← Quay lại trang sách

Chú thích

[1] C. Mác và Ph. Ăngghen. Toàn tập , t. 20, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 489, 487.

[2] Chỉ phần lục địa châu Âu bên ngoài nước Anh.

[3] Sparta là một thành bang Hy Lạp cổ đại không có chế độ chuyên chế. Helot không có nguồn gốc sắc tộc rõ ràng, nhưng có lẽ họ là cư dân gốc của vùng Laconia ở gần thủ đô của Sparta. Người Helot trong một nghĩa nào đó là nô lệ quốc gia của Sparta, bị gắn với đất đai và bị ấn định làm việc cày cấy cho các cá nhân người Sparta. Chủ của người Helot không có quyền trả tự do cho họ và cũng không có quyền bán họ. Người Helot có quyền tích lũy tài sản hạn chế sau khi trả cho chủ một tỷ lệ xác định sản phẩm làm ra trên đất đai của chủ. Người Helot cũng phục vụ cho chủ trong các cuộc chinh chiến.

[4] Akbar (1556-1605) một minh quân Ấn Độ. Để gìn giữ sự thống nhất đế chế Akbar đi theo đường lối tranh thủ lòng trung thành của các cư dân không theo Hồi giáo. Ông cải cách và củng cố nền hành chính tập quyền, tập trung hóa hệ thống tài chính và tổ chức lại các quy trình thu thuế. Tuy không bác bỏ Hồi giáo nhưng ông quan tâm nhiều đến các tôn giáo khác. Ông thuyết phục người Hindu giáo, người Ba Tư giáo, người Ki Tô giáo cũng như người Hồi giáo thảo luận về tôn giáo trước mặt ông. Bản thân là người ít học nhưng ông khuyến khích hoạt động của các học giả, thi sĩ, họa sĩ và nhạc sĩ, làm cho triều đình của ông trở thành một trung tâm văn hóa.

[5] Charlemagne (742-814) là người đã thống nhất hầu hết các vùng đất đai theo Ki Tô giáo ở Tây Âu và cai trị vùng lãnh thổ rộng lớn ấy như một hoàng đế (800-814). Charlemagne đã tổ chức lại triều đình tề chính, triệu nhiều nhà thông thái từ khắp nơi về triều. Họ đã giúp Charlemagne thiết lập một thư viện triều đình lưu trữ các tác phẩm của các vị cha cố và các tác giả cổ đại. Charlemagne tổ chức viện hàn lâm để giáo dục các hiệp sĩ trẻ tuổi. Ông và các thành viên gia đình tham gia vào đời sống văn hóa, biểu diễn văn nghệ cùng với các tùy tùng. Ngoài tiếng mẹ đẻ là tiếng Đức cổ ông còn hiểu được tiếng Pháp cổ, học tiếng Latin và Hy Lạp, viết nhiều trước tác về lịch sử và thần học, biết sơ bộ về toán học và thiên văn. Mối quan tâm về văn hóa của ông vượt ra ngoài khuôn khổ một nhóm nhỏ những người trong triều đình. Nhiều nỗ lực được thực hiện để nâng cao mức độ tuân thủ tôn giáo, đạo đức và pháp luật trong toàn đế chế. Một phong trào văn chương và tinh thần tôn giáo cao cả gọi là Phong trào Phục hưng Carolingian (Carolingian Renaissance) với nhiều trung tâm, được Charlemagne và triều đình hậu thuẫn, đã góp phần nâng cao dân trí của dân chúng trong đế chế ít nhất một hai lần trong một năm triều đình họp đại hội cùng với đại diện quý tộc và quan tòa của các địa phương để thảo luận mọi vấn đề quan trọng của đế chế. Nhìn chung các tư liệu về thời đại của Charlemagne cho thấy vị hoàng đế này rất quan tâm đến việc cai trị dựa trên công lý và sự khai sáng cho dân chúng; nhưng các tư liệu ấy cũng cho thấy sự khác biệt rất rõ rệt giữa lý tưởng và hiện thực.

[6] prima facie: thoạt nhìn đã thấy.

