Chương 14
“Em có biết cuộc đời dơ dáy này làm bằng gì không? Có biết không, em bé? bằng cứt! Toàn là cứt.”
Bằng giọng điệu chán chường ấy, bữa qua Rollie Knight vừa nói với May Lou điều gã nghĩ về những sự kiện xảy ra trong xưởng lắp ráp, nơi gã đang làm việc. Có lẽ đã được đến bảy tuần (bản thân gã không tính đếm những ngày đi làm).
Làm việc đều đặn là điều mới mẻ trong đời gã, May Lou quyết định trở thành vợ gã cũng là một điều mới nữa. Một cô nhân tình gọi đến vào dịp nghỉ cuối tuần, trong thời gian vừa đủ tiêu hết một kỳ lương. Sau đó ít lâu hai người đến ở căn hộ hai phòng trong ngôi nhà “có sẵn đồ cho thuê” gần phố 12 phường Blaine. Từ bữa đó May Lou không hề ra khỏi cửa, sung sướng vì được bận rộn từ sáng đến chiều với xoong chảo, đồ gỗ (ít thôi) và cả ri đô nữa.
Mãi Rollie vẫn không chịu coi là quan trọng cái điều gã gọi là “thói học đòi tư sản” của May Lou. Nhưng gã vẫn đưa tiền chợ, và thực ra vì cuộc sống này cũng không đến nỗi khó chịu, nên sáng nào gã cũng đi làm, cốt để nuôi sống được cả hai.
Lần lấy đà này, sau vụ thất bại ở lớp học nghề là kết quả chuyến viếng thăm của một Chú Tôm, cao lớn, quần áo bảnh chọe (theo cách nói của chính Rollie) một hôm đã vào căn phòng của gã ở hồi ấy. Một ông tên là Leonard Wingate. Thoạt đầu Rollie định tống cổ ông ra cửa, bảo ông cút đi, tuyên bố rằng nhà máy và việc làm là những điều chán ngấy và tuôn ra nhiều điều tử tế khác cùng một loại. Nhưng Chú Tôm trong bộ đồ đẹp tỏa ra vừa kiên nhẫn vừa có tài thuyết phục. Ông ta nói tới con lợn huấn luyện viên trưởng bụng phệ đã lợi dụng bọn trẻ để chiếm đoạt các tấm sét trả công cuối cùng đã bị tóm cổ. Tất nhiên nó không Đen nên không phải ngồi tù; điều này chứng tỏ tất cả những lời tán phét về quyền bình đẳng chủng tộc đúng là những lời tán phét. Wingate thừa nhận điều đó, vì ông là Chú Tôm. Ông thừa nhận hăng hái đến thảm hại, điều thật bất ngờ nơi ông - con người trầm tĩnh, sang trọng - khiến Rollie cứng họng, phải nhận trở lại nhà máy.
Wingate bảo gã không cần theo học hết khóa dạy nghề. Vì xem trong phiếu cá nhân, gã không có nét gì của một tên vụng về hậu đậu nên người ta quyết định thử liều đưa gã vào thẳng dây chuyền lắp ráp. Ngay từ thứ hai tuần tới, mỗi tuần làm năm ngày.
Điều đó (vẫn theo lời Rollie) là một tai họa, một thất bại thảm hại, mệt chối chết - tóm lại, rất cứt.
Đáng lẽ giao cho gã một chỗ làm cố định, một công việc rõ rệt mà gã có thể học để làm được, thì người ta lại đùng gã làm “lưu động”, với nhiệm vụ can thiệp khi có công nhân cần giúp đỡ. Gã bắt buộc phải đi suốt dọc dây chuyền, vừa quen một số động tác thì lại bị tống ra chỗ khác, chỗ khác nữa, rồi lại một chỗ khác nữa, đến nỗi đầu óc quay cuồng. Thêm vào đó, gã thường chỉ được hướng dẫn sơ qua nên nhiều khi không hiểu mình phải làm gì. Không phải vì vậy mà gã lo lắng quá mức: ngay từ buổi đầu của cuộc đời chó má, kinh nghiệm hàng ngày đã dạy gã: tốt hơn hết là đừng hi vọng gì. Một thằng con trai như gã bao giờ cũng phạm sai lầm khi dám hi vọng bất cứ điều gì. Chuyện đang xảy ra với gã lúc này minh họa một điều: giữa hứa hẹn và thực tế có một sự khác biệt đáng căm ghét. Đúng như gã đã nghĩ… tất cả thật là cứt.
Dĩ nhiên chẳng có ai, thật chẳng có người nào nói cho gã biết tốc độ chạy của dây chuyền lắp ráp. Thêm một trò gã phải tự mình mày mò để nắm được, qua một cuộc tập sự cơ cực.
Hôm đầu tiên Rollie mới làm quen với cỗ máy quái dị gọi là “băng chuyền lắp ráp”, gã có cảm tưởng nó bò chậm như con sên mệt mỏi. Đến từ sớm cùng với những công nhân làm kịp ngày, gã thấy sợ trước những nhà xưởng đồ sộ, càng kinh hoảng thấy quanh mình hàng nghìn công nhân người nào cũng biết rõ phải đến chỗ nào và đang đi tới đó một cách vội vã. Riêng gã đứng lơ láo, hoàn toàn lạc lõng. Cuối cùng gã cũng tìm ra phòng giấy nơi phải trình diện, ở đây họ phái gã đến một ngôi nhà rất rộng, mái tôn, có thể coi là sạch nhưng hết sức ồn ào. Lạy Chúa, tiếng ồn thật ghê gớm! Khắp chốn, đinh tai nhức óc, man rợ - như một trăm ban nhạc rốc trong cơn điên.
Băng chuyền chạy ngoằn ngoèo trong nhà xưởng - nói đúng ra, một phần của băng chuyền, vì đâu có thấy chỗ bắt đầu và chỗ tận cùng của nó. Thoạt nhìn, thợ đàn ông và mấy chị thợ ở đấy có rộng rãi thì giờ để làm xong phần việc của từng người trên chiếc xe hơi đang bò qua trước mặt, hơn nữa, còn có thể thở một tí trước khi lặp lại trên chiếc xe sau. Chẳng cần vội vàng làm gì: đối với chú bé khéo léo chân tay và không đến nỗi rỗng óc quá, đây chỉ là chuyện dễ ợt.
Chưa đến một giờ sau, Rollie - giống như hàng trăm ngàn người trước gã - bắt đầu xuống giọng thật lực.
Người đốc công mà Rollie đến gặp chỉ hỏi cộc lốc: “Số?” Một gã Trắng, còn trẻ nhưng đã gần hói, vẻ mệt mỏi như người năm mươi tuổi khá già yếu. Thấy Rollie ngơ ngác anh ta nói rõ thêm “Số bảo hiểm xã hội”.
Rollie lục mãi túi tìm mảnh bìa nhận lúc ở Ban Nhân sự. Mảnh bìa ghi đúng con số đang cần. Đốc công ghi vào sổ, vội vã hấp tấp vì còn ba mươi sáu công việc phải làm. Anh ta lấy móng tay gạch dưới bốn chữ số cuối - 6469 - và tuyên bố: “Từ nay tên mày như vậy”. Anh ta phải gào lên, vì băng chuyền bắt đầu hoạt động, tiếng ồn thật quỉ quái. “Nhớ kĩ số hiệu”.
