← Quay lại trang sách

Chương 2

Trong xí nghiệp lắp ráp ở phía bắc đoạn đường tránh Fisher, phó giám đốc Matt Zaleski một lão tướng tóc điểm bạc của công nghiệp xe hơi lấy làm mừng vì bữa nay là thứ tư.

Tuyệt nhiên không phải vì thứ tư là ngày ít vấn đề gấp gáp phải giải quyết, điều này không bao giờ có. Chiều nay cũng vẫn sẽ như mọi buổi chiều khác, lúc trở về nhà là lúc ông đã mệt mỏi rã rời, thấy mình già hơn so với tuổi năm mươi ba, với cảm giác như vừa sống thêm một ngày trong nồi áp suất. Đôi khi Matt Zaleski ước sao mình lấy lại được sức lực thời trai trẻ, trong buổi đầu mới bước vào ngành công nghiệp, hoặc như thời làm phi công lái máy bay ném bom trong thế chiến thứ hai. Nhớ lại những chiến công huy hoàng đã lập được trên mặt trận chính châu Âu mới thấy những tháng năm chinh chiến cũng không làm kiệt sức bằng công việc đang gánh vác hiện nay.

Như lúc này, vừa vào tới phòng làm việc lắp kính đặt lưng chừng phía trên các phân xưởng lắp ráp của nhà máy, ông vừa cởi áo khoác vừa đọc lướt bản báo cáo nhãn đỏ do một người tốt bụng nào đã đặt sẵn trên bàn. Bản ghi những yêu sách của công đoàn mà ông thấy ngay là nếu không giải quyết một cách khẩn trương và thận trọng sẽ có thể làm bùng nổ một cuộc tổng bãi công. Trong một chồng giấy tờ khác chắc chắn còn nhiều mối bận tâm nữa: thiếu vật tư (ngày nào cũng như ngày nào), khiếu nại về chất lượng sản phẩm, máy móc hư hỏng, hoặc một điều bí hiểm gì đó chưa ai từng nghĩ tới, một loạt những rắc rối, riêng từng cái hoặc kết hợp với nhau có thể làm ngưng dây chuyền lắp ráp và đình đốn sản xuất.

Zaleski buông rơi tấm thân ngũ đoản xuống ghế đặt trước bàn làm việc bằng kim loại xám. Chiếc ghế rên rỉ dưới sức nặng của cái bụng bề thế ông bê đi khắp nơi. Từ nay không còn có thể đưa lọt cái bụng này vào trong khoang lái chật hẹp của chiếc B-17 nữa. Lúc đầu ông đã hi vọng may ra những nỗi lo toan trong công việc sẽ làm tiêu bớt các cân mỡ dư thừa. Nào ngờ chúng còn làm tăng thêm. Nhất là từ khi Freda mất đi. Cô đơn trong tuyệt vọng, đêm đêm ông tỉnh giấc dậy mở tủ lạnh. Vớ được thứ gì ăn thứ ấy chẳng biết làm gì hơn.

Được cái hôm nay là thứ tư.

Phải bắt đầu từ đầu. Ông bấm công tắc máy nội đàm liên lạc với phòng làm việc chính. Cô thư ký vẫn chưa đến. Một nhân viên chấm công trả lời.

“Tôi cần gặp anh Parkland và người đại diện, phó giám đốc ra lệnh. Bảo họ đến ngay lập tức”.

Parkland là đốc công. Người đại diện mà phó giám đốc cho gọi là ai thì đã rõ. Mọi người đều biết có bản báo cáo đánh dấu đỏ. Trong một nhà máy những tin không lành lan nhanh.

Chồng giấy tờ chưa đụng đến tuy biết là cần xem ngay không chậm trễ nhắc nhở Zaleski về những yếu tố khác nhau có thể làm ngưng dây chuyền lắp ráp.

Dù vì bất cứ lý do gì, nguy cơ sản xuất bị đình trệ luôn luôn như lưỡi gươm dí vào mạng sườn Zaleski. Công việc của ông, lý do tồn tại của cá nhân ông là giữ vững sự chuyển động của dây chuyền là trông thấy những chiếc xe hoàn chỉnh từ đó chạy ra mỗi phút một chiếc. Bất kể bằng mánh khóe nào, đôi khi ông phải xoay xở như một nghệ sĩ tung hứng một lúc mười lăm trái cầu. Trò tung hứng hay những lời xin lỗi không có ý nghĩa gì đối với ban giám đốc. Chỉ có một điều thực sự đáng kể: kết quả công việc, mức sản xuất trong ngày, phí tổn sản xuất. Nếu dây chuyền dừng lại người ta sẽ thổi còi ông. Dừng một phút là giảm một chiếc xe, là một tổn thất không thể gỡ lại. Vài ba phút dừng làm thiệt hàng nghìn đôla vì tuy máy ngừng nhưng tiền lương và mọi khoản chi phí khác đâu có dừng lại.

Dù sao bữa nay cũng là thứ tư.

Máy nội đàm sôi.

“Thưa ông Zaleski, họ tới”.

Ông nhận điện, giọng nghiêm nghị.

Matt Zaleski khoái thứ tư chỉ vì lý do rất giản dị: thứ tư cách thứ hai hai ngày và cách thứ sáu cũng hai ngày.

Trong ngành công nghiệp xe hơi, thứ hai và thứ sáu là hai ngày cơ cực cho ban giám đốc vì nạn thợ nghỉ việc. Thứ hai, thợ ăn lương theo giờ thường vắng mặt đông hơn những ngày khác trong tuần. Sau đó là thứ sáu. Cắt nghĩa điều này không khó: thợ thường lĩnh lương thứ năm, có tiền trong tay, nhiều người tự ban thưởng một bữa nhậu linh đình hoặc một đợt nghỉ cuối tuần kéo dài trong ma túy, đến thứ hai vẫn còn say líu lưỡi hoặc còn đang ngủ bù.

Vì thế trong những ngày thứ hai và thứ sáu, vấn đề lớn nhất át hẳn mọi vấn đề khác là giữ vững năng suất dù thiếu thợ. Phải điều nhân công như điều quân cờ. Người đang thành thạo một công đoạn này bỗng phải làm việc anh ta chẳng biết làm. Một công nhân chuyên lắp chụp trục bánh xe bị điều đi lắp chắn bùn trước chỉ sau vài câu hướng dẫn qua loa, có khi còn chẳng được câu nào. Nhiều người dù là nhân viên bàn giấy, lái xe tải, quét dọn cũng bị lôi đi lấp lỗ hổng ở các bộ phận sản xuất. Có người quen ngay công việc, nhiều người phải mất trọn ngày mới đặt xong bộ lót két nước, thậm chí còn lắp ngược.

Thành ra phần lớn những chiếc xuất xưởng ngày thứ hai hay thứ sáu đều lắp ráp cẩu thả, kéo theo biết bao rắc rối cho những người chủ tương lai. Vì vậy những người sành sỏi tránh xa loại xe này như tránh bệnh dịch hạch. Các tay đại lý cỡ bự nắm được tình trạng đó và có ít nhiều uy thế đối với nhà máy thường đòi phải dành cho khách sộp của họ những xe lắp ngày thứ ba, thứ tư hoặc thứ năm. Hơn nữa có cả những khách hàng thông thạo còn đòi ghi thành điều kiện trong phiếu đặt hàng rồi mới ký. Tất nhiên xe bán cho các quan to bao giờ cũng là xe lắp giữa tuần.

Cửa bỗng bật mạnh: đốc công Parkland được lệnh triệu tập, vào thẳng phòng phó giám đốc chẳng thiết gõ cửa. Cao lớn, gân guốc, Parkland trạc bốn mươi, kém Zaleski mười lăm tuổi. Nếu đi học chắc anh ta là một hậu vệ giỏi trong đội bóng, và khác với số đông các đốc công thường gặp, trông anh ta có oai hơn. Lúc này hình như anh đoán biết có chuyện rắc rối và đang chuẩn bị tư thế đương đầu. Anh ta tỏ ra giận dữ và Zaleski nhìn thấy trên gò má bên phải anh ta có vết bầm.

