← Quay lại trang sách

Chương 25

Tôi đã tới Courcouronnes. Chính nhờ Bibi mà tôi có được cái tên này và địa chỉ của mẹ tôi. Con bé ngỡ là tôi muốn dàn hòa với mẹ, muốn tìm lại gốc gác của mình, đại khái thế. Điều đó khiến con bé xúc động: “Chị yêu quý, chị quyết định đúng lắm, em không muốn nói điều này với chị, nhưng chẳng có cách nào khác để xóa bỏ quá khứ đâu, chị phải đối mặt.” Đích xác ra, quá khứ không phải là điều tôi muốn xóa bỏ. Mà là con người đó. Thật kỳ lạ, đột nhiên Bibi trở nên chín chắn, còn tôi thành ra đứa trẻ mà người ta vỗ về khi nó buồn đau, là cô bé được kể chuyện cho nghe trước giờ đi ngủ. Con bé ghì chặt tôi vào ngực và tôi cảm nhận được hai bầu vú em đã căng lên nhờ thiên chức làm mẹ. Trước đây điều đó hẳn sẽ khiến tôi trào nước mắt. Nhưng giờ đây, tôi lạnh nhạt và xa cách, tôi không cảm thấy gì, trừ hai quả đạn trái phá ấy đè lên phần ngực phẳng lì của tôi, và điều đó khiến tôi thấy buồn.

Tôi đi tàu đến tận thành phố đó, giữa những cánh đồng và những vành đai cao ốc. Gần đường sắt, lần đầu tiên tôi trông thấy trại. Nơi đó không được ổn cho lắm. Trên tàu, có một lúc, một đàn trẻ con chạy khắp các toa, nện thình thình các ghế phụ. Một trong số chúng, một thằng nhóc chừng mười hai, mười ba tuổi, mặt mũi sáng sủa, đôi mắt đen láy, ngồi xuống trước mặt tôi để nhìn tôi: “Tên gì?” Tôi thừa hiểu nó định dọa cho tôi sợ. Những đứa khác chạy tới, những bé gái mặc váy ra ngoài quần dài, chúng nói chuyện bằng ngôn ngữ của chúng, còn đám con trai ngồi sát vào người tôi. Rồi khi thấy tôi không sợ, chúng bèn chạy đi xa hơn. Đến bến, tôi gặp lại chúng trên sân ke. Chúng tôi đi bộ cùng nhau đến tận trại. Chỗ đó như một ốc đảo nhỏ giữa mạng lưới chằng chịt các xa lộ, các lều lán được xây vô tội vạ, từ những mẩu ván hay tôn. Tiếng xe hơi ầm ĩ không dứt, cứ như vùng biển Arromanches. Tôi đứng trước khu trại, và đúng lúc đó, một cô gái trẻ tiến đến, hỏi tôi tìm gì. Ả hơi béo, vẻ thô kệch. “Tôi tìm một xó để ở.” Ả nhìn tôi khinh khỉnh một hồi, rồi ả chỉ cho tôi một căn lều. “Kia kìa, cô có thể ở lại nhà tôi. Có đệm đấy.” Khi tôi bước vào lều, ả chìa tay ra với tôi. “Tên tôi là Rada. Dù sao cô cũng phải trả tiền đã.” Tôi nói tên, đưa một ít tiền rồi chúng tôi không nói gì thêm nữa.

Tôi đã bước vào trại theo cách như thế đó.

Tôi có một khẩu súng lục. Tôi lấy nó của Emma Crosley, trong ngăn kéo tủ ở phòng bà, dưới xấp quần áo. Chính bà đã chỉ nó cho tôi vào một hôm nào đó, khi bà kể với tôi về người chồng, đại tá không quân Crosley. Đó là súng công vụ của ông ấy, một khẩu ca líp 38, nhỏ và đằm. Trong mỗi lỗ ở ổ quay đều có một viên đạn mới.

