← Quay lại trang sách

Chương 26

Tôi trở lại đó. Tôi đã nghĩ chuyện đó là hoàn toàn không thể xảy ra. Tôi đã nghĩ mình sẽ không bao giờ trở lại Phi châu nữa. Tôi đã nghĩ mình sẽ chết mà không được thấy lại mảnh đất này, ánh sáng này, không được hít thở bầu không khí này, không được uống nước của mảnh đất này lần nữa. Khi chúng tôi ra đi, như cách tôi đã ra đi, như một kẻ ăn mày, không giấy tờ không hành lý, liệu ai có thể nghĩ là một ngày nào đó mình có thể quay trở lại? Mình ra đi, nghĩ rằng mình sẽ không bao giờ có thể thành một du khách trên mảnh đất nơi mình đã ra đời, lớn lên, rồi bị phản bội. Tôi không biết rằng điều đó có thể xảy ra. Tôi chưa bao giờ nghĩ đến điều đó.

Trước hết cần phải tồn tại đã. Vì tôi chẳng có gì, tôi phải bịa ra một nơi sinh, một mốc ngày tháng, tìm được một số người làm chứng, những người cho mượn tên. Chính Ramata đã làm tất cả. Cô đã liên hệ với bà Crosley, rồi các bà xơ ở tu viện Conception ở Takoradi, cô đã nói chuyện cả với Chenaz và gọi điện cho ông Badou ở Bỉ. Vì tôi không muốn mang cái họ này, nên cô đăng ký cho tôi mang họ Crosley, trong khi chờ thủ tục nhận con nuôi. Tất cả đều khập khiễng, tất cả giấy tờ đều ghi ngày tháng đã được lùi lại, chữ ký thì thiếu, các con số đều giả mạo, nhưng cũng xong, như một chuỗi bánh xe răng cưa cái này khởi động cái kia, từ cấp sơ thẩm cho đến phán quyết cuối cùng của cấp phúc thẩm. Chính Bibi đã phát kiến cho tôi cách trở lại Phi châu, làm trợ lý tình nguyện cho bệnh xá Takoradi. Và tôi đã ra đi.

Nhóm tình nguyện đa quốc gia, có người Pháp, người Anh, người Hàn Quốc, người Mỹ, và thậm chí cả một cô người Úc. Phần lớn, cũng như tôi, không có lấy một chút kinh nghiệm về y học. Chúng tôi mặc một chiếc áo bờ lu màu lục bằng ni lông, đội một chiếc mũ cùng chất liệu, đi giày trong suốt. Chúng tôi ở bốn người một phòng, những phòng hình khối vuông bằng xi măng có sưởi ấm, và dùng phòng tắm chung. Chúng tôi nói chuyện với nhau một chút vào buổi tối, trong khi hút thuốc trên thảm cỏ, để xua muỗi. Sau khi giới thiệu, chẳng ai hỏi tôi: “Vì sao cậu lại tới đây? Trước đây cậu làm gì?” Điều đó khiến tôi có cảm giác là chúng tôi đều ở tù ra. Bác sĩ phẫu thuật là người Ghana, tên là Dedjo. Khi tôi nói với ông rằng tôi sinh ra trên mảnh đất này, ông ấy nhìn tôi như thể tôi đang đùa. Ông nói tiếng Anh không chê vào đâu được, giọng rất Anh. Nhưng ông có nhiều dấu vết trên hai má, tôi đồ rằng ông thuộc dân tộc Ga. Có thể là người Akan.

Bệnh viện nằm xa biển, trên con lộ Tarkwa. Ngày Chủ nhật, khi rảnh rỗi, chúng tôi bắt xe buýt vào thành phố. Những cô gái khác đi dạo trong trung tâm, còn tôi bắt taxi ra biển. Tôi không cố tìm lại nhà chúng tôi ngày xưa. Giờ là hậu chiến, tất cả đã bị xóa nhòa. Bãi biển không còn giống như những gì tôi từng biết. Hoặc giả do chính tôi không còn nhớ rõ nữa. Ở kia, nơi từng có một khoảng cát trắng mênh mông với bọt sóng chờm lên liếm tới, giờ đây là một kiểu nhà xây bằng gạch pa panh với mái tôn bắt chước những túp lều của các resort hạng sang. Thuyền độc mộc của dân chài được thay bằng những chiếc thuyền mui cong và thuyền đạp chân, và một cầu tàu bằng sắt thành nơi ẩn náu cho những chú bồ nông cuối cùng. Tôi bước đi trên cát mịn, trong gió Đông. Những đám mây sà thấp xuống, che lấp cả chân trời. Có vẻ như Takoradi đã kết thúc rồi, giờ đây những du khách muốn thám hiểm biển và lướt sóng nên tìm đến Kokrobite hay Amonabu thì hơn.

