Chương 8
Claus đến bằng tầu hoả. Cái nhà ga bé nhỏ không thay đổi, chỉ có khác là bây giờ một chiếc xe ô tô ca đang đợi khách.
Claus không đi xe ca, anh đi bộ về trung tâm thành phố. Các cây dẻ đang nở hoa, phố xá vẫn vắng vẻ và yên tĩnh như xưa. Claus dừng lại ở quảng trường Principale. Một ngôi nhà lớn hai tầng mọc lên ở chỗ các ngôi nhà nhỏ thấp bé. Đó là khách sạn. Claus bước vào và hỏi cô tiếp tân:
- Khách sạn này được xây từ bao giờ?
- Độ gần mười năm, thưa ông. Ông muốn thuê phòng ạ?
- Tôi cũng chưa biết. Vài giờ nữa tôi sẽ quay lại. Trong khi chờ đợi cô có thể trông giúp chiếc vali được không?
- Thưa ông, được.
Claus lại đi, cắt ngang thành phố, vẫn một con đường không trải nhựa dẫn đến một khu đất thể thao. Claus đi cắt ngang khu đất và ngồi xuống cỏ bên bờ sông. Lát sau có những đứa trẻ đến chơi bóng. Claus hỏi một đứa trong bọn chúng:
- Khu đất thể thao này có đã lâu chưa?
Đứa bé nhún vai:
- Khu đất ư? Nó luôn luôn ở đó mà.
Claus quay lại thành phố, anh trèo lên lâu đài, rồi đến nghĩa trang. Anh tìm rất lâu, nhưng không thấy mộ của ông và của bà. Anh lại trở về thành phố, ngồi xuống chiếc ghế dài ở quảng trường Principale, anh nhìn những người đi mua bán, đi làm về, đi bộ dạo chơi hoặc đi xe đạp. Có rất ít ôtô. Khi các cửa hiệu đóng cửa, quảng trường vắng dần, Claus trở về khách sạn.
- Cô làm ơn cho tôi một phòng.
- Ông thuê bao nhiêu ngày ạ?
- Tôi cũng chưa biết được.
- Thưa ông, xin ông cho mượn hộ chiếu.
- Đây, thưa cô.
- Ông là người nước ngoài ạ? Ông đã học tiếng của chúng tôi ở đâu mà nói tốt như vậy?
- Ở đây. Tôi đã qua thời thơ ấu tại thành phố này.
- Vậy thì đã lâu rồi.
Claus cười:
- Cô thấy tôi già lắm sao?
Người đàn bà trẻ đỏ mặt:
- Không đâu ạ, không phải tôi muốn nói thế. Tôi giành cho ông buồng đẹp nhất, tất cả các buồng đều không có khách, vẫn chưa đến mùa nghỉ mà, thưa ông.
- Cô có nhiều khách du lịch không?
- Mùa hè thì nhiều. Tôi cũng xin giới thiệu với ông tiệm ăn của chúng tôi.
Claus vào buồng anh, ở tầng một. Buồng anh có hai cửa sổ trông ra quảng trường.
Claus ăn tại tiệm và lên buồng. Anh mở vali, xếp quần áo vào tủ, kéo một chiếc ghế bành đến trước cửa sổ và nhìn phố xá vắng tanh. Phía bên kia quảng trường, các ngôi nhà cổ vẫn nguyên vẹn. Chúng được tân trang, quét vôi màu hồng, màu vàng, màu xanh, màu ve. Tầng trệt của mỗi nhà là một cửa hàng hoặc cửa hiệu: nào là cửa hàng bách hoá, cửa hàng kỷ niệm, cửa hàng sữa, hiệu sách, cửa hàng thời trang. Hiệu sách nằm trong ngôi nhà màu xanh, hiệu sách đã ở đó khi Claus còn bé hay đến đó mua giấy và bút chì.
*
Hôm sau, Claus trở lại khu đất thể thao, lâu đài, nghĩa trang và nhà ga. Khi anh mệt, anh vào một quán rượu, anh ngồi trong công viên. Chiều tối, anh trở lại quảng trường Principale, anh vào cửa hàng sách.
Một người đàn ông tóc bạc, ngồi ở quầy hàng, đọc sách dưới ánh sáng một ngọn đèn bàn. Cửa hàng chìm trong bóng tối mờ mờ, không có lấy một khách hàng. Người đàn ông tóc bạc đứng dậy:
- Xin anh thứ lỗi, tôi quên không bật đèn.