Bỏ qua việc Parkland vào không gõ cửa, Zaleski chỉ cho anh ta chiếc ghế.

“Mời ngồi và lấy lại bình tĩnh. Tôi muốn biết lý lẽ của anh, vì tôi nhất thiết phải nghe cả hai tiếng chuông. Nhưng đừng mất nhiều thì giờ: theo như cái của kia - ông chỉ từ báo cáo - anh đặt chúng tôi vào tổ kiến đấy”.

Parkland ném cái nhìn giận dữ lên vị cấp trên.

“Lý lẽ của bản báo cáo kia chắc là hay. Tôi đuổi cổ thằng cha dám đánh tôi và sẽ không thay đổi quyết định. Còn ông, nếu ông có cái cần phải có, nếu ông biết thế nào là công bằng thì phải ủng hộ tôi”.

Matt Zaleski đã lăn lộn dưới phân xưởng nên học được lối quát tháo đến nay vẫn chưa quên.

“Này, không được giở trò ngu ngốc ở đây nghe chưa? Tôi đã bảo anh “hãy lấy lại bình tĩnh”, bây giờ tôi vẫn thấy như thế. Lúc nào cần tôi sẽ quyết định ủng hộ ai, tại sao ủng hộ. Không được nói với tôi về công bằng và các thứ khác, hiểu chưa?”

Mắt họ gặp nhau. Parkland cúi mặt xuống trước. Matt gật đầu.

“Tốt lắm, Frank. Bây giờ ta xem lại câu chuyện ngu ngốc này từ đâu”.

Ông hiểu Frank Parkland từ lâu. Hồ sơ của viên đốc công này sạch sẽ và nhìn chung anh đối xử công bằng với kẻ dưới. Chắc phải xảy ra chuyện gì khác thường nên anh ta mới xử sự trái tính trái nết như thế.

“Một trường hợp lấn chỗ, gây ách tắc. Thằng nhóc là thủ phạm. Nó còn mới. Nó làm vướng người bên cạnh. Tôi muốn nó phải trở về chỗ của nó”.

Zaleski gật đầu tỏ ý hiểu. Điều này thường xảy ra. Một công nhân chịu trách nhiệm làm một việc cố định nào đó trên dây chuyền nhưng cứ mỗi thao tác lại chậm mất vài phút. Xe hơi trên băng chuyền di chuyển, người công nhân chạy theo và lấn vào khu vực của người khác. Khi người trưởng kíp thấy thế anh ta phải tìm cách đưa người thợ đó về đúng chỗ. Zaleski giục:

“Tiếp tục.”

Chưa kịp nói thì cửa lại mở, đại diện công đoàn bước vào. Người bé nhỏ hồng hào, đeo kính cận và điệu bộ kiểu cách. Ông tên là Illas, trước khi được bầu cách đây vài tháng cũng đã từng làm việc ở dây chuyền.

“Chào ông”, ông chào Zaleski chỉ hất đầu về phía Parkland.

Zaleski mời ngồi xuống ghế.

“Chúng tôi đang đi sâu vào sự việc…

- Đọc báo cáo của tôi ông đỡ mất thì giờ hơn.

- Đọc rồi. Nhưng tôi cần nghe cả phía bên kia. Nói tiếp đi Parkland.

- Vậy là như đã nói ban nãy, tôi gọi một cậu khác và bảo: “Giúp tôi đưa phần việc của anh này về đúng chỗ”.

- Đồ nói điêu!

Illas hét lên. Thật ra anh đã nói: “Đưa phần việc của thằng ranh con này.” Thằng ranh con[1] ấy là một bạn da đen nên đó là một câu chửi độc địa.

- Trời đất ơi! Parkland bực bội gầm lên. Anh tưởng tôi không biết sao? Bao lâu nay lăn lộn trong nhà máy mà tôi lại không biết nên tránh những từ nào?

- Vậy mà anh vẫn cứ nói! Có đúng không?

- Cũng có thể. Tôi nói: cũng có thể vì không nhớ lắm. Nếu quả thật tôi có dùng từ đó thì chẳng qua cũng là buột miệng nói nhịu thôi, chẳng có ý gì”.

Illas nhún vai.

“Bản sửa lại cuối cùng đây phải không?

- Đây không phải là bản sửa lại, đồ đểu!”

Illas đứng bật dậy:

“Thưa ông Zaleski, trong nhà máy này tôi là đại diện nghiệp đoàn công nhân xe hơi. Nếu đây là giọng lưỡi mà…

- Điều đó sẽ không lặp lại. Ông ngồi xuống và nhân đây tôi lưu ý ông nên tự mình giữ gìn đừng dùng nhiều đến từ “đồ điêu”!

- Tôi đã bảo rằng tôi không bịa đặt gì hết, không hề bịa đặt gì hết! Parkland xen vào, nhấn mạnh câu nói bằng cú đấm mạnh xuống bàn. Điều đáng nói hơn là: cậu thợ kia không hề để ý tôi đã nói gì cho đến khi người ta dựng lên câu chuyện này.

- Đó không phải là lời hắn nói! Illas quật lại.

- Có thể bây giờ thì không. Tôi xin nói để ông nghe, ông Matt. Cái cậu lấn chỗ là một cậu bé. Da đen. Mới độ mười bẩy tuổi. Tôi chẳng ghét bỏ gì nó. Nó không nhanh nhẹn nhưng chịu khó. Tôi có thằng em trạc tuổi nó. Đi làm về tôi vẫn hỏi “Thằng ranh con đâu?” Chẳng ai cho thế là không tốt. Ở đây cũng vậy cho đến khi thằng cha Newkirk xen vào.

- Nhưng anh có nhận đã nói “ranh con” không? Illas bướng bỉnh.

- Có, có, anh ta có nói, Zaleski mệt mỏi nói xen vào. Chúng ta chấp nhận như thế”.

Ông ta tự kiềm chế mình như tất cả những lần xảy ra tranh chấp chủng tộc trong nhà máy. Ông có ý kiến riêng, nhất là vì chính ông bản chất là một tay phân biệt chủng tộc thâm căn cố đế. Ông đã trở nên thế trong khu ngoại thành Wyandotte đa số dân là người Ba Lan và là nơi ông ra đời. Từ đó các gia đình gốc xlavơ khinh miệt người da đen, cho họ là lười nhác và gây rối. Đáp lại người Đen căm ghét người Ba Lan và mối ác cảm này vẫn tồn tại ở Detroit. Zaleski vì công việc đòi hỏi nên đã giấu kín bản năng tự nhiên. Không thể điều hành một nhà máy dùng nhiều nhân công da đen mà lại để lộ tình cảm của mình - ít nhất cũng đừng bộc lộ thường xuyên. Vừa lúc nãy ông đã phải kìm mình để khỏi thốt lên: “Dù anh ta có nói thế thì đã sao? Có gì khác nhau đâu? Trưởng kíp bảo thế thì nó cứ việc làm theo. “Nhưng Zaleski biết rằng nói thế chỉ tổ làm tình hình càng nghiêm trọng hơn. Nên ông chỉ lầu bầu:

“Quan trọng là điều xảy ra sau đó.”

- Đúng lúc rồi đấy, Parkland nói. Tôi cứ tưởng không bao giờ nói được đến đoạn này. Lúc ấy chúng tôi sắp tiếp tục công việc trong trật tự thì tên hạng nặng Newkirk dẫn xác đến.

- Cũng là một bạn da đen, Illas nói rõ thêm.

- Newkirk làm việc tận đầu dây chuyền. Hắn đâu có nghe được chuyện gì. Người nào đó đã kể lại cho hắn. Hắn đến, chửi tôi là đồ con lợn phân biệt chủng tộc và đánh tôi”.

