Chương 4
Ngày nào tôi cũng gặp Ngài Philip Kyo. Thời gian đầu, tôi tìm đến gặp ông. Sau giờ học, hoặc vào những ngày nghỉ, tôi băng qua cánh đồng, đi dọc bờ biển cho đến khi gặp được ông. Bây giờ thì ông đến tìm tôi. Tôi thường đợi ở bãi đá. Ông đến mang theo cần câu. Ông quăng cần một lúc, nhưng chán ngay bởi ông chẳng bao giờ câu được gì. Chỉ vài con cá bé tí trong veo mình đầy xương dăm. Tôi mà thả cần thì toàn được những con cá to, điêu hồng hoặc cá bơn chẳng hạn. Ngài Kyo không có khiếu cho lắm. Ông chật vật mãi mới móc được con tôm vào lưỡi câu, tôi đã giải thích cho ông phải làm thế nào, bắt đầu từ đầu rồi xiên đến tận đuôi nhưng vô ích. Ông vẫn không làm được. Ngón tay ông to, vụng về. Nhưng tay ông được giữ gìn cẩn thận, tôi thích thế. Móng tay ông không bị gãy, ông chăm sóc chúng bằng một chiếc bấm móng tay và chiếc giũa, và tôi thích vậy. Tôi không thích đàn ông có móng tay bẩn thỉu như gã Brown, bồ của mẹ tôi. Ngài Kyo có đôi bàn tay hơi nhăn nheo, da khá đen, và lòng bàn tay hồng hào. Kể cả là đôi tay ông có vụng về thì da lòng bàn tay lại rất nhẵn và khô, bởi tôi ghét nhất trên đời đàn ông có đôi tay ướt. Bàn tay nóng và ướt khiến tôi rùng mình ghê tởm. Tôi ấy à, tay tôi lúc nào cũng khô, khô và lạnh. Cả chân tôi cũng lạnh, nhưng hình như phần lớn phụ nữ đều vậy cả.
Chúng tôi cùng nhau câu và trò chuyện cho đến khi trời tối. Thường thì chúng tôi chẳng để ý đến câu. Khi gió lớn và biển động thì câu cũng chẳng được gì. Đám cá sẽ ở sâu dưới nước, nấp trong hang của chúng. Ngài Kyo ngồi trên mỏm đá, bất động, ông ngắm biển. Khi ngắm biển trông ông buồn lắm. Cứ như thể màu của biển nhập vào đôi mắt ông.
“Ngài nghĩ gì thế?” tôi hỏi ông. Liệu một con nhóc mười ba tuổi có thể quan tâm đến điều mà một người già suy nghĩ không? Ông thậm chí chẳng ngạc nhiên. “Ta nghĩ về đời ta, ông bảo vậy. - Ngài đã làm được nhiều việc trong đời chưa?” Ông không trả lời ngay. Tôi biết khá rõ người già, tôi vẫn thường gợi chuyện được những người đàn bà của biển. Tôi tin chắc nhiều người thấy thế thật kỳ, việc tôi hay nói chuyện với họ ấy. Nhưng tôi biết khi người ta già, người ta rất thích được người trẻ hỏi chuyện. Tôi cho là khi nào già tôi sẽ rất thích điều này. “Ta đã đi học để làm kiến trúc sư, rồi sau đó lại thành nhà báo. Ta vào nghề khi đi nghĩa vụ quân sự, ta gửi bài viết về những chuyện xảy ra ở mặt trận. Ta rất thích viết, nhưng không tài nào viết được một quyển sách. Ta đến đây để có thời gian viết một quyển.” Ông nói với một giọng lơ lớ, ông nghĩ mãi mới ra từ. Tôi rất thích cách ông nói tiếng Anh, ông có một chất giọng rất Anh, tôi nghe và nhắc lại các từ khi chỉ còn lại một mình. Tôi có cảm giác như đó là một ngôn ngữ khác với ngôn