Tôi ngồi xuống để ngắm biển, trong khi đợi đến giờ quay về Tarkwa. Hẳn là đã có một cơn bão trong những ngày qua, bởi vì bụng sóng có màu vàng vàng, và bọt sóng không trắng lắm. Nhưng tôi nhận ra cái mùi quen thuộc, nó làm tôi rùng mình và nó thấm vào thẳm sâu trong tôi, tới tận não tôi, một mùi vừa dịu vừa hắc, không chút an bình hay văn minh, một thứ mùi của bạo lực không thể hiểu nổi. Đó là cái mùi đầu tiên tôi cảm thấy khi chui ra từ bụng mẹ. Tôi còn chưa có mắt, nhưng tôi đã mở rộng hết cỡ hai lỗ mũi và tôi đã hít mùi biển, cho toàn bộ phần còn lại của cuộc đời mình. Tôi không tìm cách hiểu xem mình đã được hoài thai ở đâu, cái túp lều tối tăm ở đó mẹ tôi đã nhận lấy hạt mầm của cha. Suy cho cùng, có thể là trong một trong những bungalow gớm ghiếc, bẩn thỉu này, trong khi trên cái bục xi măng của khách sạn một ban nhạc què quặt hành hạ một điệu reggae ? Quan trọng gì đâu? Tôi ra đời ở đâu thì tôi biết: ở ngay trong cái nhà thương nơi tôi đang làm việc đây. Vào thời đó, đây chưa phải một địa chỉ chính thức của hoạt động nhân đạo (medecinsdumonde.org), mà chỉ là một bệnh xá nông thôn nhỏ do những bà xơ ở tu viện Conception đảm trách, cùng với một vài người Ai Len, một vài người Nigeria, một thầy thuốc người Anh đã về hưu. Tôi đã tham quan tất cả các phòng. Căn phòng cũ nhất nay dùng để làm kho chứa dụng cụ y tế, thùng thuốc ngậm, ống tiêm, dây truyền, bình truyền dịch. Có một chiếc tủ lạnh to cổ lỗ từ thời hồng hoang, với cái tay nắm han gỉ, kêu ro ro và thi thoảng lại phành phành một tí. Cửa sổ mở ra sân đất nện, bao quanh là những cây chanh. Dĩ nhiên, tôi đã không nhìn thấy gì khi mới sinh ra, cả ở đây cũng như ở bãi biển. Tôi đã sống như một con thú nhỏ bị bỏ rơi, trong một chiếc nôi hai chỗ, hai tay nắm chặt, tim cũng khép kín, chỉ giỏi bú và làm bẩn tã lót, cho tới khi ai đó trong gia đình Badou tới tìm tôi và đưa tôi về nhà họ. Có gì quan trọng đâu?

Nhà thương không mấy khi nhận trẻ sơ sinh. Những bé gái bị bỏ rơi được đưa tới trại trẻ mồ côi ở thủ đô. Ở Tarkwa chỉ toàn những ca cực hạn. Hôm qua, tôi đã phụ cho một ca bóc u bìu. Bệnh nhân là một người đàn ông tuổi lục tuần, nhưng trông ông ta có vẻ già hơn, vì cuộc sống nhiều biến động. Điều ông ta lo lắng nhất là khả năng sinh dục sau này của mình, và trước lúc gây mê, ông cứ nắm lấy tay tôi mà rền rĩ lặp đi lặp lại: “Cô sẽ không làm hỏng nó chứ, cô sẽ không cắt nó đi chứ?” và tôi chỉ biết nói với ông ta: “Này bác, bây giờ bác sẽ phải ngoan hơn đấy.” Cuộc bóc u đúng là một lò mổ đích thực, máu me khắp nơi, vấy trên những đôi găng tay, trên chiếc áo bờ lu xanh, cả trên đôi giày nhựa của tôi. Một lát sau, tôi đi ra ngoài sân để hút một điếu thuốc với những tình nguyện viên khác. Nắng thiêu đốt làm đầu óc quay mòng mòng. “Mọi chuyện thế nào?” một cô gái không dám phụ ca mổ hỏi. Tôi cười khẩy, có lẽ vì tôi nghĩ đến những gì đã xảy ra ở đây, đối với tôi, ba mươi ba năm về trước.