Viên đốc công đưa ngón tay lên má chỗ bầm tím đã sưng to thêm từ khi anh vào.

“Anh có đánh lại không? Zaleski vội hỏi.

- Không.

- Rất đáng mừng, Anh khôn ngoan đấy.

- Vâng, đúng thế. Tôi đuổi Newkirk ngay lập tức. Đánh đốc công mà không việc gì, coi sao được!

- Cũng tùy từng trường hợp, Illas nhận xét. Nếu vì bị khiêu khích…

Matt Zaleski luồn tay vào mái tóc. Có những ngày ông ta ngạc nhiên thấy đầu vẫn còn tóc. Vụ này thuộc thẩm quyền McKernon giám đốc nhà máy nhưng ông ta không có nhà. Ông đang ở trụ sở của hãng dự cuộc họp bàn về kiểu xe mới Orion, xe siêu-hiện-đại sắp ra đời. Đôi khi Matt Zaleski có cảm tưởng McKernon đã nghỉ tuy còn những sáu tháng nữa ông ta mới chính thức về hưu.

Thành ra vụ này cũng như một số vụ khác lại rơi lên đầu Zaleski, điều không thú vị gì. Nhất là vì ông không phải người thay chân McKernon. Ông đã được mời lên xem tờ phiếu nhân sự của ông, một tờ giấy rời cặp trong tấm bìa bọc da lúc nào cũng đặt trên phó chủ tịch. Để ông này tiện mở ra xem mỗi khi định thu nhận hoặc thuyên chuyển nhân viên. Trên phiếu dán ảnh của Zaleski có ghi: “Người này hiện đang ở vị trí lãnh đạo thích hợp”.

Những người có vai vế trong công ty đều hiểu cái công thức dễ lọt tai ấy chỉ là một uyển ngữ rẻ tiền. Diễn đạt rõ ra câu đó nghĩa là:

“Người này đã lên cao hết khả năng. Ở chức vụ hiện nay chắc hẳn người này làm việc được nhưng sẽ không lên cao hơn”.

Qui chế rất rõ ràng: trong trường hợp này phải báo cho đương sự biết, đó là quyền lợi tối thiểu của anh ta. Vì thế mấy tháng trước đây Matt Zaleski đã biết mình không bao giờ vượt quá chức phó giám đốc. Lúc đầu tin đó đã làm ông thất vọng cay đắng. Đến nay ông mới quen và đã hiểu rõ nguyên nhân, ông thuộc về phái cổ, một hình mẫu của lớp người đang tàn lụi mà các ông chủ không muốn cho nắm giữ những vị trí then chốt. Ông đã ngoi lên bằng còn đường giờ đây rất ít người đi theo: làm thợ, kiểm tra viên, trưởng phân xưởng, trưởng phòng rồi phó giám đốc. Tay trắng không bằng cấp ngay từ điểm xuất phát vì phải bỏ học nửa chừng khi chiến tranh nổ ra. Hòa bình trở lại ông đăng ký theo học các lớp buổi tối tận dụng các điều kiện ưu đãi đối với cựu chiến binh. Giật được mảnh bằng kỹ sư và sẵn có tham vọng thúc đẩy, ông bắt đầu leo lên, giống những người cùng thế hệ từ bờ biển Normandie, từ những đảo trên Thái bình dương trở về. Tiếc thay, ông đã lên đường quá muộn, - mãi sau này ông mới nhận ra điều đó. Quá muộn màng so với các chàng trai xuất sắc từ các trường Đại học lớn nhảy thẳng vào ghế giám đốc.

Dù vậy đây không phải cái cớ cho McKernon vô tình hoặc cố ý rũ bỏ trách nhiệm: lúc này ông ta vẫn là ông chủ. Phó giám đốc lưỡng lự trong vài giây. Chỉ gọi cú điện thoại là rút được chân ra khỏi câu chuyện có cơ sẽ hết sức rắc rối này.

Ông thay đổi ý định vì hai điều. Trước hết vì tự hào rằng mình cũng đủ sức như McKernon - có khi còn hơn – để giải quyết vụ xung đột. Sau nữa, vì một thứ linh tính: ông cảm thấy không thể chậm trễ một phút nào. Ông quay sang Illas:

“Nghiệp đoàn tính sao?

- À vâng, tôi đã báo cáo với ông chủ tịch…

- Xin miễn cho các chi tiết. Tất nhiên phải bắt đầu từ đây, nhưng vì Chúa, xin ông nói ngắn thôi: ông đòi những gì?

- Được. Chúng tôi đòi ba điều. Trước hết phải nhận lại ngay lập tức anh bạn Newkirk của chúng tôi, kèm theo tiền trả bù thời gian mất việc. Sau đó phải xin lỗi hai người đương sự. Cuối cùng, buộc Parkland nghỉ việc”.

Anh này đang ngồi thụp dưới ghế vội bật dậy:

“Lạy Chúa! Chỉ có thế thôi à? anh hỏi với giọng mỉa mai. Nhân tiện xin hỏi: tôi phải xin lỗi trước khi bị đuổi hay sau?

- Công ty chịu trách nhiệm xin lỗi chính thức, Illas nói rõ. Còn anh, anh nghĩ xem mình có đủ tử tế để thêm lời xin lỗi của anh vào đó không.

- Nghĩ kỹ rồi.

- Nếu anh chịu suy nghĩ sớm hơn, chúng ta đã không sa lầy trong vũng bùn này, Matt Zaleski thốt lên.

- Thế ông chấp nhận tất cả những điều đó sao? viên đốc công kêu lên, làm một cử chỉ giận dữ về phía Illas.

- Tôi chưa nói gì với ai. Tôi tìm cách lập lại trật tự và tôi cần có những tin tức thêm vào điều hai anh đã cung cấp”.

Ông đưa tay với chiếc máy điện thoại phía sau lưng. Ông đứng chắn giữa máy và hai người, quay số và đợi.

“Tình hình dưới đó thế nào? ông hỏi khi thấy có người cầm máy.

- Ông Matt đấy à? người ở đầu dây đằng kia khẽ hỏi.

- Phải.”

Tiếng ồn ào hỗn độn át gần hết tiếng thì thào của người đối thoại. Xưa nay Zaleski vẫn ngạc nhiên thấy người ta có thể sống và làm việc hàng ngày trong tiếng động ghê gớm thế. Riêng ông thì chịu không tài nào quen được nó.

“Tình hình rất xấu, ông Matt, người kia thầm thì.

- Đến mức nào?

- Bọn cầm đầu đã sẵn sàng trên lưng ngựa. Đừng nói lộ tôi đấy.

- Không đời nào. Anh thừa biết thế”.

Tuy quay lưng lại, Zaleski vẫn biết hai người đang lắng nghe. Có thể họ nghi ngờ chứ không thể biết chắc ông đang nói chuyện với một đốc công da đen, Stan Lathruppe. Anh ta là một trong số sáu bảy người ông kính trọng nhất trong nhà máy. Con người anh kể cũng có phần mâu thuẫn. Ngoài nhà máy Lathruppe là một người hoạt động nghiệp đoàn rất tích cực đã một thời tôn sùng Malcolm X. Nhưng trong nhà máy anh có ý thức trách nhiệm, vững tin rằng trong lĩnh vực công nghiệp xe hơi anh sẽ giành giật được cho đồng chủng bằng lý trí nhiều hơn là bằng chủ nghĩa vô chính phủ. Vì thế lúc đầu Zaleski có ác cảm sau chuyển sang mến phục anh.