[7] A. Comte (1798-1857): triết gia người Pháp được biết đến như người sáng lập ra môn xã hội học và chủ nghĩa thực chứng. Tác phẩm Hệ thống chính trị thực chứng (Systeme de politique positive) được A. Comte hoàn tất trong thời kỳ 1851-1854, trình bày một hệ thống xã hội học trong đó tính đạo đức và sự tiến bộ đạo đức được coi là ưu tiên hàng đầu của tri thức và nỗ lực của con người. A. Comte cũng giải thích về tổ chức chính trị cần thiết cho mục tiêu đó và đưa ra mẫu hình xã hội lý tưởng cần phải xây dựng. Ông cho rằng tổ chức Giáo hội La Mã có thể làm mô hình về cấu trúc và biểu trưng cho xã hội lý tưởng với một tôn giáo vị nhân loại (religion of humanity) thay thế cho sự sùng bái Chúa Trời. Các thầy tu tinh thần gồm các nhà xã hội học thế tục sẽ hướng dẫn xã hội và kiểm soát việc giáo dục cũng như tình trạng đạo đức của dân chúng. Nến hành chính thực tế của nhà nước và nền kinh tế sẽ nằm trong tay các doanh nhân và các chủ ngân hàng, trong khi đó đạo đức riêng tư sẽ là địa phận của phụ nữ trong vai trò các bà vợ và bà mẹ. Kế hoạch của ông cho xã hội tương lai được mô tả như chuyện lố lăng tức cười. Lập trường phản đối dân chủ của ông thực phản động, khi ông nhấn mạnh đến tôn ty và sự tuân phục, cũng như ý kiến của ông cho rằng một chính phủ lý tưởng sẽ được tạo dựng từ một tầng lớp thông tuệ đặc quyền. Tuy nhiên, niềm tin của ông vào tầm quan trọng của môn xã hội học như một nghiên cứu khoa học về xã hội loài người vẫn là điều mà ngày nay các nhà xã hội học hiện đại luôn hướng theo.

[8] Triều đại Tudor trị vì nước Anh vào thế kỷ XV-XVI.

[9] Ghi chú của tác giả (thể hiện rõ bằng dấu *): Những lời này chắc hẳn phải không nên viết ra, khi mà Cuộc Đàn áp báo chí của Chính phủ năm 1858 tựa như mâu thuẫn rõ rệt với chúng. Sự can thiệp thiếu suy xét ấy vào quyền tự do thảo luận công khai, tuy vậy, không hề khiến tôi phải thay đổi một chữ nào trong nguyên văn, cũng không làm giảm lòng tin của tôi rằng, ngoại trừ những thời điểm hoảng loạn ra, cái thời đại phải chịu đau khổ và trừng phạt vì thảo luận chính trị ở đất nước ta đã qua đi rồi. Vì lẽ rằng, trước hết, các đàn áp đã không tiếp tục cố chấp thực hiện; hai là, nói cho đúng ra chúng chưa bao giờ đúng hẳn là các đàn áp chính trị. Sự xâm hại bị lên án không phải là các thiết chế phê bình, hay hành vi hoặc con người của các nhà cầm quyền, mà là ý kiến lan truyền bị coi là một học thuyết vô đạo đức về tính hợp pháp của hành vi Giết-bạo-chúa (Tyrannicide).

Nếu các luận cứ của chương này có giá trị nào đó, thì phải tồn tại một quyền tự do đầy đủ nhất để thuyết giảng và thảo luận bất cứ học thuyết nào như một vấn đề của niềm tin đạo đức, dù nó có thể bị coi là vô đạo đức đến thế nào chăng nữa. Vì thế cho nên việc khảo sát ở đây xem học thuyết Giết-bạo-chúa có xứng đáng với danh hiệu đó không, là không thích hợp và không đúng chỗ. Tôi tạm bằng lòng với mình bằng việc nói rằng, đề tài này luôn luôn là một vấn đề để ngỏ trong các vấn đề đạo đức; rằng hành vi của một công-dân-thường đánh gục một tên tội phạm, một kẻ mà bằng cách đưa mình lên trên pháp luật, đã đặt mình ra ngoài tầm kiểm soát và trừng phạt của pháp luật, hành vi ấy đã được toàn thể các quốc gia và được một người tốt đẹp nhất và thông tuệ nhất xem như không phải tội ác, mà là một hành vi phẩm hạnh được ngợi khen; rằng, dù là đúng hay không đúng, đó không phải hành vi mang thực chất của một vụ ám sát, mà là của một cuộc chiến. Như thế, tôi cho rằng việc xúi giục điều đó, trong trường hợp đặc biệt, có thể thích đáng là đối tượng để trừng phạt, nhưng chỉ khi nào có một hành vi công khai được thực hiện tiếp sau, hay ít nhất cũng xác lập được mối liên can khả dĩ giữa hành vi và sự xúi giục. Ngay cả khi đó, thì cũng không phải một chính quyền ngoại quốc, mà chính là chính quyền của người bị tấn công, là thực thể duy nhất trong việc vận dụng quyền tự vệ, có thể trừng phạt hợp pháp các vụ tấn công nhắm vào bản thân sự tồn tại của nó.

