến năm 13 tuổi John Stuart Mill đã có được kiến thức tương đương với chương trình đại học toàn phần. Học vấn của ông bắt đầu bằng tiếng Hy Lạp và môn số học từ năm 3 tuổi. Năm 8 tuổi ông đã đọc toàn bộ tác phẩm của nhà viết sử Herodotus [53] , các cuộc đối thoại của Plato [54] và một khối lượng lớn lịch sử.
Trước năm 12 tuổi ông đã học xong môn Hình học Euclid và môn Đại số, các nhà thơ Hy Lạp và Latin cùng một số thi ca Anh. Trong năm cuối của việc học dưới sự dìu dắt của người cha, vào tuổi 13, ông dành sự chú ý cho môn Kinh tế chính trị học. Việc học của ông được nối tiếp sau đó với sự giúp đỡ của bạn bè cha ông là John Austin [55] giảng môn Luật học; David Ricardo [56] giảng môn kinh tế học. Ông tự hoàn tất học vấn của mình bằng việc nghiên cứu học thuyết của Jeremy Bentham [57] mà ông cảm nhận thấy như đã cho ông có được “một tín điều, một học thuyết, một triết lý… một tôn giáo” khiến ông như “trở thành một người khác”.
Từ năm 17 tuổi ông đã làm việc để tự kiếm sống ở Công ty Đông Ấn và trong nhiều năm, ông đảm trách việc quan hệ với các bang Ấn Độ. Công việc này giúp ông có được kinh nghiệm thực tế phong phú về những vấn đề cai trị. Ông tích cực tham gia vào các hoạt động chuẩn bị dư luận cho một cuộc cải cách hiến pháp. Ông cùng với cha mình và các bạn bè tập hợp thành một nhóm, được biết đến như “những người cấp tiến về triết học”, đã có đóng góp quan trọng trong các cuộc tranh luận dẫn tới các Đạo luật cải cách ở nước Anh [58] .
Ông thường viết cho các tờ báo có thiện cảm với khuynh hướng cấp tiến, thảo luận các vấn đề trí tuệ và xã hội đương thời. Ông nghiên cứu logic và khoa học, công bố chuyên khảo Hệ thống logic (System of logic, 1843). Cũng trong thời gian này ông quan tâm tới lĩnh vực kinh tế và công bố tác phẩm Các nguyên lý của kinh tế chính trị học (Principles of political economy, 1848). Ông thành hôn với bà Harriet Taylor năm 1852. Các tác phẩm quan trọng của ông được viết vào thời kỳ sau khi lập gia đình là Bàn về tự do (1859), Chính thể đại diện (Considerations on Representative Government, 1861), Chủ nghĩa công lợi (Utilitarianism, 1863), Khảo cứu triết học của Ngài William Hamilton (Examination of Sir William Hamilton's Philosophy, 1865) v.v…
Sau khi nghi hưu, ông về sống trong một ngôi nhà vùng thôn dã ở Avignon thuộc miền nam nước Pháp, là nơi chôn cất vợ ông. Ông mất tại đấy ngày 8 tháng 5 năm 1873.
Giới học thuật ngày nay vẫn còn nhắc tới tên tuổi của John Stuart Mill vì những đóng góp đặc sắc trong lĩnh vực tư tưởng. Ông được xem như một triết gia can đảm dám dấn thân vào những vấn đề nhạy cảm của thời đại. Ông bộc lộ mình như một người lãng mạn, say mê tìm kiếm những ý tưởng mới mẻ và các đóng góp của ông mang dấu ấn cá tính riêng rõ rệt. Tuy nhiên, John Stuart Mill cũng là người luôn sẵn sàng học hỏi người khác và người ta có thể nhận ra dấu vết của hầu hết những khuynh hướng tư tưởng của thời đại trong các trước tác của ông.
Tác phẩm Bàn về tự do của John Stuart Mill đề cập đến khái niệm tự do xã hội như là ranh giới giữa kiểm soát xã hội và độc lập cá nhân. Ông xuất phát từ quan điểm của Wilhelm von Humboldt nhận định rằng: mục tiêu của nhân loại là sự phát triển cao nhất và hài hoà nhất mọi năng lực của con người, và cần có hai điều kiện - tự do và sự đa dạng của các tình huống - để mục tiêu ấy có thể đạt được. Ông đề ra các nguyên lý về quyền tự do nhằm đạt được sự hài hoà trong quan hệ giữa con người cá nhân và cộng đồng xã hội, hướng tới mục tiêu phát triển.