Điều bất hạnh cho nhà máy là trong hiện trạng mối quan hệ chủng tộc, có ít người da đen làm đốc công, làm giám đốc tính theo tỉ lệ. Mọi người đều biết đáng lẽ số đó phải đông hơn rất nhiều. Nhưng không ít người da đen lùi bước trước gánh nặng trách nhiệm, hoặc sợ chính những người hoạt động công đoàn trẻ tuổi ngay trong hàng ngũ họ, một số khác cảm thấy mình chưa sẵn sàng. Trong những lúc hiếm hoi có được thái độ khách quan, đôi khi Zaleski nghĩ rằng nếu các ông trùm ngành xe hơi biết dự báo tình hình - đó cũng là một phần chức năng của họ - họ đã phải tung ra trong những năm 40 một chương trình tỉ mỉ về cất nhắc người lao động da đen. Và hôm nay sẽ có nhiều Lathruppe hơn, mọi người đều được lợi hơn.

“Theo anh cái gì đang âm ỉ dưới ấy?

- Có thể là đình công.

- Bao giờ?

- Có lẽ sau lúc nghỉ trưa. Cũng có thể trước, nhưng theo tôi thì ít có khả năng”.

Viên đốc công nói nhỏ nên Zaleski lúc nào cũng phải căng tai nghe. Lathruppe không thể làm khác: máy anh ta đang dùng đặt ngay cạnh băng chuyền. Một số thợ da đen ghen tức uy tín của anh và thấy rõ sự kém cỏi của mình gọi anh là “thằng mọi sơn trắng” (ngụ ý nịnh bợ ông chủ). Zaleski phải nghĩ cách làm sao để khỏi làm phức tạp thêm cuộc sống của anh. Ông lại hỏi:

“Chúng chờ à? Tại sao?

- Những người cầm đầu muốn kéo toàn bộ công nhân tham gia.

- Khẩu hiệu đình công vẫn đang lan rộng?

- Còn phải nói. Còn nhanh hơn cái thời dùng trống bên châu Phi.

- Không ai chỉ ra rằng cuộc đình công ấy không hợp pháp, trái với các giao ước tập thể?

- Ông có dự trữ được nhiều câu pha trò kiểu ấy không?

- Ừ đúng thế thật, Zaleski thở dài. Thôi, dù sao cũng cám ơn.

Ông gác máy.

Linh tính không đánh lừa ông: ông sẽ hành động ngay không chậm trễ. Một va chạm chủng tộc ở ngay nơi làm việc có thể là mồi lửa đốt thùng thuốc súng, với sự nhanh nhạy đã đi vào tục ngữ. Khi cuộc bãi công đã được quyết định, phải mất nhiều ngày (sau khi dàn xếp xong xung đột) mới ổn định được trật tự trong mọi việc. Dù phong trào chỉ giới hạn trong số lao động da màu - thậm chí chỉ trong một bộ phận những người này - cũng làm sản xuất ngưng trệ. Trong khi sứ mệnh bảo Matt Zaleski là giữ vững sản xuất.

Dường như đọc được ý nghĩ của ông, Parkland bảo Zaleski:

“Này ông Matt, chẳng lẽ ông để cho họ sai khiến! Nhất định sẽ có những người ngừng việc, sẽ có rắc rối, nhưng có những nguyên tắc đáng cho chúng ta bám giữ, đúng không?

- Có đấy. Điều quan trọng là biết rõ phải bảo vệ những nguyên tắc nào và vào lúc nào”.

Cúi sát người xuống bàn Parkland nói với vẻ tin tưởng thành thật:

“Đúng là tôi có lúc cứng với họ, nhưng vì cần phải thế.

Đốc công đứng giữa hai phe nên bị ăn đòn từ mọi phía. Trước tiên là đòn của ban giám đốc - từ sớm đến tối mấy ông đeo trên lưng thúc giục phải sản xuất, sản xuất mãi, sản xuất nữa. Rồi bộ phận kiểm tra cả đời nhăn nhó chê chất lượng tồi, cuối cùng là công nhân với những tên như Newkirk và nhiều tên khác. Đốc công phải được lòng tất cả chừng ấy người, lại còn phải được lòng cả nghiệp đoàn dù họ sai lầm hay không sai lầm. Công việc thật nặng nên tôi phải cứng tay. Chỉ bằng cách ấy mới sống được. Nhưng đồng thời tôi cũng công bằng. Không bao giờ phân biệt đối xử người làm dưới quyền vì lý do anh ta là da đen. Tôi không phải là cai đồn điền roi lăm lăm trên tay. Và trong chuyện rắc rối đã đưa chúng ta đến đây, nguyên nhân chỉ là vì hình như tôi đã gọi một người da đen bằng tiếng “ranh con”. Nào tôi có bắt nó đi hái bông, đánh giầy, ngồi toa dành riêng cho người đen hoặc chịu những gì gì người ta thường dán vào từ đó! Tôi chỉ giúp nó làm việc. Và nếu quả thật tôi có nói thế, do sơ ý buột miệng nói nhịu thôi, thì tôi cũng ân hận thật lòng. Không giống như với Newkirk. Hắn bị đuổi và phải chịu các hậu quả khác, Nếu hắn thoát không bị trừng phạt khi vô cớ đánh đốc công thì ông có thể nhét lá cờ của ông xuống dưới đít và vĩnh biệt mọi thứ kỷ luật từ hôm nay. Nói đến công bằng là tôi muốn nói những điều vừa rồi.

- “Trong lập luận của anh có vài ba điểm đúng” Zaleski thừa nhận.

Ông biết rõ Parkland đối xử với thợ da đen có công tâm hơn nhiều người khác trong nhà máy. Ông quay sang Illas.

“Ý anh thế nào?”

Đại diện nghiệp đoàn ngước cặp mắt đờ đẫn dưới cặp kính dầy.

“Tôi đã trình bày rõ lập trường của nghiệp đoàn, thưa ông Zaleski.”

- Vậy nếu tôi không nghe theo anh, nếu tôi ủng hộ Frank như anh ta yêu cầu, chuyện gì sẽ xảy ra?

- Chúng tôi sẽ bắt buộc phải tiến hành thủ tục khiếu nại.

- Được. Đây là quyền các anh. Nếu đi tới cùng, việc đó sẽ kéo dài hơn ba mươi ngày. Trong khi chờ đợi mọi người vẫn làm việc chứ?

- Tất nhiên. Bản giao ước tập thể qui định…

- Không cần dạy tôi bản giao ước nói gì, Zaleski hét lên. Nó nói rằng trong khi đang điều đình mọi người phải ở vị trí làm việc. Vậy mà vào đúng lúc này một phần lớn người của anh đang chuẩn bị quẳng hết công việc đấy, vi phạm bản giao ước”.

Lần đầu tiên Illas tỏ ra lúng túng.

“Nghiệp đoàn công nhân xe hơi UAW. không cho phép đình công trái luật.

- Vậy nhân danh Chúa thiêng liêng, anh hãy chặn ngay cuộc bãi công này đi.

- Nếu đúng như ông vừa nói, tôi sẽ đi bảo mấy người của nghiệp đoàn.

- Nói với họ chẳng ăn thua gì đâu, anh cũng biết như tôi vậy.

Illas tái mặt. Rõ ràng Illas không thích thú gì khi nghĩ đến việc tranh cãi với một số đoàn viên da đen trong tâm trạng hiện nay.

Matt Zaleski ý thức rất rõ điều đó. Tình thế hiện tại đặt nghiệp đoàn vào vị thế rất tế nhị. Không ủng hộ các đoàn viên da đen họ sẽ kết tội các thủ lĩnh nghiệp đoàn là có đầu óc phân biệt chủng tộc, làm tôi tớ cho ban giám đốc. Mặt khác nếu nghiệp đoàn đi quá xa trong việc ủng hộ thì về mặt pháp lí họ sẽ rơi vào một vị thế không thể chịu đựng nổi, bị lôi cuốn vào cuộc đình công không định trước. Đình công không hợp pháp là rút phép thông công của các thủ lĩnh nghiệp đoàn UAW[2] như Woodcock, Fraser, Greathouse, Bannon và những người khác, họ đã xây dựng uy tín trên sự không khoan nhượng khi điều đình với giới chủ, và sự tôn trọng triệt để lời hứa. Những người “đánh lẻ” chỉ làm mất tín nhiệm và làm suy yếu nghiệp đoàn.