[10] “i mastri di color che sanno,”: người thầy của những người hiểu biết - lời của Dante nói về Aristotle.

[11] Tác phẩm của Plato bênh vực cho Socrates.

[12] Calvary: Núi Sọ, nơi đức Jesus bị hành hình đóng đinh câu rút.

[13] Marcus Aurelius (121-180) được cha nuôi là Pius Antoninus truyền ngôi hoàng đế La Mã năm 161 nên còn được gọi là Marcus Antoninus. Trong tác phẩm Meditations viết năm 170, ông ủng hộ việc áp dụng một luật pháp chung cho mọi người và một sự cai trị của nhà vua tôn trọng hầu hất quyền năng cá nhân của người bị trị. Các tư tưởng cao quý ấy không ngăn được ông ra lệnh đàn áp Ki Tô giáo.

[14] Stoic: triết lý “khắc kỷ” thời cổ Hy-La, chủ trương thản nhiên chấp nhận mọi biến cố của cuộc đời.

[15] Constantine (chết năm 411), tên Latin đấy đủ là Flavius Claudius Constantinus. Dấy binh từ nước Anh năm 407 và trở thành người cai trị thực tế Đế chế phương Tây (Western Empire) sau chiến thắng quân sự năm 408. Năm 409 hoàng đế chính thức của đế chế là Flavius Honorius buộc phải thừa nhận Constantine là người cùng trị vì đế chế. Năm 411 Constantine thua trận phải đầu hàng và bị hành quyết. Vị hoàng đế La Mã tiếm quyền Constantine đã bảo trợ cho Ki Tô giáo.

[16] Dr. Johnson: biệt danh của Samuel Johnson, một học giả người Anh nổi tiếng của thế kỷ XIX.

[17] Chỉ cuộc cải cách Tôn giáo ở thế kỷ XVI do Martin Luther (1483-1546) khởi xướng.

[18] Thần thoại Hy Lạp.

[19] Nữ hoàng Mary (1542-1587) tên thật là Mary Stuart, là Nữ hoàng xứ Scotland (1542-67). Do các hành động chính trị và hôn nhân thiếu khôn ngoan của mình, bà bị giới quý tộc Scotland nổi loạn chống lại khiến bà phải trốn tránh sang Anh. Tại Anh bà bị xem là mối đe dọa cho vương quyền nước Anh và bị xử chặt đầu. Bà theo tôn giáo Catholic La Mã, trong khi nữ hoàng Anh Elizabeth I (1533-1603) theo tôn giáo Tin Lành. Trong hoàn cảnh cực kỳ phức tạp của nước Anh hồi đó với nguy cơ bị ngoại xâm và bị phân liệt từ bên trong, nữ hoàng Elizabeth I đã biểu lộ các phẩm chất dũng cảm và tài ba để đưa nước Anh vượt qua gian nguy và trở thành một cường quốc châu Âu. Nữ hoàng Elizabeth I trở thành dấu ấn của nước Anh hậu bán thế kỷ XVI.

[20] Ghi chú của tác giả: Thomas Pooley, Bodmin Assizes, 31-07-1857. Đến tháng 12 ông ta được Nữ Hoàng ân xá trá tự do.

[21] Ghi chú của tác giả: George Jacob Holyoake, 17-08-1857; Edward Truelove, tháng 7-1857.

[22] Ghi chú của tác giả: Nam tước de Gleichen, Tòa án của cảnh sát đường phố Marlborough, 04-08-1857.