Ngày nào tôi cũng rời trại ra ngoài, tôi đi bộ trên những con phố tĩnh lặng, xa đường lớn. Tôi băng qua khu phố toàn những biệt thự nhỏ xinh xắn bao quanh là những hàng rào cây râm. Quang cảnh ấy có lẽ giống như ở Arromanches, trừ một điều là nơi này không có biển ở cuối các con đường. Khi ấy là một sáng mùa thu, mỗi ngày qua đi ánh sáng lại héo hắt hơn một chút. Những đám mây lang thang trên bầu trời, đôi khi trời mưa, tôi rất thích được cảm nhận những giọt mưa lạnh buốt trên mặt, trên hai bàn tay mình. Tóc tôi trĩu xuống, xoăn lại, hơi giống tóc Bibi hồi nhỏ. Thật kỳ lạ, càng lớn tóc con bé càng sẫm màu và giờ thì gần như thẳng mượt. Tôi quyết định đi cắt tóc thật ngắn. Ngày mai, hoặc ngày kia. Con gái, một khi đã quyết định thay đổi cuộc đời, thường rất thích đi cắt tóc. Tôi đã phát hiện ra một tiệm cắt tóc trong thị trấn, trên con phố dẫn ra ga. Tôi những muốn cắt một kiểu đầu giống con trai, như Audrey Hepburn trong phim Sabrina . Tôi không chắc là cô thợ cắt tóc có biết cắt kiểu đó không, cô ấy hẳn thuộc kiểu thợ suốt ngày phải uốn xoăn vĩnh viễn và nhuộm ánh tím cho các bà già. Tôi sẽ thay đổi, tôi sẽ là một ai đó khác.

Có thể là tôi sẽ chấp nhận đề nghị của bà Crosley và trở thành con nuôi của bà. Suy cho cùng, Rachel Crosley cũng không đến nỗi nào. Năm tôi chừng mười tuổi gì đó, một người đàn bà đã đến nhà, ở Takoradi. Đó là một bà bạn của Chenaz, một người đàn bà cao lớn, da rất trắng với cái mũi cao. Bà ta nhìn tôi, và bảo: “Cô nhóc này xinh xắn quá, cậu cho tôi được không?” Tôi không biết Chenaz đã trả lời ra sao, nhưng tôi đã tự cứu mình bằng cách bỏ chạy, và tôi trốn trong vườn. Tôi không muốn xuất hiện trở lại trước khi người đàn bà đó đi khỏi, tôi quá sợ người ta đem tôi đi.

Tôi luôn thủ khẩu súng lục nơi tay phải, trong túi áo gió. Nó không bao giờ rời khỏi tôi, từ khi tôi đến trại. Tôi giấu nó dưới gối, khi ngủ cũng ở tư thế sẵn sàng. Tôi không phô nó với ai cả. Nếu Rada hay một thằng trong đám con trai nhìn thấy, dám chắc là chúng sẽ thó mất đem đi bán. Dù gì nó cũng lợi hại hơn đám dao gập hay dao bấm của tụi nó. Với lại tôi không nên để mất khẩu súng công vụ của ông đại tá không quân . Tôi nhất định phải mang nó về Arromanches, trả nó vào ngăn kéo tủ dưới xấp quần áo, có thể bà Crosley vẫn chưa phát hiện ra nó bị mất. Nếu không, tôi sẽ phịa ra chuyện gì đó: “Súng lục ư? À vâng, cháu xin lỗi, cháu mượn nó để chụp ảnh thôi, cho một phim truyền hình dài tập ấy mà, họ muốn có súng thật, chứ không phải một món đồ chơi bằng nhựa.” Bà Crosley sẽ thông cảm, bà ấy rất thích xem phim dài tập. Rosa salvaje . Bà ấy còn ghi lại các bộ phim bằng một đầu máy VCR. Tình yêu cuối cùng, Mộc lan đen, Emma Glück . Ở Bicêtre cũng vậy, Chenaz Badou và Bibi ngày nào cũng xem ti vi mất hàng giờ.