Rollie định nói: trong tù cũng vậy đấy. May mà không còn thì giờ. Viên đốc công ra hiệu đi theo. Hai người dừng lại ở một vị trí lao động: chiếc xe lắp xong một phần đang từ từ chuyển qua, bóng loáng nước mạ. Rollie đặc biệt chú ý bộ bánh xe, rực rỡ dưới lớp sơn, có thể làm tất cả phường Đen kinh ngạc.
Đốc công hét tận tai gã:
“Công việc: lắp ba đai ốc, hai ở bệ, một ở hòm. Đây, đây và đây. Lấy đai ốc trong hòm kia. Vặn bằng cái này - gọi là clê đo lực. Cắm nó vào ổ điện dưới này. Hiểu chưa?”
Roll lộ rõ vẻ chưa vững tin mình đã hiểu. Đốc công gọi một công nhân.
“Lính mới đây. Bày vẽ cho hắn để hắn thay chân. Cậu sang hệ thống treo mũi. Nhanh tay, nghề!”
- Nhìn đây, chú em. Vớ một nắm đai ốc, anh ta nhảy bổ vào cửa chiếc xe tiếp theo, vừa vặn lúc nó đến nơi. Sợi đây điện kéo lê trên đường băng bằng sắt. Rollie vươn cổ, đang cố nhìn xem người kia làm thế nào thì anh này đã đi giật lùi ra, nhanh đến nỗi húc mạnh vào gã. “Hê, cẩn thận chú em! ”Đi vòng phía sau xe, anh ta lại nhảy bổ lần nữa, lần nào sợi dây điện cũng lê phía sau.
“Cậu hiểu rõ sơ đồ chưa?”
Anh ta trình diễn lần nữa trên xe tiếp theo, rồi thấy đốc công đang vẫy tới tấp, anh hét “Làm đi chú bé!” và biến mất.
Chưa bao giờ Rollie thấy cô đơn đến thế. Dù có tiếng ồn kinh khủng, có mươi mười hai người thợ đứng quanh trong một khoảng vài mét vuông.
Chiếc xe người công nhân vừa làm đã chuyển xa. Thay vào đó - ôi, sao khó tin thế vì băng chuyền chậm lắm cơ mà - đã có chiếc khác. Để lắp mấy đai ốc chết tiệt này, chỉ còn một mình gã! Nhặt hai cái, gã chồm vào trong xe, sờ soạng tìm mấy cái lỗ nhất định phải có ở đâu đấy, thấy một lỗ… Và sực nhớ là không mang chiếc clê đo lực. Gã chạy ra lấy, rồi lại nhảy chồm vào trong xe nhưng gã đánh rơi clê đè lên tay đặt trên sàn thép, chiếc đồ nghề nặng trịch làm trầy mấy ngón tay. Nhưng gã cũng bắt đầu xiết được đai ốc thứ nhất. Chưa xong đã thấy sợi dây điện kéo căng: băng chuyền đang chạy xa. Chiếc clê gần tuột khỏi tay. Rollie vứt đai ốc thứ hai trên sàn xe và chui ra.
Đến chiếc thứ hai, Rollie đặt được hai bulông, và còn xiết được, ít nhiều gì đó. Đến chiếc thứ ba gã còn hơi lúng túng, sang chiếc thứ tư thì hoàn hảo. Nhưng sau chiếc thứ năm, gã sực nhớ: không lắp chiếc đai ốc cuối cùng, chiếc thứ ba, trong hòm xe.
Hoảng hồn, Rollie nhìn quanh: không ai biết.
Ở vị trí lao động kế bên, phía đầu và phía đuôi dây chuyền hai công nhân đang lắp bánh xe. Rollie gọi người bên trái:
“Hêp!” Tôi quên mấy cái bulông!”
Người đó không buồn quay đầu lại:
“Mặc nó! Tiếp tục làm đi. Bọn sửa chữa sẽ lo chuyên đó khi xe ra xưởng.” Phá lên cười lớn anh ta thêm: “Có thế thôi, không nhất thiết!”
Từ xe sau Rollie gắng lắp được cả chiếc đai ốc thứ ba. Dĩ nhiên gã phải tăng nhanh nhịp độ. Hơn nữa gã còn phải chui hẳn vào hòm xe, và đến lần thứ hai thì gã cụng đầu vào nắp hòm, đau điếng. Gần như bất tỉnh gã mong được thở lấy một phút. Nhưng một xe khác đã hiện ra, gã lại phải tiếp tục công việc trong trạng thái gần nửa tỉnh nửa mê.
Không nghi ngờ gì nữa gã đã thấy rõ: a) băng chuyền chạy nhanh hơn gã tưởng trước đây, và b) nó không lúc nào ngừng nghỉ, điều này còn đáng sợ hơn tốc độ của nó. Có một cái gì vô nhân đạo, ác ý trong sự chuyển động không ngừng, tàn nhẫn, lãnh đạm trước những nhu cầu sinh lý và thần kinh của người thợ. Như thủy triều đang dâng, không có gì ngăn chặn nổi, trừ nửa giờ giải lao - ăn trưa, lúc đổi kíp, hoặc sự phá hoại.
Rollie trở thành kẻ phá hoại ngay sau ngày làm việc thứ hai.
Cho đến lúc ấy, người ta đã đưa gã qua nhiều vị trí, từ xiết bulông bệ xe đến mắc dây điện, rồi lắp trục hướng và cuối cùng gắn mặt nạ. Hôm trước, thứ hai, xung quanh gã đều thiếu nhân công, điều bình thường vào đầu tuần. Hôm sau tuy số công nhân làm vị trí cố định tăng rõ rệt, các đốc công vẫn dùng Rollie để bịt lỗ thủng, thay chân những người vắng mặt trong nửa giờ, bốn lăm phút. Thành ra mỗi lần đứng vào một vị trí mới gã đều để hai, ba, bốn xe chạy tuột mất lúc gã còn chưa kịp thu nhận chuỗi động tác cần thiết. Đôi bận người đốc công trông thấy và dùng phiếu ghi chỗ sai sót để báo cho thợ sửa chữa ở cuối băng chuyền; cũng có khi chiếc xe cứ tiếp tục lướt qua như không có chuyện gì xảy ra, phó mặc cho Chúa! Có hai ba bận người đốc công nhận thấy có điều gì đó nhưng anh ta cho qua.
Các sư kiện nhỏ mọn này lần lượt xảy ra, trong khi đó Rollie cảm thấy nỗi mệt nhọc ngày càng nặng nề, càng đè dí lên mình.
Ngay bữa qua vào lúc kết thúc ngày làm việc, gã đã thấy khắp người thực sự ê ẩm. Tay đau, tấm thân gầy nhom đầy vết bầm máu, vết xước, gã nặng nề lê về nhà. Đêm ấy gã ngủ như một đống thịt và đến sáng, nhờ có tiếng chuông dai dẳng từ chiếc báo thức của Leonard Wingate mà gã mở được mắt. Vừa chui ra khỏi giường gã vừa tự hỏi mình làm thế này để làm gì. Sau đó, nhìn qua chiếc chậu, ngày xưa tráng men, đang dùng để rửa ráy qua loa, hắn soi vào chiếc gương rạn và nói với hình mình trong gương:
“Đồ ngu khốn khổ kia, đi mà kềnh tiếp, cố mãi để thành con khỉ thông thái rút cuộc mày chỉ thành một thằng nhóc Đen của một đểu da trắng.”