[23] Ghi chú của tác giả: Rất nhiều điều cảnh báo có thể được rút ra từ sự truyền cảm rộng rãi của một kẻ đày ải, đã hòa trộn nó trong một màn phô bày chung cái phần tồi tệ nhất của tính cách dân tộc chúng ta, nhân dịp có cuộc nỗi dậy Sepov. Tiếng gào thét của những kẻ cuồng tín hay lũ bịp bợm từ trên bục thuyết giáo có thể không đáng để nhận xét; thế nhưng những người cầm đầu đảng Evangelical đã tuyên bố nguyên lý của họ về việc cai trị các người Hindu và Hồi giáo, rằng không có trường học nào được tài trợ từ công quỹ mà lại không giảng dạy Kinh thánh, và hệ quả cần thiết là việc tuyển dụng công chức chỉ dành cho các tín đồ Ki Tô giáo chính thức hay dự bị. Một vị thứ trưởng Bộ ngoại giao trong diễn văn đọc trước các cử tri của mình ngày 12-11-1857 được tường thuật là đã nói như sau: “Khoan dung đối với đức tin của chúng” (đức tin của hàng trăm triệu thần dân Anh quốc) “cái sự mê tín mà chúng gọi là tôn giáo, theo ý kiến của Chính phủ Anh, có hiệu quả làm chậm trễ việc nâng cao tên tuổi Anh quốc và ngăn chặn sự lớn mạnh đáng hoan nghênh của Ki Tô giáo… Khoan dung là hòn đá tảng vĩ đại của quyền tự do tôn giáo ở đất nước này, nhưng không thể để cho bọn chúng lạm dụng mỹ từ ấy. Cứ như ông ta hiểu nó, thì nó có nghĩa là quyền tự do hoàn toàn cho mọi người, sự tự do thờ phụng, trong những người Ki Tô giáo, những người thờ phụng dựa trên cùng một nền tảng. Nó có nghĩa là khoan dung với mọi giáo phái của những người Ki Tô giáo cùng tin vào một sự hòa giải.” Tôi muốn lưu ý đến sự kiện là một người, một nhân vật đã được đánh giá xứng đáng giữ một chức vụ cao trong chính phủ của đất nước này dưới quyền một vị bộ trưởng theo chủ nghĩa tự do, lại bảo vệ cái học thuyết, rằng tất cả những ai không tin vào tính thần thánh của chúa Ki Tô đều ở ngoài ranh giới của lòng khoan dung. Sau cái màn phô bày ngu xuẩn ấy, ai còn nuôi ảo tưởng rằng sự ngược đãi tôn giáo đã qua đi rồi, không còn bao giờ trở lại nữa?

[24] ad misericordium: xin rủ lòng thương.

[25] J.W.Goethe (1749-1832): nhà thơ, nhà văn và triết gia Đức, danh nhân vĩ đại nhất của nước Đức thời kỳ lãng mạn cũng như của toàn bộ nền văn chương Đức.

J.G.Fichte (1762-1814): triết gia và nhà yêu nước người Đức, có nhiều đóng góp vào sự phát triển học thuyết của I. Kant.

[26] Thuyết địa tâm được Ptolemy phát triển vào thế kỷ II để giải thích các hiện tượng thiên văn và coi trái đất là trung tâm của vũ trụ. Thuyết này được thừa nhận cho đến khi xuất hiện thuyết nhật tâm coi mặt trời là trung tâm của Copernicius vào thế kỷ XVI.

[27] Thuyết phlogiston do G.E. Stahl (người Đức) khởi xướng năm 1697 và rất thịnh hành vào thế kỷ XVIII. Thuyết phlogiston khẳng định rằng một vật bị đốt cháy sẽ giải phóng ra chất phlogiston; các ôxit kim loại được coi là các chất đơn giản hơn bản thân kim loại và kim loại thu được từ ôxit kim loại bằng cách đưa thêm phlogiston vào. Thuyết phlogiston không giải thích được tại sao các ôxit kim loại có trọng lượng gia tăng hơn kim loại. Cuối thể kỷ XVIII các công trình của J. Priesley (người Anh) và A. Lavoisier (người Pháp) đã dẫn đến việc bác bỏ thuyết phlogiston. Lavoisier thấy rằng oxy là chìa khóa giải thích hiện tượng gia tăng trọng lượng đi kèm theo việc đốt lưu huỳnh và phốt pho. Lavoisier xác lập rằng sự cháy là tổ hợp hóa học giữa oxy và vật cháy được.

[28] Marcus Tullius Cicero, nhà hùng biện thời La Mã thế kỷ I tCN.

[29] nisi prius: một loại tòa án sơ thẩm lưu động.

[30] John Calvin là lãnh tụ giáo phái Tin Lành, John Knox là lãnh tụ cải cách tôn giáo ở Scotland, họ là những người có đóng góp lớn vào vấn đề đạo đức Ki Tô giáo ở thế kỷ XVI.

[31] “Socrati viri”: thuộc nhóm của Socrates.