Ở trại, không có ti vi, cũng chẳng có đầu DVD. Chủ trại có một cái máy vi tính, nhưng nó chỉ được dùng để xem kết quả các cuộc đua ngựa, hoặc các trận bóng bầu dục. Ông ta không thích bóng đá, ông ta bảo bóng đá toàn trò lòe bịp, hơi bị một cú vào chân là đám cầu thủ đã lăn ra sân như đàn bà. Ở trại, không có phương tiện giải trí. Tối đến, cứ chín giờ là tắt hết. Tôi nằm trên giường, tay đặt lên khẩu súng lục. Tôi lắng nghe tiếng thở của Rada. Tôi biết là cô ta muốn tôi, nhưng tạm thời thì cô ta chưa dám làm gì. Thế là tốt. Tôi nghĩ đã lâu lắm rồi tôi chưa thực sự được ngủ yên trọn một đêm.

Khi ra đến phố, tôi đi từ từ. Tôi đi bên phía bóng râm, dọc các hàng rào. Đó là một con phố như mọi con phố ở khu này, với một cái tên như mọi cái tên khác, tên một loài cây, tên một loài hoa. Phố Hoa hồng, đại lộ Thích trắng, đại lộ Liễu bách, phố Dương, phố Liễu. Ban đầu, tôi bị lạc. Tôi đi lang thang, tôi không tìm thấy đường đi trong khu mê cung này nữa. Giờ đây, sau nhiều tuần, tôi đã biết mọi góc phố, mọi khúc quanh. Cần phải leo lên một gò cao, rẽ, đi qua trước những chung cư nhỏ, đi dọc một khu nhà chia lô, và ở đó, trước mặt, ở giao điểm của ba con phố dốc, ngõ Sen cạn, một ngôi nhà màu vàng với những cánh cửa trập bằng nhựa màu xanh lục, một hàng rào, một cổng màu trắng. Có một lối đi dưới bóng râm, một lỗ hổng giữa hàng rào, có thể đó là lối đi của những con mèo hoang. Tôi đã chui vào qua chính cái lỗ đó. Tôi ngồi xuống giữa đám cây bụi, với chiếc áo gió màu xanh lục nên tôi gần như vô hình. Tôi chờ đợi, có mòng, có muỗi, có đàn kiến đang đi thành hàng dọc bức tường thấp. Có những chú chim nhỏ, chúng kêu ríu rít khi tôi chui vào hàng rào, rồi chúng im bặt, hoặc là chúng đã bay đi chỗ khác. May mà không có chó, ở nhà này, cũng như những nhà hàng xóm. Nếu có thì chỉ cần một con chó nhỏ chết tiệt như con Zaza của Chenaz cũng có thể đã đánh hơi thấy tôi và hẳn sẽ sủa. Trong hàng rào, tôi yên tâm, tôi có thể thám sát ngôi nhà này.