Zaleski tận dụng ưu thế của ông:

“Những người lãnh dạo nghiệp đoàn chắc chắn sẽ không khen ngợi nếu anh không giành lại được quyền làm chủ tình thế. Muốn chặn đứng cuộc đình công chỉ có một cách: có ngay bây giờ, ngay tại đây một quyết định. Rồi chính anh, Illas, sẽ phổ biến trong nhà máy.

- Còn tùy theo quyết định như thế nào, Illas cảnh giác, lầu bầu. Để xem đã…

Đối với Zaleski mọi việc đều đã rõ. Quyết định ông đưa ra sẽ không làm ai hài lòng - ngay ông cũng không vui vẻ gì -và chắc chắn sẽ phải trải qua một lúc khó khăn, nhưng để nhà máy tiếp tục chạy đều thì ông, Matt Zaleski đành cất hết mọi niềm tin và lòng tự hào của mình vào túi. Đậy khăn hỉ mũi che kín bên trên.

“Quyết định của tôi thế này: không sa thải một ai, Newkirk trở lại làm việc với điều kiện chỉ được dùng nắm đấm trong công việc, về điểm này tôi muốn nói thật rõ: nếu còn xảy ra chuyện như vừa rồi dứt khoát Newkirk sẽ bị tống khỏi cửa. Tôi sẽ tự mình nói với anh ta đôi điều”.

Đại diện nghiệp đoàn không che giấu sự hài lòng.

“Sẽ trả hắn tiền công những giờ nghỉ việc”?

- Hắn vẫn chưa rời khỏi nhà máy hả? Còn à? Thế thì tôi cho rằng có thể trả công đó cho hắn với điều kiện hắn phải làm việc đến hết giờ. Và không nói tới việc thay đổi Parkland nữa.”. Ông nhỏm người đối mặt với viên đốc công: “Anh phải đến gặp gã da đen. Nói cho hắn hiểu là anh không cố ý xúc phạm hắn…”

- Chúng ta đã thống nhất là anh ta phải xin lỗi kia mà, Illas xen vào.

- Lại thế nữa. Parkland nổi giận. Xin lỗi về tất cả những thứ bẩn thỉu…

- Chú ý mồm miệng đấy, Zaleski gắt.

Parkland đứng bật dậy, cao lớn hơn hẳn Zaleski. Đầu ngả về trước, anh nói như khạc từng lời vào mặt phó giám đốc:

- Còn ông thì được quyền tuôn ra cái gì cũng được. Dĩ nhiên khi hèn nhát không dám bảo vệ lẽ công bằng và tự thấy như thế…

- Đủ rồi, nghe chưa? Zaleski hét to, mặt đỏ bầm. Anh nghe rõ chưa, tôi nói: đủ rồi.

- Nghe rõ, nhưng tôi không thích những điều tôi bị nghe.

- Anh thích bị tôi đuổi khỏi nhà máy chắc?

- Có lẽ. Ở ngoài được thở không khí trong lành hơn!

Im lặng một lát. Sau đó Zaleski nhún vai:

“Ở điểm này anh nhầm rồi anh Parkland ạ: ngoài ấy cũng giống trong này thôi, vẫn một mùi xú uế như nhau!”

Ông đã tự chủ lại. Sa thải Parkland ư? Không nên, đó chỉ là thêm một sự bất công nữa. Và là một điều ngu ngốc vì những đốc công giỏi đâu có sẵn! Mặt khác tuy tức giận đấy nhưng Parkland chẳng khi nào tự ý bỏ đi. Zaleski biết thế ngay từ đầu. Parkland hàng tháng phải đóng bao nhiêu thứ tiền - tiền cầm nhà, tiền mua xe, tiền bảo hiểm nhân thọ - nên không thể bỏ qua khoản lương tháng được lĩnh đều đặn. hơn nữa không thể bỗng chốc bỏ đi những quyền lợi đáng kể về mức thâm niên.

Thế mà vài ba phút trước đây ông đã định phản ứng đến nơi đến chốn khi người đốc công nổi cáu kết tội ông hèn nhát. Đã định gào lên rằng khi Parkland còn là thằng nhóc thì Matt Zaleski đã bay đi ném bom xuống châu Âu quốc xã, đã run run chờ lúc mảnh đạn cao xạ vút lên xé nát ruột gan mặt mũi, tự hỏi không biết lúc nào chiếc B17 của ông trúng đạn tử thương rơi xuống, tan tành và bốc cháy như bao nhiêu chiếc khác của Không đoàn số VII Hoa Kỳ, xung quanh ông. ”Đáng lẽ mày phải nhìn vào đó thật kỹ, con ạ, trước khi mắng tao hèn nhát; cũng đừng quên tao là người chịu trách nhiệm làm nhà máy hoạt động, dù cho có phải nuốt mọi điều sỉ nhục để làm được điều đó tao cũng nuốt”. Nhưng cuối cùng Matt Zaleski không nói ra tí nào trong tất cả những điều đó. Ông biết rằng các cuộc ném bom đã trở thành chuyện cũ kỹ, rằng những ý tưởng và những giá trị ngày trước bây giờ đã lỗi thời. Ông cũng biết có nhiều thứ hèn nhát, rằng Frank Parkland có lẽ đúng hoặc ít ra cũng đúng một phần. Ghê sợ chính bản thân mình viên phó giám đốc đứng lên.

“Xuống dưới đó giải quyết tại chỗ”.

Họ rời phòng làm việc - Zaleski đi trước, theo chân là đại diện nghiệp đoàn, sau cùng là Frank Parkland vẫn quàu quạu, hằn học. Đặt chân vào cầu thang sắt nối tầng hành chính trên gác lửng với các phân xưởng dưới tầng trệt, ngay lập tức tiếng ầm ầm của nhà máy xô mạnh vào họ trong một va đụng man rợ, sờ thấy được.

Họ tới đất gần ngay đoạn băng chuyền ở đó công nhân hàn những gióng đầu tiên của bệ xe là phần đỡ chiếc xe hoàn chỉnh. Tại dây tiếng ồn dữ dội đến nỗi chỉ đứng cách nhau độ một mét cũng phải gào lên mới nghe được nhau. Quanh họ những chùm tia lửa sáng chói màu trắng xanh văng khắp nơi. Giữa các tràng máy hàn, máy tán rivê nghe rõ tiếng thổi không dứt của khí nén, nguồn năng lượng chính. Ngay giữa nhà máy bát ngát băng chuyền, khắt khe và dữ tợn như vị thần linh tà giáo đang chuyển động một cách tàn nhẫn. Một con quái vật chậm chập, nặng nề, khắc nghiệt.

Ba người đi cùng chiều với dây chuyền, đại diện nghiệp đoàn sải chân bước lên ngang Zaleski. Vì họ đi nhanh hơn hẳn băng chuyền nên những chiếc xe họ vượt qua càng lúc càng gần tới giai đoạn hoàn chỉnh. Họ đi ngang chỗ xe được lắp đặt động cơ, và ngay phía trước họ chiếc bệ xe nằm dưới dang đón nhận chiếc thùng xe trùm lên trên, trong động tác công nhân gọi là “sự giao hợp”. Bất giác Zaleski đưa mắt chăm chú nhìn khắp gian nhà máy mênh mông, để ý thị sát kỹ những công đoạn chính.

Khi họ đi qua công nhân, người ngẩng đầu lên người quay đầu lại nhìn. Vài ba người ít ỏi ra hiệu chào phó giám đốc; Zaleski thấy rõ số đông công nhân trắng cũng như đen nhìn ông với vẻ lầm lỳ. Ông cảm nhận một bầu không khí xấu độc đầy hằn thù ngấm ngầm và rối loạn che giấu. Một hiện tượng thỉnh thoảng hay xảy ra, có khi vô cớ có khi chỉ vì một chuyện không đâu, như tuồng hiện tượng đó đã nảy sinh một cách tự nhiên. Các nhà xã hội học bảo Zaleski rằng đó là phản ứng với sự đơn điệu quá đáng của công việc.