[32] J.J. Rousseau (1712-1778), triết gia người Pháp có ảnh hưởng lớn đến cuộc Cách mạng Pháp và phong trào Khai sáng ở phương Tây. Ông tới Paris năm 30 tuổi, gặp gỡ và kết bạn với Diderot, Hai người trở thành trung tâm của nhóm trí thức Philosophes. Năm 37 tuổi, trong lúc đi thăm Diderot đang bị giam vì những bài viết chống tôn giáo, ông đã có được thời điểm “bừng sáng” (illumination). Sau này Rousseau viết rằng trong giây phút lóe sáng ấy ông chợt hiểu ra rằng sự tiến bộ hiện đại thay vì làm cho con người tốt đẹp lên thì lại làm cho họ bị đồi bại đi. Ông viết tác phẩm Luận văn về các khoa học và nghệ thuật (Discours sur les sciences et les arts, 1750) trong đó ông nhận định rằng lịch sử cuộc sống con người là lịch sử của sự suy tàn. Tác phẩm này tuy không phải là tác phẩm xuất sắc nhất của ông, nhưng chủ đề trung tâm của nó luôn hiện diện trong tất cá các trước tác ông viết sau này. Suốt đời ông luôn trở lại với ý tưởng rằng con người bản chất là tốt đẹp, nhưng xã hội và nền văn minh đã làm cho nó bị đồi bại đi. Ông không có ý cho rằng xã hội và nền văn minh vốn dĩ là xấu, nhưng có lẽ xã hội và nền văn minh đã định hướng sai và khi chúng càng trở nên rối rắm phức tạp hơn thì chúng càng trở thành có hại nhiều hơn. Bản thân ý tưởng này của Rousseau không phải là quá mới mẻ vào thời đó. Nhiều giáo sĩ Catholic La Mã cũng phàn nàn về chiều hướng lầm lạc của văn hóa châu Âu từ thời Trung cổ. Tuy nhiên họ không chia sẻ niềm tin của Rousseau vào bản chất tốt đẹp tự nhiên của con người. Chính niềm tin này là hòn đá tảng cho lý lẽ của Rousseau. Một số tác phẩm của Rousseau được nhiều người biết tới: Bàn về Khế ước xã hội (“Du Contrat social, 1762), Emile hay Bàn về giáo dục (Émile ou de réducation, 1762), Tự thú (Les confessions, 1782-89).

[33] Wilhelm von Humboldt (1767-1835): học giả người Đức.

[34] Ghi chú của tác giả: Các Luận văn của Sterling.

[35] Alcibiades và Pericles là các nhân vật thời cổ Hy Lạp; Albiciades được mô tả là có lỗi sống trụy lạc và ích kỷ; Pericles là nhân vật được các sử gia ca tụng như một con người đạo đức vững chắc, kiên định trước dư luận hay thay đổi của đám đông. Ông chính là người đã phát biểu khẳng định nền dân chủ tức là quyền lực thuộc về toàn dân và đã thốt ra câu nói: “Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật”. Cần nhớ rằng khái niệm “toàn dân” và “mọi người” của Pericles không bao gồm phụ nữ và nô lệ, nhưng dù sao một nguyên lý đã được nêu ra. Xem thêm Những cuộc dời song hành , Plutarch, Cao Việt Dũng và nhóm dịch Alpha thực hiện, NXB Tri Thức, 2005.

[36] ex vi termini: theo như định nghĩa.

[37] Niagara: con sông chảy qua biên giới Canada và Hoa Kỳ, có nhiều ghềnh thác với thác Niagara lớn nhất thế giới.