Gã ngắm nghía mình trong gương với lòng khinh bỉ hoàn toàn, nhưng không nằm ngủ lại. Hơn nữa gã còn đến nhà máy đúng giờ chấm công.
Tuy nhiên đến lúc xế trưa, sự mệt mỏi của gã lộ rõ đến nỗi người đứng bên, một công nhân trẻ da đen trẻ tuổi để tóc Afro[9], nghiêng người hỏi gã:
“Hê, người! Ngủ gật à?”
Rollie nhăn mặt cười nhẫn nhục:
“Xe tới liên tục cái này nối cái kia - chưa bao giờ thấy nhiều thế…”
- Cậu cần nghỉ ngơi. Nghỉ như có thể nghỉ khi băng chuyền hỏng phải ngưng chạy.
Cả hai được giao việc cùng nhau lắp động cơ, - một chiếc cẩu lăn chuyển động cơ tới, thợ điều khiển cho hạ thấp dần trong lúc băng đảo bệ xe đến, thợ đặt động cơ lên, cố định lại.
“Theo tôi, không bao giờ nó ngừng.”
Anh thợ tóc Afro càng nghiêng người về phía Rollie để nói vào tận tai gã:
- Cậu muốn nó dừng lại không? Không phải hỏi bâng quơ đâu hiểu chứ? Muốn không?
- Nhưng biết làm thế nào, Rollie thì thầm. Tôi bủn rủn hết chân tay rồi, thực thế.
- Mình nói nghiêm túc đấy. Này, nhìn đây. Giấu kín mọi người khác, anh ta giơ nắm đấm tận mặt Rollie, xòe ngón tay: trong lòng bàn tay anh ta có chiếc bulông mười xăngtimét. “Cầm lấy nhanh lên!”
- Để làm gì?
- Thả xuống đấy.
Anh ta hất cằm chỉ dưới nền ximăng chiếc hào lớn làm đường chạy của bộ phận đẩy băng chuyền giống chiếc xích khổng lồ di chuyển không ngừng giật cục nhưng với tốc độ đều. Dọc hai bên băng chuyền xích chạy theo một đường vòng vèo quanh co: lúc chui sâu xuống đất, lúc vươn cao tận lưng chừng nhà để vượt một sàn trung gian, hoặc xuyên qua dòng sơn, phòng kiểm tra kỹ thuật. Dù ở đoạn nào nó cũng va đập loảng xoảng vào các bánh xe răng đẩy nó chạy.
Sau sẽ ra sao? Rollie nghĩ bụng. Đã đến nước này - muốn ra sao thì ra, miễn là mình được xả hơi độ mươi lăm phút, ừ, muốn gì thì gì. Gã cầm chiếc bulông thả xuống đường hào có sợi dây xích ghê tởm đang chạy.
Thoạt tiên, không có gì xảy ra. Chiếc bulông chạy xa dần, chưa đến một phút sau nó biến mất. Đến lúc ấy Rollie mới nhận thấy nhiều người xung quanh gã ngẩng đầu lên, nhiều bộ mặt - hầu hết đen - nhìn gã cười khẩy. Gã băn khoăn, cảm thấy những người này rõ ràng đang có vẻ chờ. Họ chờ cái gì? Gã không thể mường tượng được.
Bỗng nhiên dây chuyền lắp ráp đứng sững. Không chạy chậm dần, không tiếng động, không giật nẩy, đến nỗi những công nhân nào đang mải miết làm việc đều mất một lúc sững sờ mới hiểu ra.
Trong khoảnh khắc chừng mười giây đồng hồ, người ta có cảm giác như khi cơn giông bão vừa tạm lắng. Gần Rollie người công nhân da đen càng cười khẩy lộ liễu hơn.
Tiếp đó, đột nhiên nổi lên một loạt tiếng động hỗn độn chối tai, man rợ. Hiệu lệnh báo động nhức óc, chịu không nổi. Tiếng kêu, tiếng gọi lan dọc băng chuyền, sau đó từ sâu tít nhà máy tiếng còi ủ ập đến, phình to, đập mạnh màng nhĩ.
Tính từ vị trí lao động của Rollie bánh xe răng gần nhất ở cách khoảng một trăm mét về phía dưới. Trước khi chạy đến đây chiếc bulông bị giắt giữa hai mảnh mắt xích nên di chuyển không vướng víu. Nhưng khi gặp bánh xe răng, nó bị kẹt cứng giữa răng và mắt xích. Mắt xích chịu không nổi, vỡ tung. Xích đứt, dây chuyền đứng lại. Bảy trăm công nhân phải ngưng việc - nhưng yên tâm vì tin chắc rằng tuy thế, theo thỏa hiệp giữa chủ và thợ, tiền công của họ vẫn cứ tiếp tục chạy lên cho đến lúc băng chuyền lại chạy.
Vài giây chờ đợi nữa. Tiếng còi ủ vẫn ào đến, với tốc độ cực nhanh. Những người đi bộ trên hành lang song song với dây chuyền - kiểm soát viên, người phân phát bộ phận lẻ, người chạy giấy - vội vã tìm chỗ tránh, trong khi các loại xe cộ - xe kích, máy phát điện lưu động, xe hơi mi ni của đốc công - dạt vào một bên. Từ một khúc ngoặt chiếc xe tải sơn vàng có đèn đỏ nhấp nháy trên mui lao tới rất nhanh. Xe cấp cứu chở một kíp ba chuyên viên, mang theo bộ đồ hàn hoàn chỉnh. Một người ngồi lại, đạp chân ga sát sàn; hai người phía sau cố bám sao được vậy vào thành xe chen giữa các bình ôxy. Đứng sát băng chuyền, một người đốc công bắt chéo hai cánh tay báo hiệu chỗ xích bị đứt. Xe vút qua trước mặt Rollie, chạy chậm lại rồi dừng hẳn trong tiếng phanh rít.
Nhà sản xuất xe hơi nào cũng coi sự cố ngừng băng chuyền là tai nạn rất lớn, đứng thứ hai trong bảng phân loại, chỉ sau có hỏa hoạn. Vì mỗi phút ngừng dây chuyền gây thiệt hại vô kể - tiền công, các thứ phí tổn sản xuất đều vẫn chạy lên, tiền trả lãi các khoản… tất cả những chi phí không thể nào vớt vát lại. Để minh họa rõ ràng hơn tai họa này, chỉ cần nói thêm rằng trung bình một dây chuyền hoạt động bình thường sản xuất được một xe trong độ năm mươi giây. Vì thế năm mươi giây ngừng hoạt động trị giá bằng một chiếc xe mới tinh.
Cho nên trước tiên phải lo sửa máy, sau đó mới đi tìm thủ phạm.