Đại diện nghiệp đoàn Illas làm bộ nghiêm trang chắc để minh chứng rằng bữa nay anh ta ngoặc với ban giám đốc là do nhiệm vụ chứ không do sở thích.

Zaleski quay sang anh:

“Thoát khỏi phải làm việc trên băng chuyền chắc anh thấy khoái?”

- Hẳn rồi.

Zaleski gật đầu. Nhiều khi những người ngoài ghé đến thăm nhà máy thường tin rằng sau một thời gian người thọ sẽ chấp nhận tiếng ồn lớn, mùi khó chịu, sức nóng, sự gò bó khắc nghiệt của nhịp độ và sự lặp lại các động tác muôn thuở. Matt Zaleski đã từng nghe một số khách giảng giải cho con cái, như đang nói về những con vật nuôi trong vườn thú: “Lâu dần họ sẽ quen, số đông thấy hoàn toàn mãn nguyện về công việc này. Họ không muốn đổi nghề”.

Mỗi lần nghe thế ông đều phải tự kiềm chế thật mạnh để khỏi kêu lên bảo bọn trẻ: “Đừng tin. Không đúng đâu!”

Như tất cả những người hiểu sâu ngọn ngành nền công nghiệp xe hơn, Zaleski biết rõ: trừ một vài trường hợp ít có, những người thợ làm việc tại băng chuyền không bao giờ có ý định ở lại đây suốt đời. Khi mới vào nhà máy họ coi đây là một giải pháp tạm thời trong lúc tìm kiếm công việc khác tốt hơn. Khốn thay đối với số đông trong bọn họ, nhất là những người trình độ học vấn thấp kém, cái “tốt hơn” kia mãi mãi ngoài tầm tay, mãi mãi là giấc mơ không bao giờ nắm bắt được. Và dần dần người thợ đành cam chịu, mắc kẹt trong cái bẫy đôi: một bên là những bổn phận riêng – vợ, con cái, nhà cửa, các khoản tiền tháng này nọ - và một bên là thực tế không thể chối cãi: tiền công trong ngành xe hơi cao hơn các ngành khác.

Nói vậy, nhưng vẫn cần nhắc lại rằng tiền công cao và những quyền lợi phụ khác không hề thay đổi tính chất ác nghiệt, làm kiệt sức của công việc tại băng chuyền. Không phải vì nó đòi hỏi cao về thể lực mà cái chính là nó mài mòn hệ thần kinh: giờ tiếp giờ, ngày tiếp ngày, công việc ở đây buồn tẻ đến chết được, một sự đơn điệu giết người. Hơn nữa thứ lao động ấy tước bỏ mất danh dự con người. Người thợ đứng dây chuyền không cảm thấy mình thực hiện một công việc đến nơi đến chốn. Không bao giờ anh ta làm ra một chiếc xe: anh chỉ sản xuất, hoặc lắp ráp, một bộ phận lẻ, - tăng thêm một vòng đệm, gắn một mảnh băng kim loại, xiết chặt một con ốc. Mãi mãi một vòng đệm ấy, một mảnh băng ấy, một con ốc ấy, cứ như thế và mãi mãi, như thế mãi mãi, trong những điều kiện lao động ngặt nghèo đến nỗi muốn trao đổi vài câu với bè bạn đứng bên cũng khó, mối quan hệ bằng hữu thân thiết không thể hình thành nổi. Nhiều năm sau, số đông làm quen - một cách chật vật - với sự chịu đựng. Vài người rời bỏ nhà máy vì thần kinh suy nhược. Hầu hết thù ghét công việc mình làm.

Thành ra người thợ bị tán chặt vào dây chuyền lắp ráp cũng giống người tù binh hay người tù nói chung: chỉ nghĩ đến thoát thân. Nghỉ việc là một cách thoát thân tạm thời, đình công cũng vậy. Cả hai đều mang lại cho họ một dịp ngưng nghỉ - đấy là cái đích họ đang tìm kiếm một cách cuồng nhiệt trong sự thôi thúc và trong triển vọng của tình hình hiện nay.

Phó giám đốc nhận thấy vào lúc này sự thôi thúc có nguy cơ trở thành bất khả kháng. Một lần nữa ông bảo Illas:

“Mong anh chưa quên sư thỏa thuận giữa chúng ta. Tôi nhất thiết muốn vụ này được dàn xếp thật nhanh, vả lại anh không có gì đáng phàn nàn: anh đã đạt được điều anh muốn.

- Không trọn vẹn.

- Cứ cho là đạt về cơ bản.

Ẩn đằng sau cuộc khẩu chiến ngắn ngủi là một thực trạng cả hai đều biết rõ. Lo tìm cách thoát khỏi dây chuyền một số công nhân thử lao vào hoạt động nghiệp đoàn: người trúng cử sẽ giành được một việc làm đủ giờ, chưa kể đến khả năng ngoi lên trong hệ thống tổ chức của UAW. Đó cũng là con đường Illas đã chọn mấy năm trước đây. Tuy nhiên đấy không phải là giải pháp hoàn hảo: sau khi trúng cử và trở thành một nhân vật chính trị, nếu không muốn nói là một nhân tài chính trị, vị tân đại diện của nghiệp đoàn phải lo đảm bảo được tái cử sau này nên cũng phải thi hành những mánh lới, những mưu mô, những trò đốn mạt như bất cứ vị nghị sĩ nào khác. Công nhân sẽ là người bỏ phiếu bầu hay không bầu anh ta nên anh bắt buộc phải tranh thủ cảm tình của họ. Đó cũng chính là bài toán hiện nay Illas đang phải tìm ra lời giải.

Tới chỗ xảy ra xung đột Zaleski hỏi:

“Anh chàng của anh, Newkirk đâu?”

Illas hất đầu về phía một khoảng trống kê nhiều chiếc ghế và vài chiếc bàn mặt nhựa. Đấy là nơi công nhân nghỉ trưa. Phía cuối bầy một dẫy máy bán hàng tự động, - cà phê, nước chanh, các thứ kẹo. Vạch sơn dưới đất định rõ giới hạn khu này. Bây giờ trong “phòng ăn” chỉ có một người da đen to lớn, nét thô kệch. Anh ngồi giữa đám khói thuốc lững lờ bay, nhìn ba người tiến đến.

“Hắn đấy à? Zaleski hỏi lại. Anh tới bảo hắn làm việc trở lại và giải thích cặn kẽ cho hắn hiểu vụ việc đã dàn xếp xong. Sau đó bảo tới gặp tôi.”

- Ôkê, đại diện nghiệp đoàn lầu bầu và bước qua vạch sơn đến ngồi xuống bên gã Đen lực sĩ, trên mặt đột nhiên nở nụ cười thật rộng.

Frank Parkland đĩnh đạc bước thẳng tới một gã Đen khác trẻ hơn hẳn đang làm việc trên băng chuyền. Anh đứng nói với hắn rất nghiêm trang. Gã kia thoạt đầu tỏ ra lúng túng chẳng mấy chốc đã phì cười, vẻ thanh thản hơi ngốc nghếch. Viên đốc công thân mật đập vào vai gã, tay kia chỉ sang Illas đang thầm thì với Newkirk. Gã Đen trẻ tuổi lại bật cười, Parkland bèn chìa tay, sau một thoáng do dự gã Đen nắm chặt tay viên đốc công. Đứng phía sau Zaleski tự hỏi liệu mình có đóng nổi vai của Parkland một cách thông minh và dễ thương thế không.

“Ông chủ!”

