← Quay lại trang sách

Chương 3

Cuối hè, mọi sức mạnh như hợp lại. Tôi căm ghét mùa hè, đó là mùa của quên lãng, nếu không thì cũng là mùa mà người ta giả vờ quên. Hằng ngày, người người ùn ùn kéo đến như thủy triều lấp đầy mọi ngóc ngách, một dòng nước đục và dập dềnh len lỏi vào mọi khoảng trống, rồi chia thành vô số các nhánh nhỏ, nhân lên gấp bội. Chỉ được một lúc, vào tầm sáu giờ sáng mà trời đã sáng trưng, khắp nơi còn vắng vẻ, chờ đợi. Chỉ có những người đàn bà mò bào ngư đang bồng bềnh ngoài khơi. Vài con chim. Loáng sau đó là sự xâm chiếm. Đám côn trùng đen bung ra. Chúng chạy khắp các ngả, râu vểnh lên rình rập, cánh dang rộng, chúng bơi, chúng lăn, đôi khi chúng còn bay nữa, tôi từng thấy rồi: một người đàn ông đeo đai được một con tàu kéo vào tận bãi cát, gió thổi căng lớp dù mềm, kéo ông ta bò bằng bốn chân như một con cua khổng lồ sặc sỡ. Tôi chặn ngang giữa đường chạy của ông ta. Ông ta quay lại nhìn tôi, gương mặt đỏ au. Ông ta phủi cát trên người, rồi nói với tôi: “Spassiba*!” Ngọn gió quái quỷ nào đưa ông ta đến tận đây thế không biết?

Tiếng Nga, nghĩa là: “Cảm ơn!”

Ồn ào và nóng bức buộc tôi phải ra khỏi căn phòng chật hẹp của khách sạn nằm gần cảng. Ông chủ khách sạn có cho tôi thuê một chiếc lều - vật chứng của số quân cụ thừa sau chiến tranh, tôi đoán vậy - nên tôi bỏ ra phía bên kia của đảo, chỗ không hề có bãi tắm, một bờ biển đầy đá đen lởm chởm. Ở đó, tôi bị lũ gián biển tấn công, nhưng thà chịu đựng chúng còn hơn lũ sâu-bọ-người. Mary bảo tôi suốt đời chỉ là một gã độc thân gàn dở. Nàng giễu tôi: “ Ẻo lả, nhu nhược.” Nàng đâu biết gì về đời tôi. Nàng không hay nói về mình. Vào một đêm, vì nàng cứ hát rống lên lúc đi bộ dọc bờ biển, tôi liền bảo nàng rằng nếu ở bất cứ đâu không phải nơi đây nàng sẽ bị coi là điên. Nàng bèn ngừng hát, cay đắng kể về ngôi nhà nàng từng bị nhốt theo lời gửi gắm của một bác sĩ là bạn của gia đình. Nàng gọi nó là Nhà trắng. Bởi vì ở đó cái gì cũng trắng, từ tường, trần, đến áo bờ lu của y tá và thầy thuốc, cả nước da của bệnh nhân cũng trắng nốt.

Tôi cảm thấy mình nợ nàng một điều gì đó. Tôi nói, với một giọng dửng dưng: “Anh cũng thế, anh cũng từng bị giam.” Nàng hỏi: “Cũng trong một Nhà trắng ư?” Tôi đáp: “Không, trong tù.” Bất cứ, ai khác hẳn sẽ hỏi: “Tại sao người ta lại bỏ tù anh, anh đã làm gì?” Mary không hỏi. Nàng im lặng, còn tôi không nói thêm. Tôi không có khiếu thú tội.