Đội cấp cứu xung kích rất điêu luyện tay nghề. Họ xác định chỗ đứt, tháo mắt xích bị vỡ, hàn nối hai đầu. Làm rất giỏi, nhưng là làm qua quít cho nhanh: tình thế trước mắt đòi hỏi phải ứng biến kịp thời hơn là làm thật kỹ càng. Chốc nữa, nhân lúc đổi kíp hoặc lúc nghỉ giải lao, họ sẽ kiểm tra tỷ mỉ chỗ nối và nếu cần sẽ gia cố mối hàn.
Nhân viên đội cấp cứu báo cho một nhân viên liên lạc với điểm kiểm soát gần nhất. “Cho chạy!”. Ngay lập tức, dòng điện trước đó bị hệ thống ngắt tự động cắt đứt, liền được nối lại. Băng chuyền khởi động không vấp váp. Bảy trăm công nhân, khoan khoái vì được “xả hơi, tiếp tục công việc.”
Tổng cộng thời gian có sự cố là bốn phút năm mươi bảy giây. Thiệt hại: hụt mất năm xe rưỡi, trị giá hơn sáu nghìn đôla.
Choáng váng, gần như chết ngất, Rollie Knight tự hỏi không biết sắp xảy ra chuyện gì…
Chẳng mấy chốc gã được biết ngay chuyện đó.
Một người vạm vỡ, vai rộng, mặt đanh lại vì giận dữ, sải những bước dài đi ngược chiều băng chuyền. Frank Parkland cầm chiếc bulông thép đường kính mười xăngtimét, cong queo, đầy vết cứa xung quanh, do đội cấp cứu xung kích đưa cho.
Những công nhân dọc đường anh ta đi qua đều lắc đầu khi anh hỏi mấy câu vắn tắt. Anh tiếp tục đi, hỏi người này một câu người kia một câu.
Khi Parkland tới chỗ làm việc của nhóm lắp động cơ, công nhân trẻ da đen bới tóc Afro bỗng cúi gập mình xuống cười sặc sụa:
“Nó đây, ông chủ! anh nấc lên. Tôi thấy nó làm!”
Các công nhân làm kề đấy cũng phá lên cười. Rollie tuy là cái đích họ nhằm vào nhưng gã biết họ không thù ghét gã. Họ chỉ bông lơn, để tiêu khiển, tóm lại gây một trò cười cho vui. Hơn nữa mọi ngươi đều bất cần hậu quả sẽ như thế nào, nếu có hậu quả - dù sao, băng chuyền chỉ bị ngưng có vài phút thôi mà. Thế là Rollie cũng cười như mọi người, ít ra cũng cười cho đến lúc bắt gặp cái nhìn của Parkland.
Người đốc công tái mặt vì giận dữ:
“Mày chơi cú này hả? Bằng cái bulông này hả?”
Chẳng cần Rollie phải trả lời: nét mặt gã phản lại gã. Ngay cặp mắt cũng vậy, chúng bạc phếch vì mệt mỏi cộng với khiếp sợ. Lần đầu tiên trong đời, cái vẻ xấc xược bề ngoài của gã biến mất tăm.
“Ra khỏi vị trí, Parkland ra lệnh đồng thời làm dấu cho một “lưu động” đứng vào chỗ Rollie. Số hiệu? Tên? Anh ghi các câu trả lời, gật gù: “Mày mới vào, hả?”
- Úi chà. Mới… Ngày thứ hai…
Rollie những muốn gào lên cho hả. Trời hỡi trời, hóa ra vẫn thế thôi! Vặn vẹo, lý sự, diễn thuyết - ngay lúc đá đít mình, bọn lợn trắng béo y này vẫn tự coi là đúng.
“Đây là hành động phá hoại. Đáng tội gì mày biết không?”
Rollie nhún vai. Tuy không hiểu đúng nghĩa từ “phá hoại”, nhưng chỉ nghe nói lên từ ấy gã đã thấy hình như trong âm vang đó có cái gì đáng lo ngại. Mẹ kiếp, cần đếch gì! Cũng như hồi mấy tuần trước đây, gã đã từng cam chịu, giờ đây gã cũng coi như bị mất việc ngay từ lúc này. Chỉ còn xem bọn này sẽ làm tội làm tình gã thế nào nữa: nhìn mõm thằng đểu này đủ biết nó chưa chịu thôi.
“Ông Zaleski tới”, ai đó đứng sau Parkland nói khẽ.
Người đốc công quay lại, đi hai ba bước đến gặp phó giám đốc.
“Cái gì vậy Frank?”
- Chỉ cái này thôi, Frang gắt gỏng chìa chiếc bulông cong queo.
- Tai nạn hay cố tình?
- Tôi đang tìm hiểu.
Parkland nói với giọng dứt khoát, lạnh lùng, như có ý bảo cấp trên: Hãy để tôi giải quyết vụ này theo cách của tôi.
“Được, Zaleski nói, mắt nhìn trừng trừng vào Rollie Knight. Nếu là phá hoại, ta sẽ thi hành theo đúng qui tắc, không thương tiếc. Đừng quên là trong những trường hợp đó, công đoàn sẽ ủng hộ ta. Báo cáo tôi ngay khi nắm được tình hình.”
Ông đi luôn. Vội vàng nên không kịp nhìn vẻ tư lự đột ngột trên mặt Parkland. Người đốc công đang tự hỏi: điều gì khiến anh ta không chỉ ngay đích danh chàng thanh niên Đen này là thủ phạm gây ra cái rõ ràng là một vụ phá hoại? Anh có thể tống cổ hắn ngay tại trận; sẽ không có ai phản đối. Khốn nỗi làm thế hình như quá dễ dàng. Chú bé gầy gò, chắc ít khi được ăn no, có vẻ một nạn nhân hơn là một thủ phạm. Dù thế nào đi nữa, phải là đứa rất ngốc nghếch, khờ dại mới đặt mình vào tình thế ngớ ngẩn như vậy.
Anh tới gần Rollie, dí chiếc bulông tận mặt:
“Mày có biết rằng cục thép này có thể làm kẹt dây chuyền không ? ”
Rollie ngẩng đầu, vẫn nghĩ cách thách thức Parkland thân hình to lớn át hẳn gã. Không được rồi, kiệt sức đến thế này, còn giãy giụa làm gì. Gã phác một cử chỉ chối cãi.
“Bây giờ thì biết rồi, hả?”
Nhớ lại tiếng la hét, tiếng còi ủ, đèn đỏ nhấp nháy trên chiếc xe tải, tất cả những hành động cuống quít vừa rồi, Rollie không nín được cười:
“Còn gì nữa!”
- Có đứa nào xúi mày phá không?
Rollie nhận ra rằng mọi người xung quanh, bên trái bên phải, dọc băng chuyền đang chăm chú nhìn gã, và họ không cười nữa.
“Đứa nào? Parkland cố gặng. Thằng vừa tố giác mày phải không ? ”
Gã đen tóc Afro cúi thấp hơn nữa xuống cỗ máy anh ta đang lắp lên xe. Rollie lắc dầu dứt khoát. Sớm muộn gã sẽ có cơ hội thanh toán món nợ. Nhưng không bằng cách đó.