Căn phòng và các tủ kính sáng lên. Người đàn ông hỏi:
- Anh cần gì?
Claus nói:
- Ông đừng bận tâm, tôi chỉ xem mà thôi.
Người đàn ông bỏ kính xuống:
- Lucas!
Claus mỉm cười:
- Ông biết em tôi! Bây giờ nó ở đâu?
Người đàn ông nhắc lại:
- Lucas!
- Tôi là anh của Lucas. Tôi là Claus.
- Lucas, chú xin cháu đừng đùa như vậy.
Claus rút hộ chiếu trong túi ra:
- Ông hãy xem đây.
Người đàn ông xem tấm hộ chiếu:
- Cái này chẳng chứng tỏ điều gì.
Claus nói:
- Tôi rất tiếc là không có cách nào đế chứng minh căn cước của tôi. Tôi là Claus T. và tôi đang đi tìm em trai tôi là Lucas. Ông biết nó. Chắc chắn nó đã nói với ông về tôi, về anh trai Claus của nó.
- Phải, nó hay nói với tôi về anh, nhưng tôi phải thú nhận với anh rằng tôi chưa bao giờ tin vào sự tồn tại của anh.
Claus cười:
- Khi tôi nói với ai đó về Lucas thì người đó cũng không tin tôi. Thật buồn cười, ông có thấy không?
- Không, không hẳn là buồn cười. Ta hãy ngồi xuống đã.
Người đàn ông chỉ một cái bàn thấp và hai cái ghế bành ở cuối phòng, trước cái cửa sổ mở ra vườn.
- Nếu anh không phải là Lucas thì tôi phải tự giới thiệu đã. Tôi là Peter, Peter N. Nhưng nếu anh không phải là Lucas thì tại sao anh lại vào đây, vào đúng đây.
- Tôi đến hôm qua. Trước tiên tôi đến nhà bà, nhưng nhà bà không còn nữa, thay vào đó là một khu đất thể thao. Nếu tôi đến đây thì bởi vì, khi tôi còn bé, đây đã là hiệu sách. Chúng tôi hay đến đây mua giấy và bút chì. Tôi còn nhớ người đàn ông quản lý hiệu sách, một người xanh xao và béo phì. Tôi hy vọng gặp ông ta ở đây.
- Victor à?
- Tôi không biết tên ông ta.
- Ông ấy tên là Victor. Ông ấy chết rồi.
- Tất nhiên. Hồi đó ông ta cũng không còn trẻ.
- Đúng vậy.
Peter nhìn khu vườn chìm trong màn đêm.
Claus nói:
- Tôi tưởng rằng sẽ gặp Lucas trong căn nhà của bà, sau bao năm tháng. Bây giờ nó đâu?
Peter tiếp lục nhìn đêm tối:
- Tôi không biết.
- Trong thành phố này có ai biết được không?
- Tôi nghĩ rằng không.
- Ông có biết rõ Lucas không?
Peter nhìn vào mắt Claus:
- Rõ như một người tri kỷ.
Peter cúi mình trên bàn, xiết chặt hai vai Claus:
- Lucas hãy thôi ngay cái màn kịch này! Chẳng ích lợi gì đâu! Cháu không xấu hổ làm cái trò này với chú à?
Claus vùng ra và đứng lên:
- Tôi thấy rằng Lucas và ông rất thân nhau đấy.
Peter ngã người vào ghế bành:
- Phải, rất thân. Claus, hãy tha thứ cho tôi. Tôi biết Lucas từ năm mười lăm tuổi. Đến năm ba mươi tuổi, nó đã mất tích.
- Mất tích? Ông muốn nói rằng nó đã rời thành phố này?
- Thành phố này, có khi cả đất nước này. Rồi hôm nay nó trở lại dưới một cái tên khác. Tôi luôn luôn cho là ngớ ngẩn cái trò chơi chữ với tên của các anh.
- Ông chúng tôi mang một cái tên kép, Claus - Lucas. Mẹ chúng tôi do rất yêu quý ông cụ nên đã đặt tên cho chúng tôi như vậy. Trước mặt ông bây giờ không phải là Lucas mà là Claus.
Peter đứng lên:
- Thôi được, Claus. Vậy thì tôi phải giao lại cho anh cái mà Lucas. Đợi tôi một lát.