[38] Ghi chú của tác giả: Một cái gì đó vừa tệ hại vừa kinh khủng trong loại chứng cứ của những năm gần đây, cho thấy bất cứ người nào cũng có thể bị kết tội theo pháp luật với tội danh tuyên cáo là không thích hợp để điều hành công việc của mình; sau khi người ấy chết, việc Xử lý tài sản của anh ta có thể bị phong toả, nếu nó đủ để trang trải cho án phí được tính vào bản thân tài sản. Mọi chi tiết đời sống hằng ngày của anh ta bị tò mò lục vấn, và bất cứ cái gì được tìm thấy đều bị xem xét thông qua trung gian các năng lực cảm nhận và diễn tả của những kẻ ti tiện nhất trong các thứ ti tiện; nếu cái được tìm thấy đó có dáng vẻ không giống tuyệt đối với thói thường, nó sẽ bị đưa ra trước toà án như bằng chứng của sự không lành mạnh, và việc này thường hay thành công. Các thành viên hội thẩm cũng thô thiển và ngu xuẩn hoặc là ít hơn đội chút hoặc cũng chẳng khác chút nào với những kẻ làm chứng. Trong khi ấy các quan toà với sự thiểu hiểu biết lạ thường về bản chất con người và cuộc sống, là điều mà chúng ta luôn phải ngạc nhiên ở các luật gia Anh, lại thường giúp cho bọn chúng làm sai. Những vụ xét xử như vậy nói lên rất rõ ràng trạng thái cảm nhận và quan điểm của đám người thô thiển dung tục đối với quyền tự do của con người. Trái ngược hẳn với việc khẳng định giá trị nào đó đối với con người cá nhân - trái ngược hẳn với việc tôn trọng quyền của cá nhân trong những việc vô hại nhưng là tốt đẹp theo suy xét và thiên hướng của anh ta, các chánh án và thẩm phán thậm chí đã không hình dung nổi rằng con người lành mạnh có thể mong muốn một sự tự do như vậy. Thời xưa, khi xem xét việc thiêu sống những kẻ vô thần, những người nhân từ thường đề nghị đưa họ vào nhà thuơng điên thay cho việc hành hình: chẳng có gì đáng ngạc nhiên nếu như thời bây giờ chúng ta được thấy việc làm này và thấy những người làm việc đó tự tán thưởng mình bởi đáng lẽ phải hành hình những kẻ bất hạnh ấy vì tôn giáo thì họ lại đối xử theo một kiểu cách nhân từ và đầy tinh thần Ki Tô giáo đến thế đối với chúng, trong lòng hắn vẫn còn thầm thỏa mãn là những kẻ bị xét xử ấy đều đáng tội cả.

[39] Alexis Tocqueville (1805-1859), nhà nghiên cứu chính trị người Pháp, nổi tiếng vì tác phẩm Bàn về nền dân chủ Hoa Kỳ (Democracy in America, 1835-40) phân tích cặn kẽ hệ thống chính trị xã hội của Hợp Chủng Quốc đầu thế kỷ XIX.

[40] Ghi chú của tác giả: Trường hợp của đám người Parsees ở Bombay là thí dụ gây hiếu kỳ về điều này. Khi đám người siêng năng và dám làm ấy, hậu duệ của người Ba Tư thờ thần lửa, chạy trốn từ quê hương đến Tây Ấn Độ vào trước thời Caliphs, họ được chính quyền người Hindu đối xử khoan dung với điều kiện không ăn thịt bò. Sau đó các vùng này rơi vào tay những người chinh phục theo đạo Hồi, những người Parsees lại được tiếp tục khoan dung với điều kiện phải kiêng ăn thịt lợn. Cái lúc đầu là sự tuân phục quyền uy sau đó đã trở thành một bản chất thứ hai, và người Parsees cho tới bây giờ vẫn kiêng cả thịt bò lẫn thịt lợn. Dù rằng không phải là điều tôn giáo của họ đòi hỏi, cái việc kiêng cữ kép này đã có đủ thời gian để trở thành tập quán của bộ tộc; mà tập quán ở phương Đông chính là tôn giáo.

[41] New England: vùng đất ở đông bắc Hoa Kỳ, là thuộc địa của Anh ở thế kỷ XVII.

[42] Great Britain bao gồm Anh, Wales và Scotland.

[43] Calvinism và Mcthodism là các giáo phái Tin Lành chủ trương kiểu sống khắc khổ.

[44] Luật Maine mang tên bang Maine thuộc vùng New England.

[45] Luật Sabbath quy định bắt buộc mọi người nghỉ ngơi không làm việc vào ngày Chủ nhật.

[46] Deorum injuria Diis cura: làm điều xấu với Thượng đế là việc của bản thân người đó.