“Tốt, Parkland gắt gỏng. Có lẽ tao sắp làm một việc ngốc nghếch đây. Nhưng tao có cảm tưởng trong chuyện này mày chỉ là thằng ngu, nên dù có phải đến lượt tao mang tiếng là thằng ngu… Vậy, ta chấp nhận đây là một tai nạn. Nhưng phải coi chừng - từ lúc này chúng tao sẽ luôn luôn để mắt đến mày. Thôi, đi làm”.
Nhẹ nhõm, kinh ngạc, Rollie làm nốt ngày công ở một vị trí nhàn nhã: đặt những miếng đệm đỡ dưới bảng đồng hồ.
Nhưng gã đã hiểu rằng tình thế này không thể kéo dài mãi. Thật vậy, ngay hôm sau gã đã được nhiều công nhân tặng nhiều nụ cười tán thưởng và cả những lời đùa cợt. Trong lúc này, bông đùa còn được ưa chuộng nhưng rồi đây chắc chắn không khí sẽ đông cứng lại, sẽ tàn nhẫn hơn - tàn nhẫn gấp bội nếu có ai tin và thuyết phục bạn bè tin - rằng cái thằng tên Rollie Knight dễ dàng cam chịu bị ngược đãi, nó là thằng chịu đựng gian khổ rất giỏi, thì lúc ấy những cái xảy ra tiếp theo sẽ không hay ho gì. Kẻ nào không may hoặc ngu ngốc để mang cái tiếng ấy sẽ phải sống một cuộc sống thảm hại, thậm chí nguy hiểm: sự nhàm chán của công việc ở dây chuyền lắp ráp khiến cho công nhân sẵn sàng hưởng ứng mọi trò tiêu khiển, dù đó là một trò bạo hành độc ác.
Nỗi lo lắng của gã được chứng thực ngay bốn ngày sau, trong căn tin nhà máy. Bao giờ cũng vậy, đây là lúc hết sức hỗn độn - mấy trăm con người ù té chạy đến xếp hàng trước các quầy, nuốt vội vàng suất ăn trưa, nhảy bổ vào toa lét rửa sạch dầu mỡ bụi bặm (không thể rửa được tay trước khi ăn) rồi cắm đầu chạy về chỗ làm - từng ấy việc trong ba mươi phút. Hôm ấy, ở căn tin, Rollie thấy giữa đám đông đang cười cợt, anh công nhân trẻ da đen bới tóc Afro đứng nhìn gã có ý đánh giá, ước lượng. Một lúc sau, Rollie vừa lĩnh đầy suất ăn thì có ba bốn người huých gã, vừa vặn làm đổ đĩa đồ ăn xuống nền nhà và giẫm nát bét. Bề ngoài có vẻ do vô tình, nhưng Rollie không mắc lừa. Hôm đó gã không được ăn trưa: không có thì giờ xếp hàng lần nữa.
Lúc bị xô đẩy, gã thoáng nghe có tiếng “tách”, thoáng nhìn thấy ánh xanh một lưỡi dao - có lẽ một con đao lưỡi gập có chốt hãm. Lần sau chắc cái huých sẽ mạnh hơn, và kẻ có dao kia chắc sẽ xỉa gã vài nhát - chỉ đủ gây xây xát, cũng có thể gây vài vết thương. Một điều không lôgic, điên loạn, hết sức bất công, ai đó có thể nghĩ thế. Vấn đề không phải ở chỗ đó: một nhà máy có mấy nghìn thợ thực ra là một rừng rậm, do đó, luật lệ duy nhất có hiệu lực ở đây là luật rừng, Rollie chẳng có thể làm gì khác hơn là lựa chọn thời gian và địa điểm thực hiện cuộc phản công lại.
Gã biết thời gian không ủng hộ gã, nhưng gã có đủ sức chờ cơ hội. Sớm muộn thể nào cũng có cơ hội. Cơ hội đã đến với gã rất sớm.
Thứ sáu, gã lại được giao việc đặt động cơ. Cùng kíp với một người đứng tuổi chịu trách nhiệm về thao tác chủ yếu: hạ động cơ xuống, hướng nó vào đúng vị trí trên bệ xe, cố định lại. Trong số người làm ở các vị trí kề bên có anh công nhân trẻ da đen tóc Afro. Lúc sắp hết giờ nghỉ-ăn-trưa, anh ta tìm cách đến gần Rollie:
“Lạy Chúa, tớ mệt nhoài. Cậu tìm cách sao để bọn mình nghỉ tay một lúc, nhé!”.
Vừa nói, anh ta vừa vỗ rất mạnh vào giữa lưng Rollie, trong tiếng cười của những người chứng kiến. Một người đứng sau lưng ẩy mạnh vào sườn. Nhìn bề ngoài, đây cũng chỉ là một kiểu chọc ghẹo thô lỗ, nhưng thực tế đó là những đòn đánh với ý đồ gây đau đớn, đòn mạnh đến nỗi Rollie vốn gầy yếu hơn các “bạn” tí nữa ngã lăn.
Cơ hội chờ mong đã tới một giờ sau đó. Gần như gã đã tưởng tượng.
Ngay từ sáng, Rollie đã quan sát, phân tích, ghi nhận cử chỉ và sự cử động của các công nhân làm việc quanh gã. Gã nhận thấy hoạt động của kíp thợ tuân theo một sơ đồ đơn giản lại vừa bao gồm những ứng biến tùy lúc. Việc hạ các bộ động cơ do cầu lăn chuyển tới được thực hiện bằng một hệ thống dây xích và ròng rọc. Để thực hiện các thao tác, nhất là thao tác cuối cùng “thả hết”, có ba nút - Lên, Dừng, Xuống - trên sợi cáp điện lớn đặt phía trên vị trí làm việc. Thông thường người trưởng kíp điều khiển nút bấm, nhưng Rollie cũng biết cách.
Hôm ấy, ngoài hai người chịu trách nhiệm còn có người thứ ba sẵn sàng phụ giúp khi hai công nhân chính gặp khó khăn.
Kíp thợ làm việc nhanh nhẹn nhưng không sao lãng các biện pháp an toàn chính yếu nhất: mỗi bộ động cơ đều được hạ xuống từ từ đến đúng vị trí, và trước khi “thả hết” người ta cho dừng lại một chút để kiểm tra xem mọi người đã rút hết tay chưa.
Cơ hội tốt xuất hiện khi trưởng kíp và Rollie vừa đặt xong một động cơ. Ống dẫn xăng và nhánh máy bơm quấn nước vào nhau rồi quấn vào nhíp trước trong lúc bộ động cơ còn cách bệ xe khoảng mười lăm xăngtimét. Một sự trục trặc cỏn con thường xảy ra luôn, anh công nhân trẻ da đen tóc Afro đưa một tay xuống dưới động cơ để gỡ các đoạn ống. Lúc ấy hai người khác - Rollie và trưởng kíp đã tránh xa.
Mắt luôn canh chừng, Rollie kín đáo bước sang bên một bước, giơ tay như để vươn vai rồi dùng ngón cái ấn mạnh nút đề chữ “Xuống”. Ngay lúc đó, một tiếng va đập trầm nặng của kim loại báo hiệu: nửa tấn thép vừa rơi cả khối xuống các giá dữ định vị. Rollie buông nút và cũng kín đáo như vừa rồi, bước trở lại một bước sang bên.