ngữ mẹ đã dạy cho tôi. Ngài Kyo bảo rằng ngữ điệu của tôi khá tốt, có thể vì bố tôi là người Mỹ, tất nhiên tôi không kể chuyện này với ông, nó chẳng liên quan đến ai cả. Tôi rất thích nói được một thứ ngôn ngữ khác, để bọn ranh ở trường không thể hiểu được. Vì thế tôi bảo Ngài Kyo: “Ngài dạy cháu những từ khác trong tiếng của ngài đi.” Tôi nghĩ ông cũng thích thế. Ông đã bật cười, tôi tin chắc là ông cảm thấy tự hào. Người lớn nào mà chẳng thích dạy điều gì đó. Nó bù vào việc ông câu không được giỏi. Thế là ông dạy tôi những từ mới như: “Angle, thread, hooks, snapper, starfish.”* Ông còn nói những từ tôi chẳng hiểu gì, những từ của thủy thủ: “Starboard, stern, seabass, bow, aft bow, mooring.”* Những từ này tôi không định nhớ, chỉ muốn nhớ cách phát âm. Cách hát chúng. Tôi yêu cầu ông nhắc lại những từ này, tôi nhìn miệng ông để nắm được âm điệu trong đó. Điều mà tôi thích là khác với phần lớn mọi người, Ngài Kyo không bao giờ hỏi tôi những câu riêng tư. Ông chưa bao giờ hỏi tôi: “Cháu bao nhiêu tuổi rồi?” hoặc “Cháu học lớp mấy?” Có lẽ ông cho là tôi đã lớn, chưa hẳn là một người lớn nhưng gần như thế, và vì vậy ông chấp nhận nói chuyện với tôi. Tôi thường bảo mình đã mười sáu thậm chí mười tám tuổi. Đúng là tôi khá cao lớn, tôi cao hơn đa số đàn bà con gái ở đây, và đã có ngực, còn kinh nguyệt thì cũng đã có được một thời gian. Tôi bắt đầu có từ đầu năm học. Lần đầu tôi thấy là ở trường, ngay trên lớp, tôi xấu hổ đến mức không dám đứng dậy khỏi ghế. Một lần khác, tôi làm giường ướt đến mức cứ ngỡ mình tè dầm trong lúc ngủ, nhưng hóa ra là máu. Tôi phải dậy giữa đêm và giặt ga ngoài trời với nước lạnh, bởi mẹ luôn nhắc tôi muốn giặt sạch vết máu phải dùng nước lạnh.
Tiếng Anh, nghĩa là: góc, sợi dây nhỏ, lưỡi câu, cá chỉ vàng, sao biển.
Tiếng Anh, nghĩa là: mạn phải tàu, phía sau lái tàu, cá vược, mũi tàu, phía sau mũi tàu, neo tàu.
“Thế còn ngài thì sao?” Tôi gọi ông là “ngài”. Giống như trong quân ngũ người ta thường nói: “Vâng, thưa ngài chỉ huy” hoặc “Không, thưa ngài chỉ huy.” Như thể đến lượt tôi có quyền được hỏi. Nhưng tôi quên mất là ông đã hỏi gì đâu. “Ngài có vợ không? Ngài có con không?” Ông lắc đầu: “Không, không vợ, không con. - Thế thì buồn nhỉ, ai sẽ chăm sóc ngài khi về già?” Ông nhún vai, rõ là ông chẳng bận tâm.
Sau đó, cả tôi lẫn ông không nói gì thêm, một lúc lâu. Tôi nghĩ những câu hỏi đời tư làm phiền ông. Ngài Kyo có một gương mặt dễ dàng bưng kín lại. Đó không phải kiểu người mà bạn có thể gặp hằng ngày, kiểu người sẵn sàng hơi một tí là bắt chuyện. Ông là một người khá bí hiểm. Trên mặt ông có một bóng đen. Khi tôi nói với ông, bất ngờ có gì đó như một đám mây lướt ngang trước mắt ông, phía trên trán ông.