Peter lên buồng, một lúc sau ông xuống trong tay cầm năm cuốn vở học trò:
- Đây. Những quyển vở này gửi cho anh. Lúc đầu có nhiều hơn, nhưng sau đó Lucas đã lấy lại, đã sửa chữa, đã bỏ tất cả những gì không cần thiết. Nếu nó có thời gian thì tôi tin rằng nó sẽ bỏ hết.
Claus lắc đầu:
- Không, nó không xoá hết. Nó sẽ giữ lại cái chính cho tôi.
Claus cầm lấy những quyển vở. Anh mỉm cười:
- Cuối cùng thì đây là chứng cứ về sự tồn tại của Lucas. Cảm ơn ông Peter. Không có ai đọc chúng đấy chứ?
- Không có ai đọc, trừ tôi.
- Tôi trú tại khách sạn trước mặt. Tôi sẽ trở lại.
Claus đọc suốt đêm, thỉnh thoảng anh ngước mắt lên để quan sát phố xá.
Bên trên cửa hàng sách, hai trong số ba cửa sổ của căn hộ còn sáng đèn rất lâu, cái thứ ba vẫn tối.
Sáng ra, Peter kéo cửa sắt của cửa hàng, Claus đi nằm. Đến chiều Claus ra khỏi khách sạn, anh ăn cơm trong một quán bình dân của thành phố, nơi người ta phục vụ những món ăn nóng bất kể lúc nào trong ngày.
Bầu trời đầy mây. Claus trở lại khu đất thể thao, ngồi bên bờ sông. Anh ngồi đó cho tới tận tối và cho đến lúc trời bắt đầu mưa.
Khi Claus đến quảng trường Principale, hiệu sách đã đóng cửa, Claus gõ cửa. Peter thò đầu qua cửa sổ:
- Cửa không đóng đâu, tôi đang đợi anh. Mời anh lên.
Claus gặp Peter trong nhà bếp. Có nhiều xoong đang bốc khói trên bếp lò. Peter nói:
- Cơm chưa nấu xong, tôi có rượu đây, anh uống một chút nhé?
- Vâng, tôi đã đọc những quyển vở. Sau đó thì xảy ra chuyện gì? Sau cái chết của thằng bé ấy mà.
- Chẳng xảy ra gì hết. Lucas tiếp tục làm việc. Sáng ra nó mở cửa hàng, tối đến nó đóng cửa hàng. Nó phục vụ khách không nói một lời nào. Nó hầu như không buồn mở miệng nữa. Có vài người tưởng rằng nó câm. Tôi đến thăm nó luôn, chúng tôi im lặng chơi cờ. Nó chơi tồi lắm. Nó không đọc sách nữa, không viết nữa. Tôi nghĩ nó ăn rất ít và không bao giờ ngủ. Trong buồng nó, đèn sáng suốt đêm, nhưng nó không có đó. Nó đi lang thang trong các phố tối tăm của thanh phố và trong nghĩa trang. Nó bảo rằng nơi lý tưởng để ngủ, đó là nấm mồ của người mà mình đã từng yêu quý.
Peter im lặng, rót rượu uống. Claus nói:
- Rồi sau đó ra sao? Ông kể tiếp đi.
- Năm năm sau, trong thời gian tiến hành công việc xây dựng khu thể thao, tôi được biết rằng người ta đã tìm được cái xác của một người đàn bà vùi bên bờ sông gần nhà bà anh. Tôi đã báo cho Lucas. Nó đã cảm ơn tôi và hôm sau mất tích. Từ ngày đó không ai gặp lại nó nữa. Trên bàn nó để lại một bức thư, trong đó nó gửi lại tôi ngôi nhà và cửa hàng sách. Điều buồn nhất trong chuyện này, anh thấy không, đó là đã không nhận ra được thi thể của Yasmine. Nhà cầm quyền đã làm qua quýt cho xong việc. Có biết bao xác chết khắp nơi tại xứ sở khốn khổ này từ ngày chiến tranh và cách mạng. Cái xác đó có thể là bất cứ người đàn bà nào đã cố vượt biên giới và giẩm phải mìn.
Claus nói:
- Bây giờ nó có thể trở về, đã đến lúc rồi.
- Phải, sau hai mươi năm, tôi cho rằng đã đến lúc.
Peter nhìn vào mắt Claus:
- Đúng vậy, Claus. Bây giờ Lucas có thể trở về.
- Phải, rất có thể là Lucas sẽ về.
- Người ta bảo rằng nó trốn trong rừng và cứ tối đến nó lại lảng vảng trong các phố xá. Nhưng đó chỉ là những lời ngồi lê đôi mách.