Trong một phần ngàn vạn giây, người bới tóc Afro tròn mắt nhìn bàn tay - đúng hơn, mu bàn tay, vì các ngón tay bị khối động cơ che lấp, vẻ kinh ngạc không tin ở mắt mình. Rồi anh ta rú lên - rú hai, ba, bốn tiếng - tiếng rú khiếp sợ của kẻ chết đến nơi, inh ỏi đến nỗi những người làm việc cách đấy hàng năm mươi bước cũng giật mình. Tiếng rú kéo dài, thành tiếng than vãn điên loạn, không tài nào chịu nỗi tuy một công nhân đã nhanh tay bấm tín hiệu báo động để hãm dây chuyền lại và một người nữa bấm nút “lên” ở bảng điều khiển tời. Khi bộ động cơ từ từ nhấc khỏi bệ xe, từng xăngtimét một, tiếng kêu rú càng rùng rợn hơn, những người đứng gần nhìn thấy một đống nhão nhoét những mẫu thịt, mảnh xương vụn, gân đứt, nhầy nhụa trong vũng máu. Hai người nhảy tới xốc nách nạn nhân đúng lúc chân anh ta khuỵu xuống. Anh chỉ còn là thân hình không nghị lực, một bộ mặt méo xệch vì đau đớn, mồm há hốc trong tiếng rên rỉ thú vật. Một công nhân thứ ba mặt cắt không còn hột máu, cố bóc lớp bã thịt đỏ lòm dính chặt vào tấm sắt. Những mảnh cuối cùng vừa được lấy ra, băng chuyền lập tức chuyển động.
Nạn nhân được cáng đi. Dần dần anh ta bớt kêu la sau phát móoc phin của cô y tá được gọi đến qua điên thoại. Cô đã băng bó tạm, áo blu trắng vấy đầy vết máu. Cô đi bên cáng, chỉ chiếc cửa đi ra xe cấp cứu đang chờ.
Tất cả công nhân không trừ một ai đều tránh mặt Rollie.
Frank Parkland và nhân viên An ninh nội bộ hỏi những ngươi ở gần nơi xảy ra tai nạn. Hẳn là không ai trông thấy gì.
“Có cái gì đó không ổn”, Parkland nhấn mạnh, ông quay nhìn Rollie Knight không chớp mắt. “Không lẽ chẳng ai nhìn thấy một cử chỉ nào…”
- Chỉ có một cử chỉ thôi, nhân viên An ninh ngắt lời. Ấn nút kia trên dây cáp.
Không ai trả lời. Mọi người đều nhìn đi chỗ khác. Sự im lặng càng nặng nề, gây bối rối. Đột nhiên người trưởng kíp có một quyết định. Trông ông già hẳn đi, xạm hẳn so với lúc xế trưa, mồ hôi toát ra làm mấy sợi tóc lưa thưa dán vào đầu.
“Chắc là tôi, ông lẩm bẩm. Không hiểu lúc đó tôi làm sao - tôi giơ tay, sờ vào nút bấm… tôi cho rằng mấy đứa đã rút tay hết rồi…
- Có đúng không? Parkland hỏi gặng, vẻ hoài nghi, đầu quay lại nhìn Rollie lần nữa có ý dò xét. Đúng thế, hay anh định che tội cho đứa nào?
- Bây giờ nghĩ kỹ lại, tôi chắc chắn như vậy. Trưởng kíp khẳng định. Ông nói với giọng rắn rỏi hơn, lại còn có đủ can đảm đương đầu với cặp mắt Parkland “Một tai nạn… có thể xảy ra, làm thế nào được! Tôi rất lấy làm tiếc.”
“Đáng tiếc vô cùng ấy chứ! nhân viên An ninh nội bộ gắt gỏng. Vì lỗi của anh mà tên kia mất một bàn tay. Chưa kể đến cái này.”
Anh chỉ tấm bảng.
Nhà máy đã hoạt động 1897560 giờ tuyệt đối an toàn
“Thế mà phải bắt đầu lại từ đầu” nhân viên đó nói, và nghe giọng anh ta, có thể nghĩ rằng điều này mới thật quan trọng.
Lời thú nhận của trưởng kíp làm không khí dịu xuống ít nhiều. Một công nhân nêu thắc mắc:
“Sau đây sẽ xảy ra điều gì?”
- Đã là tai nạn thì không có trừng phạt, một đại diện nghiệp đoàn vừa đến chỗ nhóm công nhân bắt đầu giải thích. Ngoài ra, vị trí lao động này thực sự có nhiều nguy hiểm hiển nhiên. Hoặc là ban giám đốc phải thi hành ngay những biện pháp cần thiết, hoặc là chúng tôi sẽ kêu gọi anh em thợ đình công.
- Từ từ, Parkland cằn nhằn, vẻ bực bội. Đến lúc này mà nói, tính hiện thực của những mối nguy đó chưa được xác minh.
- Ngay khi ngủ dậy bước ra khỏi giường lúc sáng cũng vẫn có thể bị nguy hiểm, người nhân viên nói thêm. Nếu lúc nào đấy, anh quên mở mắt ra.
Anh ta giận dữ nguýt trưởng kíp rồi đuổi theo hai người đã đi một quãng xa.
Từ lúc ấy trở đi Rollie Knight không gặp rắc rối gì nữa về phía bạn bè cùng làm việc. Gã biết rõ tại sao có sự thay đổi thái độ ấy: một số khá đông am hiểu tường tận đầu đuôi việc đã xảy ra và do đó hiện giờ Rollie được coi là một gã khó chơi.
Hậu quả của sự việc không dừng lại ở đây.
Hiện tượng cổ điển: khi anh bắt đầu có tiếng tăm, mọi người liền chú ý đến từng cử chỉ từng hành động của anh, và dĩ nhiên, cả đến quá khứ của anh. Rất nhanh, mọi người đều biết gã có lý lịch tư pháp. Điều này không làm lu mờ tính cách của gã, trái lại còn biến gã thành một thứ anh hùng dân dã, ít nhất cũng trong đám trẻ.
“Anh đã ở trọ” rồi thì phải? Một chú mười chín tuổi cũng gốc gác ở khu trung tâm thành phố Detroit hỏi gã. Chắc anh đã cho bọn cớm trắng chạy ra trò trước khi túm được anh.
Một chú khác cũng hỏi một câu ngốc nghếch tương tự, trong cùng một tinh thần:
“Chắc anh có lửa, hả?”
Rollie biết chắc có nhiều công nhân mang theo vũ khí - để tự vệ, họ bảo thế, khi nổ ra những cuộc ẩu đả vì những cớ vớ vẩn trong toa lét hoặc bãi xe. Nhưng gã cũng biết rõ: với bản lý lịch của gã nếu bị bắt với khẩu súng ngắn trong người ít ra cũng xơi mười năm tù. Nên gã trả lời khéo để khỏi di lụy cho mình:
“Nhóc con, đừng quấy rầy tao.”
Nhưng chính vì vậy mà có tin đồn đại: Rollie Knight - “cậu biết đấy, tay mới đến ấy mà” - lúc nào cũng có “lửa”. Càng sáng thêm vầng hào quang của người anh hùng trong đám thanh niên da màu.