Tiếng gọi từ bên kia dây chuyền lắp ráp, Zaleski quay lại. Người gọi là nhân viên kiểm tra “khoang ngồi”, tay kỳ cựu trong nhà máy. Thấp và to ngang hao hao giống bò mộng ngoại hình anh ta đập vào mắt mọi người vì giống Hitler đến kỳ lạ. Tất nhiên bạn bè tặng cho anh biệt danh Adolf. Anh chàng (Zaleski quên bẵng hẳn tên anh ta) lại còn tô đậm thêm vẻ ngoài tức cười của mình bằng cách bới mái tóc ngắn cũn thành một mớ xõa xuống mắt trái.

“Chào Adolf!” Phó giám đốc trèo qua băng chuyền, khéo léo lách giữa chiếc xe mui trần vàng và chiếc hòm kính xanh Nil”. Thế nào, bữa nay khoang ngồi ra sao?

- Đã có thời còn tồi tệ hơn nhiều, thưa ông chủ. Chắc ông còn nhớ những trận đấu loại cuối cùng giải vô địch bóng chày?

- Thôi không nhắc đến nữa!

Những trận đấu giành cúp vô địch bóng chày và dịp khai mạc mùa săn bắn ở Michigan năm nào cũng làm các nhà chế tạo xe hơi toát mồ hôi lạnh. Hai thời kỳ đó trong năm thường có số công nhân bỏ việc vượt xa mọi kỷ lục: có cả những đốc công những kiểm tra viên bị cám dỗ. Không thế tránh được tình trạng chất lượng sản phẩm giảm sút, đặc biệt khi đấu trận chung kết thì tình hình thực sự vô cùng nguy hiểm: thật vậy ngay những người có mặt trong nhà máy cũng chú ý đến bản tin của đài bán dẫn hơn là đến công việc. Đến nỗi năm 1968 là năm các trận đấu loại rất quyết liệt và rất hấp dẫn, Matt Zaleski đã thổ lộ với vợ - từ trần.

“Xe này tuy thế không có gì đáng chê. Chiếc kia phải dành cho một cô tóc vàng. Một cô gái đẹp, hẳn thế - tôi sẽ không ngần ngại nếu cô nàng đến với tôi…”

- Lại thế nữa! Zaleski kêu lên. Cậu đã có một công việc ngon lành rồi thì phải.

Adolf khẽ gật đầu. Zaleski nói đúng một phần: so với các thợ khác làm ở dây chuyền, người kiểm tra “khoang ngồi” làm một công việc đúng là có dễ thở hơn, được nhận nhờ có thâm niên làm trong xưởng. Ngược lại, chức vụ này vừa không có lương cao hơn vừa không có quyền lực gì nhưng lại có nhiều bất tiện rõ rệt. Nếu người kiểm tra tỏ ra tận tụy đến mức phát hiện tất cả mọi khuyết điếm, mọi thiếu sót cho đến từng “chi tiết vụn vặt”, anh ta sẽ chuốc lấy ác cảm của bạn bè, họ rất có thể trả miếng bằng cách gây ra cho anh đủ mọi điều khốn khổ. Ngay các đốc công cũng không thích kiểm tra viên quá sốt sắng: một cách khá tự nhiên, họ chống lại tất cả những gì nằm trong phạm vi quyền hạn của họ mà lại có thể làm chậm nhịp độ sản xuất. Bị ban giám đốc thúc ép phải đảm bảo các chỉ tiêu sản lượng, đốc công thường không ngần ngại bỏ ngoài tai lời khiếu nại của kiểm tra viên. Trong những trường hợp đó chỉ cần rỉ tai nhau câu “thế là được rồi” là bộ phận bị hỏng hoặc chưa hoàn chỉnh vẫn tiếp tục chạy trên băng chuyền. Đôi khi bộ phận đó vẫn bị phát hiện khi rời khỏi băng chuyền, sau đó mười tháng - lời tâm sự đầy ý nghĩa: “Ngay đối với kẻ thù tệ hại nhất, anh cũng cầu cho nó đừng mua phải chiếc xe xuất xưởng hôm nay”.

Adolf chui từ chiếc hòm kính xanh Nil ra và nhẩy bổ luôn và chiếc tiếp theo, một chiếc mini thể thao mầu da cam sáng, ghế hình chậu mầu trắng. Anh nói: ở khâu kiểm tra chất lượng cuối cùng, nhưng điều này rất ít khi xảy ra.

Trong “nhà ăn” vị đại diện nghiệp đoàn đã đứng dậy cùng với Newkirk. Matt Zaleski vẫn nhìn về cuối băng chuyền. Có cái gì đó trong chiếc xe sedan màu xanh sương mù đã chạy cách xa bốn năm xe khiến ông chú ý và ông quyết định phải kiểm tra lại trước khi xe ra xưởng.

Cũng ở phía cuối băng chuyền, ông thấy Frank Parkland ở vị trí đốc công của anh: có lẽ nghĩ rằng phần liên quan đến mình trong vụ vừa qua đã kết luận xong, anh trở về vị trí làm việc, Zaleski cũng cho rằng có thể xếp vụ này lại được rồi. Ông chỉ lo từ nay trở đi viên đốc công sẽ khó duy trì kỉ luật trong xưởng mình. Trong khi… ồ, mặc kệ nó, ai cũng có vấn đề của người ấy, vậy Parkland cứ việc xoay xở lấy.

Zaleski lại trèo qua băng chuyền, lần này theo chiều ngược lại; Newkirk và đại diện nghiệp đoàn tới gặp ông. Gã Đen đi với dáng thoải mái vô tư, thân hình càng đồ sộ hơn nhiều so với lúc ngồi. Mặt anh ta rộng tương xứng với khổ người, rạng rỡ trong nụ cười thỏa mãn.

“Tôi đã báo cho anh bạn Newkirk của chúng tôi biết tôi đã giành được cho anh ta cái gì. Anh ta nhận trở lại làm việc vì những giờ nghỉ việc của anh sẽ được trả công.”

Phó giam đốc không đính chính cách diễn đạt của Illas: ông không tìm cách cắt bỏ của vị đại diện nghiệp đoàn chút kiêu căng vặt vãnh - nếu Illas thích biến vụ va chạm cỏn con này thành cuộc chiến trên bờ biển Normandie, cũng chẳng sao. Tuy nhiên không phải vì thế mà ông chịu để coi ông là kẻ chiến bại.

“Có lẽ anh thôi cười tủm được rồi đấy, ông bảo Newkirk. Chẳng có gì thú vị mà cười. Còn anh, Illas, chắc anh đã giải thích cho hắn hiểu là lần sau sẽ còn ít thú vị hơn nữa?

- Ông ấy đã giải thích cái gì cần giải thích, Newkirk gắt gỏng. Dù thế nào đi nữa cũng sẽ không có lần sau, trừ phi lại có khiêu khích.

- Này, xuýt bị đuổi như anh, thế là quá ngang bướng đấy.

- Đây không phải là bướng bỉnh mà là giận dữ. “Gã Đen phác một cử chỉ rõ ràng bao trùm lên đại diện nghiệp đoàn.” Điều này các anh không thể hiểu nổi.

- Thật chứ? Zaleski xẵng giọng. Anh nhầm rồi: tôi biết nổi giận khi thấy những cuộc cãi lộn ngu xuẩn làm rối loạn công việc trong nhà máy.

- Không giống nỗi giận dữ của tôi. Của tôi nó sâu thẳm tận trong tâm hồn - nó rực cháy không nguôi, không chịu tàn lụi, đó là sự điên dại. Đúng, đó là sự điên dại.

- Đủ rồi Newkirk. Đừng làm tôi nổi khùng, rồi anh sẽ phải hối hận.”

Gã Đen lắc đầu. Một người to như thế, thô đậm như thế mà cử động và giọng nói lại dịu dàng rất lạ. Chỉ có đôi mắt màu xanh xám long lanh biểu lộ niềm xúc động mãnh liệt.