Tôi và Ngài Kyo cùng nghĩ ra một trò chơi ngộ nghĩnh. Tôi không nhớ ông bắt đầu trước hay tôi nữa. Chúng tôi thường chơi trò này khi bóng đen ấy xuất hiện trên gương mặt ông. Lúc đầu chúng tôi chạm vào những vật trên bờ biển, những thứ vớ vẩn như mẩu gỗ hay lá tảo. Rồi chúng tôi quyết định làm như thế lần lượt từng người một, giả vờ như đang di chuyển những quân cờ hay những con bài đô mi nô. Chỉ là những thứ vớ vẩn thường tìm được trên cát, hoặc dưới hốc đá, những cành cây nhỏ, lông chim, vỏ sò rỗng. Chúng tôi đặt chúng trước mặt, trên khoảnh cát đã được dọn sạch và cào phăng. “Đến lượt cháu,” Ngài Kyo nói. Tôi đặt một mẩu dây. “Đến lượt ta,” Ngài Kyo nói. Ông để một cọng tảo khô xoắn vặn. “Đến lượt cháu.” Một mảnh thủy tinh nhám. “Đến lượt ta.” Ông đặt một hòn sỏi dẹt. “Đến lượt cháu.” Tôi đặt một viên sỏi khác, bé hơn, nhưng có vân màu đỏ. Ông bối rối, ông tìm kiếm xung quanh, nhưng rõ là không có gì khá khẩm hơn. “Cháu thắng rồi,” Ngài Kyo nói. Trò này có vẻ ngớ ngẩn, nhưng khi chúng tôi chơi với nhau nó thực sự có nghĩa. Viên sỏi có vân đỏ thực sự chiến thắng. Đặc biệt là khi chúng tôi chơi trò này, Ngài Kyo quên đi những muộn phiền. Vệt tối biến mất khỏi đôi mắt ông, chúng lại trở nên trong sáng và tươi cười. Chúng phản chiếu ánh nắng ngoài biển.
Đó là trò chơi của chúng tôi. Tôi gọi nó là “Đến lượt ngài, đến lượt cháu”, đơn giản thế thôi. Khi chơi, chúng tôi không còn nghĩ đến bất cứ điều gì khác. Thời gian không còn tồn tại. Chúng tôi có thể chơi mãi không bao giờ ngừng. Tôi thì thấy buồn cười, nhưng Ngài Kyo tỏ ra nghiêm túc. Ngay cả khi ông đưa ra một cái gì đó kỳ quặc, hoặc buồn cười, thì gương mặt ông vẫn giữ vẻ nghiêm nghị. Nhưng mắt ông ánh lên điều ngược lại. Tôi thích màu mắt của ông khi chúng tôi chơi.
Tôi đã nói về màu mắt Ngài Kyo chưa nhỉ? Chúng xanh lục. Nhưng là một màu xanh luôn thay đổi, màu xanh của rau xà lách, hoặc màu xanh của nước. Đôi lúc nó mang màu của lòng con sóng vỗ bờ, khi bọt khí và nước mưa hòa vào nhau. Trên gương mặt âm thầm của ông, đôi mắt như hai đốm ánh sáng. Nếu nhìn vào mắt ông nhiều quá, tôi có cảm giác chóng mặt. Thế là tôi thôi không nhìn nữa, tôi cúi xuống cát tìm một thứ gì đó để tiếp tục trò chơi. Tim tôi đập nhanh hơn, tôi có cảm tưởng nếu tiếp tục nhìn vào con ngươi ông, tôi sẽ ngã xuống. Hoặc ngất đi. Nhưng đương nhiên tôi không thể kể điều này với ông. Vả lại ông chẳng nhìn ai đăm đăm thật lâu bao giờ, thực ra tôi muốn nói là nhìn tôi ấy, bởi tôi đã bao giờ thấy ông đi với người khác đâu. Thế rồi, lúc ông ra về, tôi để ý thấy ông đeo kính râm, ngay cả vào lúc đêm đang buông xuống.