Tôi chẳng thấy có cái gì hay ho. Buổi sáng, từ tinh mơ, đã thấy người đàn ông nọ đi đổ rác, rồi cứ đứng trong khu vườn nhìn vào khoảng trống. Ông ta khá đậm người, vận đồ xám, mái tóc cũng màu xám. Ông ta hút thuốc dưới ánh mặt trời, như thể đó là điều quan trọng nhất trong buổi sáng của mình. Sau đó ông ta đi vào nhà, và tôi không còn nhìn thấy ông ta nữa. Tôi đồ chừng ông ta xem ti vi, hay làm lặt vặt gì đấy trong bếp. Bà ta không ra khỏi nhà trước buổi trưa. Bà ta lấy xe hơi riêng, một chiếc Renault 5 màu xanh lơ tàn tạ, lái ngang qua trước hàng rào, bà ta nhìn quanh quất, rồi đi về phía Courcouronnes, hoặc về phía Évry, nơi có trung tâm thương mại. Có thể trên đường đi, trên đoạn đường nối với xa lộ, bà ta sẽ gặp những đứa trẻ của trại, những đứa con gái với mấy chai nước và cái giẻ lau bẩn thỉu của chúng. Có thể bà ta sẽ cho chúng ít tiền, để chúng không làm bẩn kính chắn gió của bà ta bằng miếng giẻ của chúng. Hoặc bà ta nghiêm khắc nhìn chúng, đôi môi mím chặt, kéo kính lên và chốt cửa lại. Dù thế nào đi nữa, bà ta cũng không bao giờ nghĩ rằng tôi có thể ở đó, với những đứa con gái ấy, và tôi cũng vậy, cũng mang chai nước và miếng giẻ của mình. Khi bỏ rơi đứa con gái của mình, liệu người ta có nghĩ đến chuyện sau này lớn lên nó sẽ ra sao không?

Buổi chiều, bà ta trở lại trong khu vườn. Vì trời vẫn còn đẹp và ấm áp, bà ta kéo cái ghế dài ra giữa bãi cỏ, rồi đọc một cuốn sách, hoặc là mơ màng ngủ dưới nắng. Tôi cố hình dung xem bà ấy đang đọc cái gì, đang nghĩ điều gì. Đôi khi, tôi như nghe thấy có tiếng nói. Giọng của bà ta. Những từ ngữ ấy quay cuồng trong đầu tôi, đến mức rú rít, đến chóng mặt. “Sự thật”, “quấy quả”, “bạo lực”, hay thậm chí những chữ bình thường hơn, kỳ cục, vô nghĩa, “hôm nay”, “lấm tấm”, hay những cái tên xa lạ với tôi, có lẽ là tên của các con bà, tên của người chồng mới, của đứa con gái bà ta, “Hélène”, “Marcel”, “Melanie”, “Maurice”, “Mauricette”... Thế là tôi bịt chặt tai lại, tôi ép chặt hết sức đôi tay lên hai tai, tôi đau nhói trong tai, tôi ép tới nỗi màng nhĩ muốn nổ tung. Dường như từ xưa đến nay, tôi vẫn luôn nghe thấy những cái tên này, từ rất lâu rồi, từ hồi thơ ấu, chúng luôn ở đó, ở Takoradi, ở trường học, ở Kremlin-Bicêtre, ở trung tâm Malraux. Tôi thấy như chúng đã hủy hoại đời tôi, đã từ từ vét rỗng tôi, hút kiệt sinh lực của tôi, của toàn bộ con người tôi, chúng chia tôi ra thành hai, thành ba, thành mười phần.

Tôi cầm báng súng trong tay phải, trong túi chiếc áo gió, tôi vuốt nhẹ phần kim loại có khía, cái chốt an toàn, tôi lên cò, tôi tháo đạn. Chính Hakim King là người đã chỉ cho tôi biết người ta phải làm gì với một khẩu súng. Một bữa nọ, anh đã đưa tôi tới trường bắn, ở mạn La Garenne. Tôi bắn vào bia, và khi mảnh bìa được đẩy trả lại, tôi thấy mình đã ghim tất cả các viên đạn vào hồng tâm, thậm chí có hai phát trúng cùng một lỗ. Từ chỗ này, khi muốn, tôi sẽ không thể bắn chệch mục tiêu. Một viên đạn, chỉ một viên thôi, và tất cả sẽ xóa sạch. Sẽ có một âm thanh kép, tiếng thuốc súng bùng nổ và gần như đồng thời, nhưng tôi có thể nghe thấy nó tách bạch, tiếng của viên đạn găm vào cơ thể. Không một tiếng kêu, nhất là không để thốt ra một lời than van. Thậm chí cả một tiếng “ối!” cũng không. Chỉ độc một âm thanh đục và mạnh của viên đạn găm vào phổi trái và xuyên thủng động mạch chủ.