[47] Ở miền tây New York vào năm 1827, trong thời cao trào của sự phục hưng tôn giáo, Joseph Smith, con của một nhà nông, tự cho là một thiên thần Moroni đã ban cho ông ta các phiến vàng có chữ khắc trên đó và được Smith dịch sang Anh ngữ như là Cuốn sách của Mormon. Smith công bố Cuốn sách của Mormon và tổ chức một giáo hội mới vào năm 1830. Những người theo giáo phái Mormon di chuyển tới vùng Kirtland, Ohio và tổ chức thành một cộng đồng. Họ đụng độ với những người không theo Mormon và bị tấn công cướp phá. Tuy nhiên, giáo phái vẫn phát triển và số người theo họ càng đông lên. Các vụ đụng độ có vũ trang xảy ra nhiều hơn đã buộc 15.000 giáo đồ phải dời đến vùng Illinois năm 1839. Smith và các giáo đồ tạo dựng nên thị trấn Nauyoo ở đấy. Sự lớn mạnh của thị trấn khiến nhiều người khác khó chịu và xúi giục chính quyền bắt giam Smith năm 1844. Ông bị đám đông giết chết ở trong tù ngay trong năm đó. Brigham Young được bầu ra thay cho Smith cầm đầu giáo phái. Các vụ bạo lực của đám đông khiến họ phải làm một cuộc di cư tập thể vào thời gian 1846-1847, vượt qua quãng đường 1800 km đi tới Utah. Họ cử 170 người đi tìm nơi định cư và những người này đã đến thung lũng Great Salt Lake lúc đó là sa mạc hoang vu. Sau đó 80.000 giáo đồ đã dần dần hoàn tất cuộc di cư đến miền hoang mạc Viễn Tây này suốt trong nhiều năm. Họ đã tổ chức khai phá vùng đất thành nơi trồng trọt được và định cư ở đó. Họ gửi thỉnh nguyện thư lên chính phủ Mỹ năm 1849 xin được lập bang, nhưng bị bác bỏ vì lý do tập quán đa thê của giáo phái. Sau khi xảy ra vụ thảm sát Mountain Meadows năm 1857 chính phủ Mỹ cử quân viễn chinh tới đàn áp. Cuộc đàn áp này đã khiến công luận có thiện cảm với giáo phái Mormon. Dưới sự lãnh đạo của Young những người Mormon đã mở mang vùng đất đai này, xây nhà thờ, trường học, khuyến khích công nghiệp phát triển. Năm 1877 Young chết và John Taylor lên thay. Năm 1890 giáo phái Mormon bãi bỏ tục đa thê để thích nghi với luật dân sự Mỹ. Năm 1896 bang Utah được chấp thuận thành bang thứ 45 của Hợp Chủng Quốc.

[48] Khai hóa văn minh: tạm dịch từ ngữ civilisade trong nguyên tác. Chơi chữ theo từ crusade có nghĩa là thập tự chinh. Từ civilisade có nghĩa là civilise (văn minh) hóa bằng hình thức crusade (Thập tự chinh).

[49] Coeteris paribus: trong khi các điều kiện khác là như nhau.

[50] à fortiori: vì lý lẽ còn mạnh hơn nữa.

[51] John Locke (1632-1704) triết gia người Anh, được xem là người khởi đầu phong trào Khai sáng ở Anh và Pháp và người truyền cảm hứng cho Bản Hiến pháp Hoa Kỳ.

[52] Immanuel Kant (1724-1804) triết gia người Đức, được xem là người đã mở ra một kỷ nguyên mới cho tư duy triết học và ảnh hưởng rất lớn đến nhiều trường phái triết học hiện đại. Tác phẩm Phê phán lý tính thuần túy (Kritik der reinen vernunft) của ông là một kiệt tác triết học. Hiện đã có bản dịch tiếng Việt rất công phu của Bùi Văn Nam Sơn (NXB Văn học, 2004).

[53] Herodotus là nhà viết sử thời cổ Hy Lạp, sống vào thế kỷ thứ V tCN. Tác phẩm Lịch sử của ông viết về các cuộc chiến tranh giữa Hy Lạp và Ba Tư (499-479 tCN). Herodotus được coi là sử gia đầu tiên của Hy Lạp cũng như của châu Âu. Bộ Lịch sử của ông là nguồn thông tin gốc không những của lịch sử Hy Lạp thời kỳ 550-479 tCN, mà còn của cả lịch sử Tây Á và Ai Cập thời kỳ này.

[54] Plato (428/427 - 348/347 tCN) - triết gia Hy Lạp, người đặt nền móng triết học cho văn hóa phương Tây. Những cuộc đối thoại (Dialogues) là tác phẩm chính của Plato dưới hình thức các các chủ đề như Sophist, Republic, Phaedo… Tác phẩm Apologia được nhắc tới ở chương hai là một trong Những cuộc đối thoại ấy , trong đó Plato bênh vực cho Socrates.