Một chú khác đưa biếu gã một “kèm”, điếu thuốc lá trộn ma túy. Gã cầm với vẻ thờ ơ. Chẳng bao lâu sau, gã đâm nghiện, hút cả trong lúc làm việc như bao người khác, và cũng vì những nguyên nhân giống họ: thuốc độc giúp họ chịu đựng được sư đơn điệu nhàm chán kinh người của dây chuyền, giúp họ chờ đợi được đến lúc kết thúc ngày lao động trước đây hình như sẽ không bao giờ kết thúc. Cũng vào thời kỳ này, gã bắt đầu đánh số đề, giống cách đánh Lô tô của Italian, đã Mỹ hóa.
Rất lâu về sau gã mới nhận biết: ma túy và số đề đã mở đường dẫn dắt hắn hội nhập thế giới phức tạp, vô cùng nguy hiểm của tội ác, ngay trong lòng nhà máy.
Ở Detroit, chơi số đề - đặc biệt trong các nhà máy chế tạo xe hơi - là chuyện bình thường, chuyện tầm thường như việc hít thở không khí. Tuy mọi người đều biết a) việc đánh số đề do Mafia kiểm soát và b) đó là trò bịp hoàn toàn. Trong điều kiện ấy khả năng trúng chỉ độ 1 phần 1000, nhưng vì người trúng thưởng được lĩnh gấp 500 lần số tiền anh ta đặt, mà ai cũng hi vọng mình trúng, nên hàng nghìn người thường xuyên bỏ ra từ 25 xu đến 100 đôla, có khi hơn. Trong nhà máy, tiền đặt trung bình là một đôla mỗi ngày - Rollie không đứng ngoài quy tắc chung.
Dần dà, gã bắt đầu hiểu rõ hơn cách tổ chức chơi số đề trong các xưởng máy. Trong số những người đi thu tiền đặt, một số khá đông là những nhân viên quét dọn: trong chiếc xô rỗng lấp dưới tải lau nhà, họ dễ dàng giấu kín các miếng tích kê truyền thống màu vàng và số tiền đặt họ thu được. Cuối ngày họ lấy tích kê và tiền nộp cho một ổ không bí mật lắm ở đâu đó trong khu giữa.
Rollie cũng biết được rằng ở toàn bộ dây chuyền lắp ráp trò chơi do một đại diện nghiệp đoàn kiểm soát. Do công việc anh ta có thể đi khắp nơi không bị nghi ngờ. Gã còn khám phá ra điều không kém lạ lùng - không phải chỉ anh em thợ chơi số, có cả những nhân viên kiểm tra, nhân viên hành chính và theo nhiều người nói, còn có cả những giám đốc. Một giả thiết chấp nhận được, khi nhìn vào sự miễn dịch mà các bộ phận khác nhau của guồng máy tổ chức đánh số đề được hưởng trong nhà máy.
Sau vụ làm mất bàn tay của công nhân trẻ da đen bới tóc Afro Rollie nhận được nhiều đề nghị. Hai ba lần người ta gợi ý không cần che giấu là gã nên tham gia sốt sắng hơn vào trò chơi số đề, với vai thủ quĩ. Trừ phi gã khoái mấy mánh kiếm tiền hiện có trong nhà máy này hơn: cho vay nóng (với mức lãi cắt cổ), ma túy, chôm chỉa có tổ chức, thủ tiêu những người làm vướng cẳng (dĩ nhiên do người bị vướng thuê tiền).
Rõ ràng là bản lí lịch tư pháp - một cách đương nhiên, máy móc, đã đưa Rollie lên địa vị đáng ao ước không những đối với các thành viên chính thức của nhóm đạo tặc mà cả những tên vô lại ngẫu nhiên loại nhỏ. Một hôm Rollie đang ở chỗ tiểu tiện, tay công nhân thô kệch mọi người đặt tên là Big Rufe đến đứng cạnh, vừa mở cửa quần vừa nói qua mép theo kiểu bọn tù nhân cũ.
“Cậu là thợ chính thức, nên có một tay bảo tớ nói cậu biết: một thằng bé ranh ma có thể làm ra nhiều tiền hơn đồng lương khốn khổ. Cậu thấy đúng? Thế mà, nhiều bận, cần có thằng như cậu - không run tay. Đúng vậy…”
Thấy có người đến đứng bên, anh ta im bặt. Kéo khóa Eclair đóng cửa quần, anh ta bỏ đi, đầu gật gù.
Rõ ràng cái đầu gật gù đó có nghĩa ngày mai, ngày kia, cuộc nói chuyện còn tiếp. Nhưng Big Rufe đã lầm, vì Rollie thu xếp để tránh khỏi gặp lại lần nữa. Vì nhiều lý do: Sợ phải quay vào tù, lần này sẽ phải nhận mức án nặng nhất; lại nữa, cảm tưởng đang được hưởng cuộc sống gã có thế chấp nhận vì dù sao nó vẫn tốt hơn tất cả những gì gã đã biết trước đây. Chỉ riêng một điều: tin chắc ngày nào cũng được ăn no, đã là to tát lắm lắm rồi, đúng không? Đồng lương khốn khổ à? Có lẽ. Nhưng với đồng lương ấy Rollie có thể ăn no lại còn có thể uống đã khát, có thể say sưa nếu thấy thèm, có thể bao May Lou khi chưa chán cô - điều chưa thể xảy ra ngày mai. Ồ, đúng là con bé chẳng có vẻ gì của một hoa hậu, nó lê la cũng đã nhiều rồi - Rollie chẳng muốn biết con số những kẻ đến trước gã - thế nhưng, nó làm gã nhộn nhạo đến khó tin. Nhìn thấy nó là gã thấy ngứa ngáy không chịu được, đến nỗi gã phải dùng cái khoản đẹp đẹp xinh xinh ấy đến ba lần trong đêm, nhất là khi May Lou cũng nồng nhiệt góp phần, với những phát minh những kĩ thuật tài tình trước kia Rollie mới chỉ được nghe kể loáng thoáng.
Chính vì những cái đó mà Rollie bằng lòng đến đây sống chung với cô. Cô bỏ tiền thuê nhà, cô mua sắm đồ đạc. Với rất ít tiền, chỉ đơn giản đòi Rollie kí vài ba chữ. Rollie kí cả hai tay, chẳng buồn đọc xem giấy viết những gì, khoái chí khi thấy mang về một ghế bành, một tấm thảm và cả một chiếc tivi màu.
Dĩ nhiên, phải trả giá cho tất cả - bằng một nỗ lực làm kiệt sức, thường là trong năm ngày mỗi tuần, thỉnh thoảng trong bốn ngày, có một lần trong ba ngày. Ngay tuần ba ngày này, tiền công vẫn đủ sống. Thảm kịch ở chỗ khác: trong sự đơn điệu của công việc trong sự đều đều không thể sửa được. Gần như hàng ngày Rollie nhớ lại lời một công nhân già khuyên bảo gã:
“Để làm được ở đây, tốt hơn là mày để bộ óc ở nhà.”
Tuy vậy vẫn có một khía cạnh ít tăm tối hơn.