Những lúc không đi câu tôi thường đi bộ xuyên qua đảo. Vào sâu bên trong, khách du lịch thưa dần. Họ thường để ý đến những bãi tắm và những điểm ngắm cảnh nổi tiếng chứ chẳng hề bận tâm đến những ruộng khoai lang và hành. Vào mùa hè những con đường mòn nóng như rang. Đất tỏa ra một mùi chua nồng. Đằng sau tường rào đám bò náu mình thản nhiên. Nắng nhức mắt. Tôi nhớ trước đây Mary và tôi thường ngủ ban ngày và sống vào ban đêm. Ngôi nhà chúng tôi thuê khi ấy nay vẫn còn, một căn nhà nhỏ bằng gạch nén và ván ép lợp mái tôn uốn lượn. Một người nước ngoài đã mua lại nó, một kiến trúc sư người Nhật, người ta kể với tôi như vậy. Ông ta có nhiều dự án lớn trên hòn đảo này, một khách sạn bốn sao có bãi đáp trực thăng và spa nước biển. Thần tượng của ông ta chính là kiến trúc sư Tadao Andõ, nói thế là đủ biết. Cũng tốt thôi! Thuở ấy Mary và tôi thường ra khỏi nhà khi hoàng hôn xuống, giống như ma cà rồng, vào lúc mặt trời nhòa trong màn sương. Chúng tôi bơi trong đêm, rùng mình mỗi khi những cành tảo chạm vào bụng. Vào một đêm trăng khuyết, chúng tôi làm tình dưới nước, ở bãi biển, quấn lấy nhau như cặp bò biển. Chuyện này xảy ra cách đây đã lâu lắm rồi. Tôi cứ ngỡ mình đã quên, nhưng khi quay trở lại đây, từng giây từng phút lại bắt đầu.

Khi đến được đảo sau ngần ấy năm, tôi nghĩ mình sẽ không ở lại quá hai hoặc ba ngày. Tôi thuê phòng trong một khách sạn nhỏ ở cảng, gần bến phà, nằm bên trên những cửa hàng chuyên cho khách du lịch thuê xe máy và xe đạp. Thời gian đủ để kiểm chứng rằng không còn gì nữa, rằng quá khứ đã được xóa sạch, rằng mình không còn cảm thấy gì nữa, thời gian đủ để cười khẩy hoặc nhún vai. Ngày đầu tiên tôi không làm gì khác ngoài việc ngắm nhìn những con tàu đến rồi đi, đám đông xuống thang tàu lên bờ, xe máy và xe đạp qua lại. Phần lớn khách tham quan còn rất trẻ, những cặp tình nhân và những nhóm trẻ em. Tôi cứ thế nhìn họ đến mức buồn nôn và đầu đau nhói. Họ đến đây làm gì? Lấy quyền gì mà đến? Họ mong đợi điều gì? Những kẻ săn mồi vô vị mặc áo gió màu sặc sỡ, đi giày thể thao, đội mũ lưỡi trai và đeo kính râm. Họ có biết gì về mối nguy hiểm đang lảng vảng quanh đây, có biết gì về những quỷ thần của đêm tối, những thế lực đang rình rập từ đáy biển, nấp dưới những khe sâu? Đã bao giờ họ thấy người chết đuối chưa? Tôi thực tình căm ghét những người này. Tôi cứ đếm họ đến rồi đi, hàng trăm, hàng nghìn người. Ai cũng giống ai hết thảy.

Đêm xuống, tôi đi bộ trên những con đường, ven bờ biển, hết ngang lại dọc. Du khách bỏ đi hết rồi. Tuy nhiên dường như vẫn còn vài người nán lại, nấp sau bụi rậm để rình rập tôi. Trời lạnh, gió thổi cùng với thủy triều lên. Đêm không trăng, trời đặc quánh hơi nước, biển là một khối mịt mù tối tăm. Tôi cứ thế lảo đảo bước, hai tay hơi dang ra để giữ thăng bằng. Lũ chó bị xích sủa inh ỏi khi tôi đi ngang qua. Một con bò rống lên từ một kho chứa cỏ tối om. Rồi ký ức chợt ùa về. Tôi đứng đó, trên con đường này, cô độc và mù lòa, một lần nữa tôi trở lại ba mươi năm về trước, với Mary. Tôi đi cạnh nàng, và bất chợt hôn lên cổ nàng, lên gáy nàng. Nàng nhích người ra, chắc hơi bị bất ngờ, tôi kéo nàng lại, chúng tôi vừa bước vừa quấn lấy nhau ra đến tận bãi biển và ngồi xuống bờ cát. Chúng tôi lắng nghe âm thanh của biển. Đấy là lần đầu tiên chúng tôi hôn nhau.