[55] Jeremy Austin (1790-1859): nhà luật học người Anh, nổi tiếng với tác phẩm Miền đất luật pháp dứt khoát (The Province of Juriprudence Determined, 1832). Austin xem luật pháp như một thứ mệnh lệnh nhằm phân biệt luật pháp với đạo đức. Ông là người ủng hộ nhiệt thành thuyết Công lợi (Utilitarianism) của Jeremy Bentham.

[56] David Ricardo (1772-1823): nhà kinh tế học người Anh. Ông là người đã hệ thống hóa tri thức kinh tế học trong hình thức kinh điển mang lại sự ra đời của khoa học về kinh tế vào thế kỷ XIX. Học thuyết kinh tế phóng nhiệm (laissez - faire) của ông đặc trưng bởi Quy luật sắt về tiền lương (Iron Law of Wages) khẳng định rằng mọi toan tính cải thiện thu nhập thực tế của công nhân đều không hiệu quả và tiền lương tối thiểu luôn ở gần mức đủ sống. Xem thêm Những nguyên lý cơ bản của kinh tế chính trị , Nguyễn Hải Sa và Nguyễn Hoàng Long dịch, NXB Chính trị quốc gia, 2003.

[57] Jeremy Bentham (1748-1832) triết gia và nhà kinh tế học người Anh, người diễn giải chủ chốt của chủ nghĩa công lợi (Utilitarianism). Ông cho rằng mỗi người là kẻ xét đoán tốt nhất cho lợi thế riêng của mình, rằng đứng trên quan điểm công chúng mà xét thì cần khuyến khích anh ta theo đuổi lợi thế riêng ấy một cách công khai không giấu giếm.

Trong tác phẩm Sổ tay kinh tế chính trị học (Manual of Political Economy), ông đưa ra một danh mục những gì nhà nước phải làm và những gì nhà nước không được làm; danh mục sau dài hơn danh mục trước rất nhiều. Tác phẩm lớn của ông về triết học là cuốn Một dẫn đề về các nguyên tắc của Đạo đức và Luật pháp (An Introduction to the Principles of Morals and Legislation, 1789). Trong tác phẩm này, ông định nghĩa nguyên tắc hữu ích như là “tính chất trong bất cứ khách thể nào có khuynh hướng sản sinh ra niềm vui, điều thiện hay niềm hạnh phúc, hoặc có khuynh hướng ngăn chặn không cho xảy ra sự tổn hại, nỗi đau khổ, điều ác hay nỗi bất hạnh đối với nhóm người can dự mà lợi ích của họ đang được xem xét”. Mục đích của mọi luật pháp phải là “hạnh phúc nhiều nhất cho nhiều người nhất”. Ông diễn dịch từ nguyên tắc hữu ích để đưa ra kết luận rằng mọi trừng phạt đều gắn với đau khổ nên đó là điều ác; trừng phạt chỉ nên sử dụng “trong chừng mực nó hứa hẹn loại trừ điều ác lớn hơn”.

[58] Các Đạo luật Cải cách: là những dự án cải cách tiến hành tại nước Anh ở thế kỷ XIX. Đạo luật Cải cách đầu tiên năm 1832 mở rộng quyền bầu cử cho bộ phận tầng lớp trung lưu mới nhằm giảm bớt căng thẳng chính trị trong xã hội. Đạo luật cải cách thứ hai năm 1867 đem lại quyền đi bầu cho người lao động ở các đô thị. Đạo luật cải cách thứ ba năm 1884-85 mở rộng quyền bầu cử cho người lao động khu vực nông nghiệp. Các dự luật cải cách này đã mở đường cho việc thiết lập quyền phổ thông đầu phiếu đối với nam giới ở nước Anh.

[59] E. M. Remarque (1898-1970) nhà văn Đức, tác phẩm Phía Tây không có gì lạ của ông xuất bản năm 1929 được coi là cuốn tiếu thuyết hay nhất về thế chiến thứ nhất (bản dịch tiếng Việt của Lê Huy, NXB Văn học 2001). Thời quốc xã Đức, ông buộc phải rời nước Đức sống lưu vong.

[60] S. Zweig (1881-1942): nhà văn Đức gốc Áo. Để tránh họa Quốc xã ông phải sống lưu vong ở Anh từ năm 1934 và rời sang Braxin từ năm 1940. Tác phẩm Thế giới ngày hôm qua (Le monde d’hier) của ông được Phùng Đệ-Trần Nam Lương dịch sang tiếng Việt với nhan đề Thế giới những ngày qua (NXB Giáo dục, 1998).