Chúng tôi gặp nhau hằng ngày hoặc gần như thế. Ngài Kyo đã chiếm một vị trí quan trọng trong cuộc sống của tôi. Tôi đã viết điều này vào nhật ký, bởi tôi không thể kể với bất cứ ai khác. Cứ tan học, và cả vào Chủ nhật sau khi đi lễ nhà thờ, tôi lại chạy băng qua ruộng khoai đến tận bờ biển. Từ xa tôi đã nhận ra bóng dáng ông, bộ com lê phấp phới trong gió. Thời gian đầu, ông còn đeo cả cà vạt đi câu. Nhưng nó cứ quất vào mặt ông khi có gió mạnh, thế là sau này ông cởi nó ra. Nhưng tôi thích ông thanh lịch, trái hẳn với đám du khách lúc nào cũng nghĩ đã đi là phải mặc quần soóc hoa hòe hoa sói hoặc áo gió màu vàng. Những lúc trời mưa, ông mang theo ô, không phải loại ô gấp bé tí trông nực cười mà là một chiếc ô màu đen giống như những thương gia ở nước Anh. Cuối cùng thì nó bị gió thổi bật, thế là ông quyết định chẳng cần ô nữa. Nước mưa ròng ròng trên mũ lưỡi trai và ướt đẫm áo vest của ông. Những ngày thời tiết thực sự tệ, ông trú trong lều. Ông dựng lều trên một đụn cát khá xa các bãi tắm. Đó là một chiếc lều ni lông màu xanh lá cây, buộc vào cọc kim loại. Ông chủ khách sạn cho ông thuê. Thế là chúng tôi cùng trú mưa trong lều. Lều có một kiểu mái hiên, nên chúng tôi tuy ngồi trong nhưng Ngài Kyo thò được chân ra ngoài. Tôi cực thích điều này! Tôi có cảm giác chúng tôi đang ở một nơi rất xa, ở một xứ không ai biết tới, ở châu Mỹ, hoặc ở Nga. Một xứ sở nơi chúng tôi sẽ ở lại, không bao giờ trở về nữa. Tôi ngắm nhìn những con sóng đang nối đuôi nhau trên mặt biển trắng đục. Xa xa sương mù ngày càng dày. Tưởng như chúng tôi đang ngồi trên một con tàu, sắp ra đi đến đầu bên kia thế giới.
Chúng tôi nói, nói và nói. Thực ra tôi nói là chủ yếu. Ngài Kyo trả lời được mọi câu hỏi, cái gì ông cũng biết. Ông là nhà văn mà. Nhưng ông không tự phụ, chỉ là ông có câu trả lời cho tất cả các câu hỏi, thế thôi. Ông đã biết mọi kiểu người, mọi đất nước, ông đã làm đủ mọi nghề. Tôi nghĩ cũng vì thế mà ông buồn. Cái gì cũng biết chẳng đáng buồn sao? Lúc đầu ông không trả lời nhiều. Ông ngồi nghe tôi nói ba lăng nhăng, có vẻ như ông nghĩ đến điều gì đó khác. Tôi hỏi ông về các chuyến đi, về nghề nhà báo, nhưng hình như ông không nghe thấy. Thế là tôi hích ông: “Này, thưa ngài!” Ông giật mình: “Cháu muốn gì? - Sao ngài không nghe cháu nói? Có phải ngài thấy cháu còn ít tuổi nên nghĩ cháu chẳng nói được điều gì ra hồn phải không?” Tôi thế đấy. Người lớn chẳng làm tôi sợ được. Kể cả các thầy các cô giáo. Tôi có thể đấm họ, cấu họ. Tôi làm thế một cách nhẹ nhàng dễ thương, chỉ để khiến họ chú ý thôi. “Ngài ngủ à? Ngài ngủ mở mắt được sao? Cẩn thận đấy, gió sẽ thổi ngài ngã, gió sẽ đẩy ngài xuống biển đấy!” Ông tươi tỉnh hẳn lên. Giờ thì ông để ý rồi. Thỉnh thoảng những câu đùa của tôi khiến ông bật cười. Tôi bắt chước giọng ông, cách ông nói, bắt đầu tất cả các câu bằng “ờ, à” bởi ông không