Tôi biết từng chi tiết của ngôi nhà này, của khu vườn, của những lối đi rải sỏi nhỏ, những vòm cuốn bồn hoa và tất cả những khóm hoa, những bụi gai, những thân cây, một cây liễu rủ đầy côn trùng và một bụi dương lá bạc. Cứ như thể tôi đã sống ở đây từ rất lâu rồi, thời ngôi nhà ở Takoradi, như thể tôi đã là một đứa trẻ ở đây, giữa những đứa trẻ khác. Nhưng họ không trông thấy tôi. Đối với họ, cũng như đối với Chenaz Badou, tôi vô hình. Tôi không biết vì sao tôi lại đến, tôi không biết mình chờ đợi điều gì. Từ khi tôi ở trại Courcouronnes, tôi đến đây, trong cái lỗ hổng giữa hàng rào này. “Cô đi đâu thế, đi làm hả?” Rada nhìn tôi đầy ngờ vực. Bọn nhóc trong trại theo tôi một đoạn trên phố, tôi nghĩ chính Rada bảo chúng canh chừng tôi, nhưng tôi cứ loanh quanh hết phố này qua phố khác, cho đến khi chúng phát chán liền chạy đi và tiếng la hét chói tai của chúng vang lên lảnh lót giữa khu phố vắng. Một bận tôi dẫn chúng tới trung tâm thương mại. Người quản lý tiệm đồ sửa chữa chưa kịp nhìn thấy chúng chạy vào thì chúng đã tỏa khắp các giá hàng và la hét như tiếng thổ dân. Ông ta muốn nói điều gì đó với tôi, và tôi lớn tiếng với ông ta, như chưa từng làm thế với ai khác, tôi vừa nói vừa nghiến răng, và tôi không rõ ông ta có biết tôi mang vũ khí hay không, ông ta xuống nước, tôi bảo: chuyện gì? chuyện gì? chúng đã làm gì, chúng đã ăn cắp cái gì của ông à? Nói đi, ông thấy chúng lấy cắp cái gì chưa? Bọn nhóc chạy lên tầng, chúng la hét chói tai, chúng chạy quanh những giá hàng, còn những khách hàng hiếm hoi sững ra tại chỗ, và khi tôi ra khỏi cửa hàng, lũ trẻ chạy theo sau tôi và biến mất trong phố, giữa những xe cộ, về phía mỏm đất nằm giữa các làn đường của xa lộ. Chính qua chuyện đó mà tôi hiểu rằng mình chịu trách nhiệm về chúng, rằng chúng là gia đình của mình theo một cách nào đó, quả thật là như thế vì tôi đâu còn gia đình nào khác. Chúng cũng thế, không tên tuổi không nhà cửa, sinh ra ở đâu đó, không quá khứ không tương lai.

Với Rada, tôi không nói chuyện nhiều. Cô ta không thật sự là người của trại, ngẫu nhiên mà cô ta tới đó, cô ta thô bạo và nặng nề, cô ta nói với một thứ giọng trúc trắc, có thể cô ta đã từng ở tù. Có thể cô ta là chỉ điểm của cảnh sát, và chính bởi thế mà cô ta có thể ở lại đây, với cái đám này. Nhưng tôi thích cái là không có gì bắt buộc, không có gì dứt khoát. Đây là lần đầu tiên trong đời tôi cảm thấy mình tự do.