Tư tưởng của Mill mang đậm dấu ấn duy lý của văn hoá phương Tây, tôn sùng chân lý như giá trị tối thượng mà trí tuệ con người khát khao hướng tới. Ông tin tưởng rằng, sự nghiệp nhân loại là quá trình vận động theo hướng tiến bộ từ man khai tới văn minh và sứ mệnh của trí thức là dẫn dắt dư luận xã hội đi theo hướng đó. Ông lạc quan nhìn về tương lai như một kỷ nguyên văn minh mà nhân loại sẽ đạt tới, thông qua thảo luận tự do và bình đẳng để tự hoàn thiện mình như những hữu thể có suy nghĩ. Tuy nhiên, thực tế lịch sử của thế kỷ XX sau đó đã không xác nhận sự lạc quan đầy lãng mạn này: thế chiến thứ Nhất đã ném các chàng thanh niên của E. M. Remarque (Phía Tây không có gì lạ) [59] từ ghế nhà trường vào một trại lính phi nhân tính khiến họ chua chát thốt lên: “…chúng tôi nhận thấy không phải trí tuệ có vẻ chiếm ưu thế mà là cái bàn chải đánh xi, không phải tư tưởng, mà là “quy tắc”, không phải sự tự do, mà là cách luyện thú.” John Stuart Mill rất tin tưởng vào phẩm chất biết sửa sai lầm của con người thông qua thảo luận và trải nghiệm. Thế nhưng trải nghiệm cay đắng của Thế chiến thứ Nhất vẫn không ngăn được hoạ phát xít và thế giới “văn minh” lại lao tiếp vào Thế chiến thứ Hai với mức độ dã man hơn, khiến cho một trí tuệ tinh tế và nhạy cảm như Stefan Zweig đã phải chọn cái chết tự sát, bởi vì cái thế giới ngày hôm qua của ông đã không còn nữa [60] . Không khí bi quan trong giới tư tương phương Tây làm xuất hiện nhiều trào lưu tư tưởng mới.
Mặc dù vậy, các nguyên lý về quyền tự do của ông không phải là một học thuyết không tưởng. Các căn cứ của nó được dẫn xuất ra từ nhiều trải nghiêm lịch sử của châu Âu và từ một tiền đề chưa có ai bác bỏ về bản chất không hoàn hảo của con người như một hữu thể có suy nghĩ. Ông không đi tìm một khuôn mẫu cụ thể cho các quan hệ con người trong xã hội, mà chỉ muốn nêu ra nguyên tắc đảm bảo sự hài hoà trong các quan hệ ấy, hướng tới mục tiêu phát triển. Quyền tự do được hiểu như điều kiện văn hoá cần thiết cho sự phát triển mọi khả năng của các cá nhân vì lợi ích lâu dài của toàn xã hội.