Các ông không thể hiểu được, gã nhắc lại. Phải có lớp da màu đen mới biết là thế nào những triệu mũi kim châm, mũi dao thì đúng hơn, chúng tôi phải hứng chịu từ khi chào đời. Vì thế, ngày bị một gã Trắng gọi “ranh con” là một mũi kim quá mức chịu nổi.

- “Thôi, thôi,” đại diện nghiệp đoàn gạt đi. “Chúng ta đã giải quyết xong rồi, nhắc lại làm gì!”

- “Anh câm mồm đi.” Newkirk quát lên, mắt vẫn nhìn phó giám đốc có ý thách thức.

Đây không phải là lần đầu tiên Matt Zaleski tự hỏi, một cách rất nghiêm túc: phải chăng cả thế giới này đang bắt đầu bơi trong mê sảng. Hàng triệu con người như Newkirk và như Barbara con gái của Zaleski hình như tin chắc vào sự cần thiết phải đạp đổ tất cả những gì xưa kia vẫn là cái khung cho sự tồn tại của loài người: trật tự, uy quyền, đạo đức. Bây giờ hỗn loạn đã thành quy tắc, sự hỗn loạn mà Newkirk đã thể hiện bằng giọng nói và bằng mắt nhìn. Bằng cả những thành ngữ cứng nhắc có sẵn - “giận giữ sâu sa trong tâm hồn” hoặc “sự điên dại” - những từ ngữ cùng một loại, cùng một họ với hàng chục từ khác đại loại “không sống nổi, sự hóa điên, tự quản”. Những từ ngữ mà Matt Zaleski không thể, hơn nữa không muốn tìm hiểu ý nghĩa. Bị choáng váng trước một số biến động, hoảng sợ trước nhịp điệu diễn biến của chúng, càng ngày ông càng cảm thấy mình bị thời thế vượt qua.

Tuy hơi có vẻ ngộ nghĩnh nhưng vẫn có phần nào hợp lô gíc, ông so sánh Newkirk gã da màu to lớn với con gái ông, cô Barbara thon thả, xinh đẹp, hai mươi chín tuổi, tốt nghiệp một trường nổi tiếng và da trắng. Nếu lúc này Barbara ở đây, rất có thể cô sẽ đánh giá tình hình theo cách nhìn của Newkirk chứ không theo cách của bố cô. Matt sẵn sàng trả giá đắt để có được lòng tự tin của họ.

Trong lúc này tất cả cái ông có là một cảm giác mệt mỏi mơ hồ (tuy mới là sáng sớm) và một chút nghi hoặc về cách ông giải quyết vụ vừa rồi. Bực dọc, ông quay sang Newkirk:

“Đi về chỗ làm việc.”

Illas đợi cho Newkirk đi khỏi.

“Sẽ không có ngừng máy. Tôi đã ra chỉ thị.

- Chắc anh muốn nhận lời cảm ơn? Khi người ta không ám sát không cưỡng dâm tôi thì…”

Đại diện nghiệp đoàn nhún vai và bỏ đi.

Trong lúc đó chiếc xe sedan màu xanh sương mù ban nãy làm Zaleski thắc mắc đã chạy thêm một đoạn trên băng chuyền. Phó giám đốc rảo bước đuổi kịp; ông tháo cái “ống treo ở “mặt nạ”[3] đọc các giấy tờ theo xe. Đúng như ông đã nghĩ: ngoài lời chỉ dẫn “đặc biệt” đảm bảo cho xe được qua công đoạn cuối với sự chăm sóc cẩn thận, xe còn mang lời chỉ dẫn nữa “dành cho bạn thân một đốc công”.

Tất cả những chiếc xe được gửi gắm cách đó đều tự nhiên biến thành một thứ thực sự hết sức đặc biệt. Trên thực tế sự nhắn gửi ấy bị ngăn cấm, nó không chính thức, hơn nữa còn bất hợp pháp vì nó bao hàm việc lấy cắp (hoặc một chuỗi vụ ăn cắp) cho “bạn thân một đốc công” số tiền lên tới hàng ngàn đôla.

Matt Zaleski vốn là người hay cóp nhặt các mẫu tin rời rạc sau đó đem ghép lại, đoán gần đúng điều đã xảy ra.

Theo đơn đặt hàng của một ông trùm trong Ban Quan hệ Đối ngoại của hãng, chiếc xe này đáng lẽ chỉ được thiết trí theo sơ đồ mẫu, nghĩa là ở mức tối thiểu. Trên thực tế, nói theo tiếng lóng con nhà nghề, nó được “nhồi”. Không cần tiến hành một cuộc kiểm tra đầy đủ Zaleski đã ghi nhận được: một vô-lăng loại sang trọng, lốp siêu sang màu trắng. Kính màu, bánh xe thép kiểu cách… Ngoài ra xe còn được phun thêm một lớp sơn phụ, giúp tăng độ bền. Chính điều này đã làm Zaleski chú ý.

Chỉ cần tưởng tượng cũng tìm ra lời giải thích gần đúng cho vụ này nhưng phó giám đốc còn căn cứ vào nhiều tình tiết đã nắm được từ lâu. Mười lăm ngày trước đây, một người trong số những đốc công chính của nhà máy đã làm lễ cưới cho con gái. Một ông trùm của Ban Quan hệ Đối ngoại (người sẽ nhận chiếc xe sedan) muốn làm vui lòng viên đốc công đã thu xếp để những tấm ảnh chụp đám cưới được đăng tải trên các báo Detroit và quanh vùng. Bố cô dâu rất vui sướng. Tuy trong nhà máy người ta dị nghị chuyện này.

Phần tiếp theo thật dễ đoán.

Vị quan chức Ban Đối ngoại dễ dàng biết trước ngày hoàn tất chiếc xe hơi của mình. Ông báo cho người bạn đốc công và anh này vui lòng “chăm sóc” chiếc xe sedan màu xanh sương mù trong toàn bộ hành trình của nó trên dây chuyền.

Zaleski biết rõ mình phải làm gì: kiểm tra những điều ông nghi vấn bằng cách hỏi trực tiếp viên đốc công nọ, sau đó gửi báo cáo lên McKernon giám đốc nhà máy làm ông này buộc phải có biện pháp trừng phạt. Thế là châm ngòi cho ba mươi sáu chuyện bê bối từ ông trùm của Ban Đối ngoại lan đến cấp chóp bu của công ty.

Đồng thời Zaleski cũng biết rất rõ là mình sẽ không làm gì hết.

Bởi ông đã có khá nhiều việc trên lưng. Ngay cả sau khi thanh toán xong cuộc xung đột Parkland-Illas-Newkirk. Chắc chắn trong khi ông vắng mặt chốc lát, nhiều vấn đề mới đã kéo đến chật bàn làm việc, chưa kể tập hồ sơ có ở đó từ sáng chưa có thì giờ ngó tới.

Một giờ trước đây đang đi trên đường ông đã nghe qua đài trên xe lời tuyên bố của Emerson Vale: thêm một lần nhà “phê phán ngành xe hơi” nã pháo tới tấp vào toàn thể những nhà chế tạo. Zaleski coi Vale chỉ là tên ngu ngốc đáng sợ và ông sẵn sàng trả giá đắt để thấy hắn thay chân ông trong vài ngày. Đến lúc ấy cái thằng đốn mạt kia may ra mới thấy được rằng phải trải qua bao nhiêu nỗ lực, lo toan, phiền toái, bao nhiêu dàn xếp, phải có biết bao nghị lực mới đi đến chỗ làm ra được những chiếc xe hơi. Dù là những chiếc xe về mặt này mặt khác còn chưa hoàn hảo.

Quay lưng lại chiếc xe xanh Nil, Zaleski đi tới cầu thang. Khi điều hành một nhà máy, cần biết rằng đôi lúc tốt hơn hết là giả ngây giả điếc - như trong vụ móc ngoặc này chẳng hạn.

Tuy nhiên vẫn có niềm an ủi: hôm nay thứ tư.