biết phải trả lời ra sao. Nhưng ông biết rõ tên các loài chim, hải âu nhỏ, hải âu funma, chùn mỏ kéo, chim nhạn biển, cả côn trùng nữa, các loài bướm, bọ hung, và cả loài gián biển gớm ghiếc lúc nhúc ở bãi đá mỗi khi nước rút. Có thể ông là thầy giáo, một thầy giáo thôi không đứng lớp nữa. Có thể ông đã bị đuổi việc vì một vụ tai tiếng, bởi ông là kẻ ấu dâm, sờ soạng các nữ sinh trong một ngôi trường ở đất nước ông, và vì thế ông đến tận đây ẩn náu. Tôi thấy ý này thật hài hước, thậm chí tôi đã thử nói về chuyện đó, nhưng ông không hiểu. Hoặc ông không muốn nghe. Không, tôi không thể hình dung ông là một lão già đốn mạt lợi dụng giờ thể dục để sờ mông các cô bé. Vả lại trông ông không có dáng làm giáo viên. Ông không cao lắm, lưng hơi gù, nhưng đôi vai đẹp, những lúc ông không đội mũ mái tóc ông dày và xoăn điểm sợi bạc, trông thật thanh lịch. Có lẽ ông là cảnh sát, có lẽ ông đến đảo này để điều tra một tội ác. Ông đóng vai một người đi câu để quan sát kẻ đến người đi. Nhưng nếu vậy thì đóng bộ com lê đen và sơ mi trắng, ông sẽ là một tay cảnh sát kỳ cục.
Tôi hỏi ông những câu lạ đời phi lý, ý tôi là lạ đời so với một đứa trẻ ở tuổi tôi. Thí dụ như tôi hỏi ông: “Ngài muốn chết ở đâu?” Ông nhìn tôi không trả lời, chắc hẳn chưa bao giờ ông nghĩ đến điều này.
“Cháu ấy à, cháu muốn được chết dưới biển. Nhưng không phải chết đuối. Cháu muốn biến mất trong lòng biển, và không bao giờ trở về nữa. Cháu muốn được sóng cuốn đi thật xa.”
Ông nhăn mặt lại, tôi cứ tưởng ông sắp cười to. Nhưng nhìn kỹ hơn tôi thấy đúng ra mặt ông nhăn lại vì tức giận. “Sao cháu lại nói như thế! Ai nói với cháu chuyện biến mất trong lòng biển?” Lần đầu tiên tôi thấy ông có vẻ cáu vì những gì tôi nói. Ông nói thêm, bằng một giọng dịu hơn: “Cháu có biết mình đang nói gì không! Cháu toàn nói những điều ngu xuẩn thôi!” Tôi xấu hổ quá, tôi nghĩ mình nên ôm lấy cánh tay ông, dựa đầu vào vai ông để được ông tha thứ, nhưng thay vì làm thế, tôi lại thấy bực trong lòng: “Sao lại là ngu xuẩn ạ? Cháu có phải con ngốc đâu, cháu nghĩ đến cái chết, dù cháu còn rất ít tuổi.” Đúng vậy, đã nhiều lần tôi ra sát biển, toan lao mình vào những ngọn sóng, mặc cho biển cuốn đi. Chẳng vì một lý do thực sự nào, chỉ là vì tôi chán đến trường, chán gã bồ của mẹ tôi lúc nào cũng xoen xoét với mẹ những lời âu yếm và gian xảo.
“Không nói về chuyện này nữa, nghe chưa June.” Đó là lần đầu tiên ông gọi tên tôi, nó làm tôi tan chảy, vì như thế có nghĩa là tôi cũng quan trọng đối với ông, chứ không chỉ là một con oắt ngu xuẩn chán đời đến cảng ngắm chiếc phao ở dây câu của ông bập bềnh trên mặt nước. Trước khi ra về, tôi thơm nhẹ lên má ông, thật nhanh, chỉ đủ để cảm nhận làn da thô ráp hơi chua của ông (người già không ít thì nhiều đều có mùi chua này). Như thể ông là bố tôi, ông tôi hay gì đó. Rồi tôi cắm đầu chạy mà không ngoái lại.