Trong khi xây dựng các luận cứ khẳng định nguyên lý tự do cá nhân, ông không đề cập nhiều đến hoạt động kinh tế mà ông coi là thuộc phạm vi xã hội. Ông cũng không đề cập đến vấn đề tổ chức quyền lực nhà nước phải như thế nào mà chỉ giả định chính phủ đại diện cho đa số dân chúng để nhấn mạnh tính phổ quát của nguyên lý tự do. Ông khẳng định ông không dẫn xuất nguyên lý tự do từ pháp quyền trừu tượng của con người, mà từ lợi ích lâu dài của xã hội. John Stuart Mill không phải là nhà tư tưởng đầu tiên đưa ra ý tưởng về quyền tự do của con người, song có lẽ ông là triết gia khẳng định quyền tự do một cách thuyết phục nhất dựa trên các luận cứ hướng tới sự phát triển vì lợi ích lâu dài của toàn xã hội. Người ta có thể tranh cãi về các biện luận của ông, nhưng người ta không thể chụp mũ cho ông tội đề cao chủ nghĩa cá nhân và coi thường các lợi ích của xã hội và cộng đồng. John Stuart Mill cũng là người đóng góp nhiều cho việc xây dựng chủ nghĩa công lợi (utilitarianism) như một chuẩn mực đạo đức xã hội. Ý tưởng chủ nghĩa công lợi do Jeremy Bentham khởi xướng đưa ra chuẩn mực tốt xấu cho một hành vi tùy thuộc vào tác động của hành vi ấy làm tăng hạnh phúc (tốt) hay ngược lại (xấu). Khái niệm hạnh phúc được hiểu không phải chỉ đối với người thực hiện hành vi, mà còn đối với bất cứ ai chịu tác động của hành vi ấy. Chủ nghĩa công lợi hướng tới “hạnh phúc nhiều nhất cho số đông nhất”. Chủ nghĩa công lợi đối lập với chủ nghĩa vị kỷ chỉ biết tới lợi ích của mình, đồng thời nó cũng đối lập với các lý thuyết đạo đức coi hành vi đúng hay sai phụ thuộc vào động cơ của tác nhân. Dễ dàng thấy được ảnh hưởng của chủ nghĩa công lợi trong tác phẩm Bàn về tự do, nhưng nó cũng chứa đựng nhiều lập luận vượt ra ngoài khuôn khổ của chủ nghĩa này.
Các đóng góp tư tưởng của John Stuart Mill để lại dấu ấn rõ rệt trong văn hoá phương Tây. Luận văn Bàn về tự do của ông luôn được các học giả phương Tây coi là tác phẩm kinh điển và sau gần một thế kỷ rưỡi nó vẫn còn là đối tượng được trích dẫn và tranh cãi trong các nghiên cứu hiện đại. Đáng chú ý là cuốn sách này được người Nhật dịch và xuất bản ngay từ năm 1871 (nguyên bản công bố ở Anh năm 1859) với hàng triệu ấn bản và rất được các nhà duy tân Nhật Bản coi trọng.
Có thể phát hiện trong tác phẩm của ông một số chi tiết khiến ta chưa thật thỏa mãn. Ông bảo vệ quyền tự do cho giáo phái Mormon (xem chương bốn) rất thỏa đáng, nhưng vì sao ông không bảo vệ cho người Ấn Độ với cùng một căn cứ như vậy chống lại sự thống trị thực dân của người Anh? Trong một đoạn ghi chú, ông bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng cho người Ấn Độ, nhưng vì sao ông lại không bảo vệ quyền tự quyết chính trị của họ? Ông đề cập thoáng qua việc Trung Hoa cấm nhập khẩu nha phiến dường như có ý bảo vệ quyền tự do sử dụng nha phiến và gián tiếp biện hộ cho cuộc chiến tranh nha phiến. Cả hai việc đều mâu thuẫn với chính quan điểm của ông: khó mà đồng ý được rằng sử dụng nha phiến là việc riêng tư và chẳng có căn cứ nào để bắt Trung Hoa phải nhập khẩu nha phiến chỉ bởi người Anh nghĩ rằng việc đó là đúng đắn. Tuy nhiên, ông đề cập đến việc này chỉ trong một câu ngắn ngủi và chúng ta khó xác định được quan điểm thực sự của ông có đúng là như vậy hay không. Dù có như vậy đi nữa thì ta vẫn có thể tiếp thu lời bàn minh triết của ông để áp dụng cho chính ông trong trường hợp này: “Trí xét đoán tỉnh táo của hoạt động con người không cảm thấy buộc phải phẫn nộ chỉ vì những người bắt ta nhìn ra chân lý mà ta bỏ sót, chính họ lại bỏ sót những chân lý mà ta nhìn thấy.”