“Ờ, không tệ hơn đỡ đẻ.”

Tôi đi tìm Julia. Tôi không biết họ của bà. Tôi chỉ biết cái tên này, đấy là nhờ mấy người già ở bệnh xá mà tôi biết được. Bà ấy là nữ hộ sinh, sống cùng thời với các bà xơ tu viện Conception. Bà không theo đạo, bà đã bỏ nghề hộ sinh từ lâu, nhưng nhiều người vẫn nhớ tới bà, vì bà là người giỏi nhất, là người mà người ta sẽ cậy nhờ khi có một ca đẻ khó, đứa trẻ xoay không thuận chiều, hoặc là tử cung người mẹ không mở đủ rộng. Bà có bí quyết, các loại thuốc sắc, những lời cầu nguyện, bà biết cách làm dịu nỗi lo của các sản phụ, bà biết tìm thóp cho những đứa trẻ sơ sinh.

Nhờ cất công hỏi, tôi đã kiếm được địa chỉ của bà. Đó là ở gần chợ, đường Summer Road, ngay sát hiệu tân dược Kenrich. Tôi đã tới đó vào ngày Chủ nhật, để chắc chắn sẽ gặp được bà. Ngôi nhà bé tẹo, giữa hai khối bê tông. Nó sống sót sau các kỳ tu bổ, như một chiếc răng sâu giữa những chiếc răng giả trắng hếu. Khi tôi gõ cánh cửa sắt, một thằng nhóc chừng mười lăm tuổi đi ra, nó nhìn tôi đầy ngờ vực. Tôi đồ chừng nó tưởng tôi là phái viên nhà băng hay một ai đó đại loại như vậy, người sẽ đến đưa tờ giấy có đóng dấu và lấy đi cái nhà. Khi tôi nói tên của bà nó, nó lên tiếng gọi nhưng đầu vẫn không ngoảnh đi. Nó tiếp tục nhìn tôi, một vẻ thách thức trong ánh mắt nó, cùng với chiếc mũ cát két của bọn rapper rởm và đôi giày vải. Julia xuất hiện. Tôi không hình dung bà như thế, nhỏ bé, giản dị thế. Với chiếc váy tạp dề và đôi dép tông, trông bà giống như một nông dân. Mái tóc hoa râm của bà tết thành bím, cột cao trên đỉnh đầu, kiểu tóc của mấy bé gái. Tôi nhìn bà không nói gì, rồi, không đừng được nữa, tôi nói: “Cháu Rachel đây ạ, bà có nhớ cháu không? Rachel.” Lố bịch. Bà hẳn đã đỡ đẻ cho hàng nghìn đứa trẻ, những Rachel và Judith, và Noma.