Peter lắc đầu:
- Claus, hãy vào buồng tôi. Tôi cho anh xem lá thư của Lucas.
Claus đọc:
- “Tôi gửi nhà và sách nằm trong ngôi nhà cho Peter N., với điều kiện ông giữ nguyên trạng, cho đến khi tôi trở về hoặc khi anh tôi là Claus T. trở về. Ký tên: Lucas T.”
Peter nói:
- Chính Lucas đã nhấn mạnh: “Giữ nguyên trạng”. Bây giờ dù anh là Claus hay Lucas, Ngôi nhà này thuộc về anh.
- Thôi nào, Peter, tôi chỉ về đây trong một thời gian ngắn, hộ chiếu của tôi chỉ có ba mươi ngày. Tôi là công dân của một nước khác, và ông cũng biết đấy, không một người nước ngoài nào có thể sỡ hữu tài sản ở đây.
- Nhưng anh có thể nhận tiền lãi do cửa hàng sách mang lại mà tôi đã gửi hàng tháng ở ngân hàng mà tôi đã gửi hai chục năm nay rồi.
- Vậy ông sống bằng gì?
- Tôi có trợ cấp hưu trí và tiền cho thuê ngôi nhà của Victor. Tôi trông nom cửa hàng sách là vì hai anh. Tôi đã ghi chép các khoản một cách chu đáo, anh có thể xem đi.
- Cảm ơn Peter. Tôi không cần tiền, và tôi không muốn xem các khoản của ông một chút nào. Tôi về đây chỉ cốt gặp em tôi thôi.
- Tại sao anh không bao giờ viết thư cho Lucas?
- Chúng tôi đã quyết định sống xa nhau, xa nhau hoàn toàn. Biên giới cũng không đủ, cần phải có cả sự im lặng nữa.
- Nhưng anh đã trở về đây thôi. Tại sao vậy?
- Thử thách như thế là đủ rồi. Tôi mệt mỏi và tôi ốm, tôi muốn gặp lại Lucas.
- Anh biết rõ là anh sẽ không gặp nó mà.
*
Từ buồng bên, một giọng phụ nữ gọi:
- Peter có người à? Ai vậy?
Claus nhìn Peter:
- Ông có vợ à? Vợ ông đây ư?
- Không, đó là Clara.
- Clara ư? Bà ấy không chết?
- Người ta tưởng bà ấy chết. Nhưng bà ấy chỉ bị giam. Sau khi Lucas mất tích ít lâu, bà ấy trở về. Bà ấy không có công ăn việc làm. Bà đi tìm Lucas. Tôi đã để bà ở nhà ta, nghĩa là ở đây. Bà ở cái buồng nhỏ của thằng bé Mathias. Tôi chăm sóc bà ấy. Anh có muốn gặp bà ấy không?
- Vâng, có ạ.
Peter mở cửa buồng:
- Clara, chúng ta có khách đến thăm đấy.
Claus vào trong buồng. Clara đang ngồi trong một chiếc ghế bành bập bênh trước cửa sổ, một cái chăn đắp trên đầu gối, vai quàng khăn, tay cầm sách nhưng không đọc, cái nhìn tan biến qua khoang cửa sổ. Bà đang đu đưa.
Claus nói:
- Chào bà Clara.
Clara không nhìn anh, kể bằng một giọng đều đều:
- Trời vẫn mưa, một cơn mưa nhỏ và lạnh rơi trên cửa sổ, cây cối, mồ mả. Khi “họ” đến gặp tôi, nước mưa đầm đìa trên bộ mặt mệt mỏi của họ. “Họ” nhìn tôi, và cái rét lại càng thêm rét. Các bức tường cũng không bảo vệ được tôi. Chúng chưa bao giờ bảo vệ tôi. Tính vững chắc của chúng chỉ là ảo tưởng, cái màu trắng của chúng đã bị dây bẩn.
Giọng nói của bà đột nhiên thay đổi:
- Peter, em đói rồi! Khi náo thì ăn đây? Với anh thì bữa nào cũng muộn.
Peter trở vào nhà bếp, Claus nói:
- Anh đây mà, Clara.
- Anh đây ư?
Bà nhìn Claus, và chìa tay ra. Anh quỳ xuống, ôm lấy chân bà, đặt đầu vào lòng bà. Clara vuốt tóc anh. Claus cầm lấy tay Clara ấp vào má anh, vào môi anh, một bàn tay khô héo, gầy guộc, lốm đốm những vết của tuổi già.