Ngoài ý muốn của gã, và mặc dù có niềm tin sâu sắc rằng gã bị các ông chủ bóc lột, mặc dù vẫn sợ biến thành đầy tớ của “hệ thống Trắng”, Rollie Knight bắt đầu thích thú công việc của mình - lần đầu tiên trong đời gã có dịp thể hiện trọn vẹn các phẩm chất trí tuệ - sự nhanh nhạy, bản năng tiếp thu. Một lý do khác - mà có lẽ gã không chịu thừa nhận - nằm trong mối quan hệ với đốc công Frank Parkland. Mối quan hệ đặt cơ sở trên cảm tình ngày càng tăng đối với nhau.
Thoạt đầu khi được báo tin trong xưởng có gã tên là Rollie Knight, thái độ của Parkland rõ ràng là thái độ thù nghịch. Sau đó, chính vì anh để mắt theo dõi Rollie thái độ thù nghịch chuyển dần sang một sắc thái cảm tình. Đến nỗi anh thổ lộ với Matt Zaleski.
“Ông có thấy thằng bé kia? Tuần đầu nó tới đây làm, tôi tin chắc nó sẽ gây rối. Bây giờ nó đã là một phần tử tốt nhất của tôi”.
Chính Parkland đã rút Rollie ra khỏi đàn “lưu động” (làm công việc nặng nhọc vượt xa các việc khác trong nhà máy), đưa gã sang một vị trí chính thức. Sau đó anh đã nhiều lần thay đổi vị trí của gã, nhưng bây giờ không phải là những thay đổi liên tiếp, mỗi giờ, kiểu thay đổi gây căng thẳng thần kinh chàng trẻ tuổi. Vả lại Parkland đã giải thích cho gã biết đây là sự điều động nhằm chuẩn bị cho gã làm những việc đặc biệt khó khăn. Ví dụ: chui vào hòm xe đặt mạng điện. Hoặc nữa, làm cái việc gọi là “làm mò” - loại việc tinh vi hơn tất cả - tra vào lỗ và xiết một loạt đai ốc, hoàn toàn bằng tay sờ.
“Tôi biết như - vậy là bất công, Parkland thú nhận với gã ngay hôm đó. Thật ngu ngốc, những cậu làm việc tốt nhất, đáng tin cậy nhất, thường lại phải làm những việc nặng nhọc nhất. Có điều là nhất thiết tôi phải giao việc vặn những chiếc đai ốc này cho một cậu thật bảo đảm, không thể giao cho thằng nào làm ăn văng mạng”.
Với Parkland đây chỉ là một nhận xét tình cờ chẳng quan trọng. Với Rollie Knight, lần đầu tiên một cấp trên nói với gã như một người ngang hàng, chỉ trích cách làm của nhà máy, thổ lộ tâm sự - một chừng nào đó, và không ra vẻ ta đây.
Xét đến cùng, tay đốc công này… dĩ nhiên không có chuyện cảm phục hắn, nhưng kể ra dù sao hắn cũng là tay tốt bụng, tử tế, đối xử với Đen và Trắng như nhau, có vẻ đứng ngoài mọi âm mưu lớn nhỏ. Rollie biết rất ít người gã có thể ca ngợi như vậy.
Cho đến hôm thần tượng rơi vỡ loảng xoảng.
Một bữa kia lại có người tới rủ rê Rollie cộng tác với băng số đề trong nhà máy. Sứ giả là gã thanh niên Đen Daddy-o Lester làm ở ban phân phối phụ tùng; ai cũng biết anh ta được tự do đi lại khắp mọi phân xưởng nên vẫn làm môi giới cho băng số đề và bọn cho vay nặng lãi. Theo lời đồn đại, vết sẹo lằn trên mặt anh ta là do một tên thu ngân bí mật đã tặng cho nhát dao khi Daddy-o định quỵt nợ. Bây giờ anh ta đã tham gia công chuyện làm ăn này, đứng về phía có lợi. Sáng hôm đó, khi giao vài thứ phụ tùng ở chỗ Rollie, nhân dịp thuận tiện anh gạ luôn:
“Cánh số đề thấy cậu chơi được. Nhưng ngày nào đó họ cho rằng cậu không đáp lại thực lòng, họ sẽ nổi giận”.
- Cái mõm ngoác của cậu không dọa nổi tớ, Rollie gắt. Biến đi cho được việc.
- Cậu sai to, biết không? Daddy-o nhấn mạnh. Chỉ nói ngoài mép mình là tay hảo hán chả ăn thua. Phải chứng minh. Mà cậu thì chưa chứng minh gì hết. Từ ít lâu nay, thật đấy.
- Vậy hả? Cậu thử nói xem tớ làm cách nào thu được tiền đặt, ngay tại đây, giữa phân xưởng, khi đốc công lúc nào cũng bám lưng tớ?
Gã hất hàm chỉ Frank Parkland đang đi đến.
“Cái giẻ rách kia ấy à? Daddy-o khinh bỉ. Bố bảo cũng không dám cà khịa cậu, tớ nói thật. Nó cũng có phần đấy!
- Bịa.
- Nếu tớ cho cậu bằng chứng, cậu có đi với bọn tớ không?
Trong khi làm chiếc xe sau, Rollie thấy vẻ tự tin của Daddy-o làm gã nao núng. Chuyện hắn nói ra kể cũng lạ thật đấy…
“Lời nói suông của cậu chẳng là cái thá gì đối với tớ. Tớ cần nhìn thấy tận mắt”.
Ngay hôm sau, gã nhìn thấy tận mắt thật!
Lấy cớ đến giao một chuyến bộ phận rời nữa cho Rollie, Daddy-o ngả người vào sát Rollie chìa chiếc phong bì lấm lem, mở hé vừa đủ cho Rollie trông thấy mảnh giấy vàng và hai tờ hai mươi đôla.
“Rõ chưa, người? Daddy-o hỏi. Bây giờ cậu mở to mắt nhìn cho kỹ”.
Anh ta tới chiếc bàn hàng ngày Parkland vẫn ngồi làm việc - lúc này bỏ trống – đặt phong bì dưới cái chạn giấy. Rồi đi đến gặp người đốc công nói vài câu vắn tắt. Parkland lơ đãng gật đầu. Không vội vã nhưng cũng không la cà dọc đường, anh ta trở về bàn làm việc của mình, cầm phong bì, và sau khi liếc nhìn bên trong, đút luôn vào túi.
Rollie vẫn hồi hộp theo dõi cử chỉ của đốc công, lúc này thấy mọi sự rõ như ban ngày. Quá rõ! Parkland, người lớn tử tế thế cũng ăn của đút, vậy thì tất cả mọi thứ, tất cả mọi người không trừ một ai đều thối hoắc!
Thực ra xưa nay gã vẫn nghĩ như vậy. Chỉ riêng trong nhà máy - trước tiên, thằng huấn luyện viên lớp dạy nghề ăn cắp tiền công của học trò; bây giờ, Parkland. Vậy, việc quái gì Rollie Knight không làm như chúng?
Đêm ấy, gã thổ lộ với May Lou điều từ nay trở thành quan niệm của gã về cuộc đời:
“Em biết cuộc đời dơ dáy này làm bằng gì không? Em biết không, em bé? Bằng cứt! Toàn là cứt!”
Hai ngày sau, gã bắt đầu làm cho băng nắm quyền tổ chức đánh số đề trong nhà máy.