Nhưng bà không đuổi tôi đi. Ngược lại, bà nắm tay tôi dẫn vào nhà. Ngôi nhà bà, đó chỉ là một phòng nhỏ tối tăm, kềnh càng mấy chiếc ghế bành và một chiếc bàn bên trên đặt một chiếc ti vi. Một tấm rèm che trước một cái cửa và tôi nghĩ đó là phòng ngủ của bà, một cái hốc kê giường thì đứng hơn, theo cái bóng đổ xuống. Thằng nhóc đã biến mất, bỏ lại chúng tôi trong căn phòng, nó chạy đi gặp đám bạn. Chúng tôi ở lại, Julia và tôi, không nói một lời nào. sắc xanh của tường gạch và tấm rèm, sắc đỏ sẫm của gạch lát sàn, thảm và khăn lót, những khung ảnh treo trên tường ngăn cuộc nói chuyện, nhưng chúng tôi không chìm đắm trong yên lặng, bởi chúng tôi nghe thấy tiếng ồn ngoài phố, tiếng còi của những chiếc taxi tập thể, tiếng nhạc từ những chiếc đài boombox trong những quán bar bên cạnh. Khi tôi nói với Julia rằng bà là người đã đón tôi vào đời, cách đây hơn ba mươi năm, bà là người đã cho tôi bình sữa và chăm sóc tôi, thì bà không đáp gì, chỉ một tiếng à-à thế thôi, vừa gật đầu vừa hơi đu đưa trong chiếc ghế bành. Bà nói sõi tiếng Anh, bà học ở trường. Tôi mang theo mấy thứ giấy tờ - không phải là tấm hộ chiếu còn mới toanh mang tên một cô Rachel Crosley nào đó, mà là tất cả những gì tôi giữ lại được từ cuộc đời trước kia của mình, giấy khai sinh, sổ tiêm chủng và sổ học bạ. Bà xem rất cẩn thận từng thứ một. Tôi chỉ cho bà cả một tấm ảnh cũ mà tôi không bao giờ để mất, ngay cả khi tôi mất trí, trên tấm hình đó là Bibi và tôi, trên bãi biển Takoradi, tôi chín tuổi, còn Bibi lên bốn, tôi mặc một bộ bikini màu trắng và em chỉ mặc độc chiếc quần lót, chúng tôi đội mũ rơm, bọt sóng làm chói mắt chúng tôi. Julia cầm tấm hình, xoay nghiêng nó dưới ánh sáng để nhìn cho rõ. Bà mỉm cười, nhưng tôi cảm thấy bà đang cảnh giác. Một người phụ nữ như tôi đến gặp bà để làm gì? Có thể đứa cháu của bà, thằng nhỏ đội mũ cát két, bảo bà phải dè chừng, đừng có ký tá gì cả. Bà đưa lại đống giấy tờ cho tôi, xếp gọn gàng ngay ngắn, không bình luận gì. Tôi có thể chờ đợi gì đây? Rằng bà sẽ nhớ ra, bà sẽ gọi đúng tên tôi, bà sẽ ôm hôn tôi? Tuy vậy, vào lúc tôi chuẩn bị đi, Julia đi vào phòng, bà trở ra với tập album, và cho tôi xem những tấm ảnh gia đình. Một trong số những bức ảnh đó, có hình bà hồi khoảng chừng ba mươi tuổi, bà mặc một chiếc áo bờ lu chắc hẳn là màu xanh nhưng bức ảnh chỉ lưu lại được màu ghi xám. Đầu bà chụp một chiếc mũ viền trắng, đôi chân đi giày trắng. Bà cười tươi, phía sau bà là những chiếc nôi nằm thẳng hàng, có màn che. Tôi biết vì sao tấm ảnh này làm tôi xúc động. Đây là lần đầu tiên tôi cận kề sự ra đời của mình đến vậy, từ giờ trở đi, tôi sẽ không biết thêm gì nữa. Julia hiểu cảm xúc của tôi, một đám mây thoáng qua trên gương mặt tươi tắn của bà, có cái gì đó như là kỷ niệm, nhưng hiển nhiên là không thể làm gì nữa rồi, vì đã quá lâu. Tên tôi và những giấy tờ chẳng nói với bà điều gì, chỉ khi tôi nghiêng hẳn người xuống tấm ảnh này, bà mới rút nó ra và đưa cho tôi, bà không còn gì khác để đưa cho tôi nữa, không còn gì khác để chia sẻ, và tôi thì không thể nhận lấy nó. Đúng lúc tôi sắp bước ra khỏi cửa để lại lao mình ra ngoài, trong ánh sáng và tiếng ồn của con phố, bà dang rộng đôi tay và tôi ôm chặt lấy bà, bà thật nhỏ bé và nhẹ bẫng, nhưng đôi tay vẫn mạnh mẽ như tay những nữ hộ sinh. Ma-krow , tôi nói với bà, những từ twi duy nhất mà tôi học được, ma-krow auntie . Bà bèn đặt tay lên đầu tôi, bà truyền sức mạnh lại cho tôi, một dòng nước dịu dàng mà nóng ấm chạy dọc suốt thân thể tôi khiến tôi run lên. Bà trở vào nhà và đóng cửa lại. Tôi lại bước đi trên phố, về bến taxi. Tôi thấy váng vất chóng mặt, hẳn là vì nóng và đám đông. Vả lại, bắt đầu một câu chuyện mới, bao giờ chẳng khắc khoải hồi hộp.