Clara nói:
- Anh đã để em lại một mình lâu quá, anh Thomas.
Nước mắt chảy trên mặt bà, Claus lấy mùi xoa lau:
- Tôi không phải là Thomas, bà không nhớ chút gì về Lucas sao?
Clara nhắm mắt lại và lắc đầu:
- Thomas, anh không thay đổi gì cả, anh già đi một ít, nhưng anh vẫn thế. Anh hôn em đi.
Bà mỉm cười để lộ cái miệng móm.
Claus lùi lại, anh đứng lên. Anh ra cửa sổ, nhìn phố xá.
Quảng trưởng Principale vắng vẻ, âm u dưới mưa, chỉ có khách sạn nổi lên trong bóng tối với cái cổng sáng rực ánh đèn.
Clara đu đưa trên cái ghế bập bênh:
- Anh đi đi. Anh là ai? Anh làm gì trong buồng tôi? Tại sao Peter không đến? Tôi phải ăn, phải ngủ. Khuya rồi.
Claus ra khỏi buồng Clara, anh thấy Peter trong bếp.
- Clara đói đấy.
Peter mang khay cơm đến cho Clara. Khi trở lại, anh nói:
- Bà ấy rất quan tâm đến thức ăn. Tôi mang cho bà ấy mỗi ngày ba lần. May mà nhờ có thuốc bà ấy ngủ rất nhiều.
- Bà ấy là gánh nặng cho ông.
Peter dọn món ragu với mỳ:
- Cũng không có gì. Bà ấy không làm phiền tôi. Bà đối xử với tôi như thể tôi là đầy tớ của bà ấy, nhưng không sao. Claus, mời anh ăn đi.
- Tôi không đói đâu. Bà ấy không bao giờ ra ngoài à?
- Clara ấy ư? Không, bà ấy không thích và dù có thích đi nữa bà ấy sẽ bị lạc. Bà ấy đọc sách rất nhiều và thích nhìn trời.
- Thế còn ông già không ngủ đâu. Ngày xưa, ông ấy đã ở ngôi nhà trước mặt, bây giờ là khách sạn.
Peter đứng lên:
- Phải, đúng vậy. Tôi không đói. Ta ra ngoài đi.
Họ bước đi ngoài phố. Peter chỉ một ngôi nhà:
- Hồi đó, tôi sống ở đây, trên tầng một. Nếu ông không mệt, tôi có thể chỉ cho ông ngôi nhà Clara đã từng ở.
- Tôi không mệt đâu.
Peter dừng lại trước một căn nhà nhỏ ở phố Ga!
- Đây rồi. Cái nhà này sắp bị phá như bao nhà khác ở phố này. Chúng cũ quá rồi và bẩn thỉu nữa.
- Ta về thôi, tôi rét cóng cả người.
Họ chia tay nhau trước cổng khách sạn. Claus nói:
Tôi đã ra nghĩa trang nhiều lần, nhưng không nhìn thấy mộ bà.
- Mai tôi sẽ chỉ cho anh. Anh hãy đến cửa hàng sách vào lúc sáu giờ chiều, lúc đó trời còn sáng.
Tại một nơi hoang vu của nghĩa trang, Peter cắm cái ô của anh xuống đất:
- Mộ của bà anh ở đây.
- Ông làm sao biết chắc được? Chỉ có toàn cỏ dại, không có thánh giá, chẳng có gì cả. Ông rất có thể nhầm.
- Tôi nhầm ư? Nếu anh biết tôi đã bao lần đến đây để tìm ông em Lucas của anh. Và cả sau này khi nó không còn ở đây nữa. Nơi này đối với tôi là mục đích của những cuộc đi dạo thường xuyên.
Họ lại xuống phố. Peter chăm sóc Clara, rồi họ uống rượu trong buồng Lucas ở trước kia. Mưa rơi xuống bậu cửa sổ, vào cả trong phòng. Peter đi tìm một cái khăn lau nhà để thấm nước.
- Claus, anh hãy nói về anh đi?
- Tôi không có gì để nói cả.
- Ở đằng ấy, cuộc sống có dễ dàng hơn không?
Claus nhún vai:
- Đó là một xã hội dựa trên đồng tiền. Không có chỗ cho những vấn đề liên quan đến cuộc sống. Tôi đã sống ba chục năm trong một nỗi cô đơn chết người.
- Anh đã có vợ con chưa?