Hai chúng tôi nói chuyện khá khuya trước khi trở về căn nhà nhỏ. Đêm ấy vẫn còn trong tôi, và giờ đây nó sống lại như thể chưa có gì chia cắt nó khỏi chúng tôi. Đó là một nỗi đau, đồng thời là lạc thú, nó bứt rứt, cào cứa và mãnh liệt. Nó khiến tôi cảm thấy chóng mặt và buồn nôn. Lúc đó tôi hiểu ra rằng mình đến đây là để ở lại, không liên quan gì đến đám người như sâu như bọ nở ra và chết đi mỗi ngày. Tôi phải tiếp tục phần sau tất yếu của cuộc phiêu lưu này, sự mất tích của Mary chưa kết thúc gì cả. Tôi phải cố hiểu. Tôi phải đi đến tận cùng nỗi cay đắng, tận cùng niềm lạc thú trong bất hạnh.

Thế là tôi giữ căn phòng khách sạn và ở lại đó. Để phỉnh ông chủ, tôi mua của ông ta một chiếc cần câu với bộ lưỡi và hộp mồi. Tôi thuê lều của ông ta. Những đêm gió lặng, tôi ra cồn cát, sát bờ biển hoang vắng, không xa khu nhà vệ sinh bằng xi măng. Tôi lắng nghe biển.

Những người dân trên đảo không nói gì với tôi. Họ đã không chấp nhận, nhưng cũng không chỉ trích. Đấy là cái hay của những địa điểm nhiều khách du lịch. Cái từ người ngoại quốc không thực sự nói lên điều gì ở đây nữa.

Không ai bận tâm đến tôi. Không ai còn nhớ ra tôi. Không ai còn nhớ cái tên Mary. Chuyện đó xưa rồi, vào một thời xa xôi lắm rồi, nhưng thời gian không phải là lý do. Nơi đây, gió biển xóa nhòa tất cả, bào mòn tất cả. Nơi đây có hàng chục người từng chết đuối. Những người đàn bà của biển, chìm nghỉm, ngạt thở, trôi dạt dưới đáy biển cùng đai lưng giắt chì. Rồi những tai nạn do giảm áp, ngừng thở, trụy tim. Gió thổi trên những mảnh ruộng nhỏ xíu này, rền rĩ qua những bức tường nham thạch lỗ chỗ khe thưa. Tôi đắm chìm trong một cuộc tìm kiếm cay đắng và vô vọng. Làm sao những con người này có thể hiểu được? Mối lo của họ là cuộc sống thường nhật, ngày nào hay ngày ấy, và những ai ra đi không bao giờ trở về nữa. Niềm đam mê trong tôi khiến tôi đau nhưng đồng thời cũng làm tôi dễ chịu. Theo ngôn ngữ y học thì người ta gọi nó là một nỗi đau tuyệt vời. Đám lính vẫn mô tả với tôi điều đó hồi tôi còn đi theo họ với quyển sổ ghi chép trên tay. Họ không nói về nỗi dằn vặt. Họ nói về một trò chơi, một nỗi đau lặp đi lặp lại, ám ảnh và trở nên không thể thiếu. Một nỗi đau mà ta phải yêu nó, bởi lẽ, nếu nó chấm dứt, thì mọi thứ trở nên trống rỗng và chỉ còn nước chết đi cho rồi.