Tuy luận văn của ông viết vào thời gian cách xa chúng ta gần một thế kỷ rưỡi, nhưng người đọc phương Đông, vốn quen với nếp nghĩ Nho giáo, hẳn sẽ tìm thấy ở đấy một cách tiếp cận văn hóa khác, soi sáng thêm nhiều vấn đề nhân sinh mà con người dường như mãi mãi sẽ vẫn còn phải băn khoăn. Học thuyết Khổng Mạnh hiển nhiên đã giúp người Trung Hoa kết nối xã hội để cho thời kỳ phân ly kéo dài như thời Xuân Thu Chiến quốc không bao giờ trở lại. Từ nhà Hán đến lúc kết thúc triều đại nhà Thanh, trong khoảng thời gian gần hai ngàn năm, học thuyết ấy đã được biết bao nhiêu học giả tu chỉnh cho hợp với sự biến đổi của thời cuộc. Thế nhưng vì sao họ không đi tới được khái niệm tiến bộ và phát triển như phương Tây? Đạo lý cương thường của Khổng Mạnh rõ ràng trói buộc con người và học thuyết Lão Trang công kích điểm này thật thuyết phục, nhưng vì sao học thuyết này cũng không phát triển để kết hợp thêm các yếu tố kết nối xã hội mà nó vốn thiếu? Học thuyết Lão Trang không bị lãng quên cho tới ngày nay, nhưng vì sao nó lại chỉ tồn tại dường như để đóng vai trò “tâm lý trị liệu” chữa bệnh tinh thần cho các sĩ phu, khi họ tìm đến nó sau các thất bại ê chề trên chốn quan trường?
Nhân tài xuất chúng của Trung Hoa trong suốt chiều dài lịch sử cũng không phải là ít. Ngày nay, người ta vẫn còn ngưỡng mộ một Đỗ Phủ đau nỗi đau nhân tình, một Đào Tiềm thanh cao không muốn vì mấy đấu gạo mà phải chịu một lần khom lưng, một Vương An Thạch trí tuệ rực rỡ với kế hoạch cải cách đi trước thời đại, và còn biết bao tên tuổi lớn lao khác nữa. Nhưng vì sao họ lại chỉ là những ngôi sao lẻ loi trên bầu trời văn hóa Trung Hoa, mà không một lần tụ lại trong cùng một thời kỳ, như thời kỳ Khai sáng của phương Tây, để tạo nên một biến chuyển văn hóa và tư tưởng trong dân chúng?
Học thuyết Khổng Mạnh trên thực tế chẳng giúp được người Trung Hoa duy trì xã hội ổn định và hạnh phúc: hết trị lại đến loạn nối tiếp nhau liên miên mà dường như người Trung Hoa đã coi đó là tự nhiên, không thể nào khác được. Thân phận của dân chúng thì khốn khổ trong thời trị, đau thương chết chóc trong thời loạn, nhưng dường như không ai đổ lỗi cho học thuyết của các vị thánh mà chỉ cho rằng, tình trạng ấy là do mọi người không tuân theo đầy đủ các lời dạy của thánh nhân. Phải chăng nguyên nhân là ở chỗ học thuyết ấy đã biến thành tập quán kiên cố khiến cho lịch sử Trung Hoa như dừng lại trong một cái bẫy văn hóa.
J.S. Mill có vẻ muốn nói như thế về phương Đông khi ông viết: “Tuy nhiên, nguyên lý tiến bộ trong bất cứ phương diện nào, dù là lòng yêu tự do hay cầu tiến, cũng đều đối kháng lại sự kiểm soát của Tập quán, ít nhất thì cũng muốn thoát khỏi cái ách đó. Cuộc đấu tranh giữa hai thế lực này tạo nên sự quan tâm hấp dẫn chính của lịch sử nhân loại. Nói đúng ra thì phần lớn của thế giới này đã không còn có lịch sử, bởi vì nền chuyên chế của Tập quán đã hoàn tất triệt để. Đó là trường hợp của toàn thể phương Đông, ở đó Tập quán là tiếng nói quyết định cuối cùng. Công lý và quyền năng có nghĩa là sự uốn theo Tập quán; không ai dám có ý nghĩ chống lại lý lẽ của Tập quán, ngoại trừ bạo chúa nào đó quá bốc đồng với quyền lực.” Chắc nhiều người không đồng ý với nhận xét ấy của ông, nhưng có lẽ sẽ có người đồng ý với ông rằng: “…bất cứ ý kiến nào, nếu chứa đựng chút ít chân lý mà ý kiến chung bỏ qua, cũng đều đáng quý, dù có bị pha trộn với bao nhiêu sai sót lầm lẫn đi nữa.”
Tháng 10/2005
Nguyễn Văn Trọng