Claus cười:
- Phụ nữ thì nhiều, nhưng con thì chưa.
*
Biên bản do chính quyền thành phố K. lập gửi cho sứ quán D.
Về việc: Công dân Claus T. hiện đang bị giam giữ trong nhà tù thành phố K. yêu cầu được hồi hương.
Claus T. năm mươi tuổi, có giấy thông hành hợp pháp, mang hộ chiếu du lịch có hạn ba mười ngày, đã đến thành phố chúng tôi ngày mồng hai tháng Tư năm nay. Hắn đã thuê buồng tại khách sạn duy nhất của thành phố tại quảng trường Principale.
Claus T. đã qua ba tuần tại khách sạn, như một khách du lịch, dạo chơi trong thành phố, đi tham quan các di tích lịch sử, ăn cơm trong khách sạn hoặc trong một tiệm ăn bình dân của thành phố.
Claus T. thường hay đến cửa hàng sách trước mặt khách sạn để mua giấy và bút chì. Vì biết tiếng địa phương, hắn nói chuyện vui vẻ với bà B, chủ hiệu sách và nhiều người khác tại những nơi công cộng.
Qua ba tuần, Claus đã yêu cầu bà B. cho thuê hai buồng phía trên cửa hàng sách. Do hắn trả giá cao nên bà B. đã nhường lại căn hộ hai phòng cho hắn, rồi bà đã đến ở nhà con gái gần đấy.
Claus T. đã ba lần xin gia hạn hộ chiếu không gặp khó khăn gì. Trái lại lần thứ tư xin gia hạn bị từ chối vào tháng Tám. Claus T. đã không kể gì đến sự từ chối đó, và rồi do sự sơ xuất của nhân viên chúng tôi, sự việc bị bỏ lửng đến tháng Mười. Ngày 30 tháng Mười, trong một cuộc kiểm tra thường lệ, cảnh sát địa phương đã phát hiện ra rằng giấy phép của Claus T. không còn hợp lệ nữa.
Lúc này, Claus T. hết tiền. Hắn nợ bà B. hai tháng tiền thuê nhà, hắn hầu như không ăn nữa, hắn đi quán rượu này sang quán rượu khác chơi kèn ácmônica. Bọn bợm rượu trả tiền rượu cho hắn, bà B. mỗi ngày mang đến cho hắn một ít cháo.
Trong lúc hỏi cung, Claus T. đã khẳng định hắn sinh ra ở đất nước chúng tôi, đã qua thời thơ ấu tại thành phố chúng tôi, ở nhà bà hắn và nói rằng muốn ở lại đây cho đến khi em hắn là Lucas T. trở về. Tên Lucas T. không có trong quyển sổ nào của thành phố K, cả cái tên Claus T. cũng không.
Chúng tôi trân trọng đề nghị ông vui lòng thanh toán cho hoá đơn kèm theo đây (tiền phạt, phí tổn điều tra, tiền thuê nhà bà B.) và hồi hương Claus T. dưới sự bảo trợ của ông.
Ký thay chính quyền thành phố K.I.S
Tái bút: Vì những lý do an ninh, đương nhiên là chúng tôi đã xem xét bản thảo thuộc sỡ hữu của Claus T. Hắn khẳng định rằng, bằng bản thảo này, hắn chứng tỏ sự tồn tại của em hắn là Lucas đã viết phần lớn trong đó, còn hắn thì chỉ viết thêm những trang cuối cùng của chương Tám. Nhưng từ đầu đến cuối thì chữ viết lại chỉ do một bàn tay viết ra, còn giấy thì lại không có dấu hiệu gì đã cũ đi. Phần lớn bản thảo đã được viết một mạch, do cùng một người viết trong khoảng thời gian không quá sáu tháng, nghĩa là do chính tay Claus T. viết trong thời gian hắn lưu trú trong thành phố chúng tôi.
Còn về nội dung, chỉ có thể là sự hư cấu vì các sự kiện miêu tả cũng như các nhân vật đều không tồn tại trong thành phố K., trừ trường hợp nhân vật người bà của Claus T. mà chúng tôi đã tìm được dấu tích. Người đàn bà này quả thật có một ngôi nhà ở địa điểm của khu đất thể thao hiện nay. Bà ta đã chết không người thừa kế cách đây ba mươi lăm năm. Trong sổ sách của chúng tôi bà mang tên Mariaz, vợ ông V.
Có thể là trong chiến tranh có người đã giao cho bà trông nom một hoặc vài đứa trẻ.