Sáng nay tôi đến ngõ Sen cạn từ sớm. Đó là một ngày thu đẹp trời, bầu trời rất sáng. Đã chớm cái lạnh mùa đông trong những rãnh nước lề đường, gió thổi ngang những con lộ. Tôi bước rất nhanh, hai tay giấu trong túi áo gió, hơi chúi người về phía trước vì sức nặng của chiếc ba lô kiêm cặp sách. Tôi gói ghém hết đồ đạc, như mỗi lần ra khỏi trại. Khi bạn sống ở một nơi như thế, bạn ra ngoài và không chắc sẽ trở về vào buổi tối. Tất cả đồ đạc của tôi, có nghĩa là chỉ có bộ quần áo trên người, một túi đựng đồ vệ sinh cá nhân, mấy chiếc khăn mùi soa và một hộp tampon, cùng vài thứ giấy tờ không quan trọng và một cuốn sách cũ mà tôi mang theo tới bất cứ nơi nào tôi đến, đã bị rách và lem bẩn, cuốn Nhà tiên tri của Gibran, tôi lấy nó trên giá sách ở nhà Hakim, không có sự cho phép của anh. Đừng hỏi tại sao lại là cuốn này mà không phải cuốn khác, tôi đọc nó từng đoạn ngắn một, như thể một bài hát, tôi đọc nó và ngủ thiếp đi. Một bận, tôi bị cảnh sát kiểm tra, họ nhìn cuốn sách, và ả cớm nữ hỏi tôi: cô theo đạo Hồi sao? Tôi cười không trả lời, từ khi nào người ta quan tâm đến tôn giáo của tôi? Lúc đó, tôi còn chưa có khẩu súng của đại tá không quân Crosley, nếu không chắc tôi không thể ra khỏi sở cảnh sát. Vậy nên tôi siết chặt cái vật nhỏ bằng kim loại ấy trong tay, và tôi dấn những bước dài về phía ngõ Sen cạn. Tôi biết ngày hôm nay sẽ quyết định tất cả. Sẽ không có một mùa đông nào khác để mà lần lữa.

Ngôi nhà trơ sững trong vẻ yên lặng uể oải. Ngay cả những chú chim cũng lặng thinh. Tôi đứng ngay đầu lối đi rải sỏi, tôi nhìn về phía những ô cửa sổ đóng kín. Liệu họ có quyết định gặp tôi không? Hay có thể là người phụ nữ ấy, Michèle, Gabrielle, có thể bà ta đã trông thấy tôi, và đã bấm số gọi cảnh sát. Đến nhanh đi, tôi tin cô ta có vũ khí. Tôi sợ, cô ta làm tôi sợ, cô ta đã phải điều trị ở viện tâm thần, người ta đã thả cô ta ra, hoặc cô ta đã bỏ trốn, cô ta rất nguy hiểm. Không, không, tôi không biết cô ta, tôi chưa bao giờ nhìn thấy cô ta, tôi không biết tên cô ta. Tôi nghĩ rằng đó là một người điên đáng thương, một kẻ lang thang, cô ta ở trong trại tị nạn ngoài xa lộ, cô ta lê la khắp các con đường trong thành phố với một đám du thủ du thực, ăn mày, phường lêu lổng, móc túi.

Đột nhiên tôi thấy rã rời. Không có gì khiến ta kiệt quệ hơn là hằng ngày phải tới trước một ngôi nhà đóng cửa im ỉm, để nhìn một cái bóng lướt qua. Tôi ngồi bệt xuống đất, trên lối đi rải sỏi, tôi đặt ba lô bên cạnh. Hôm nay cần phải kết thúc những lời dối trá. Hôm nay mọi sự phải được làm sáng tỏ, rồi thì biến mất, kiểu như một bóng đèn điện lóe lên ánh sáng cuối cùng trước khi tắt ngấm.

Đó là một khoảng thời gian dữ dội, nó không trôi đi, hay đúng hơn là nó xé lẻ ra thành từng mảnh, từng mẩu nhỏ, như thể tôi sống đời sống của một con kiến. Tôi thấy từng hạt sỏi, màu trắng, vỡ ra theo góc vuông, một tảng băng trong một biển băng. Những cọng lá khô, những ngọn cỏ mà thuốc diệt cỏ đã tiêu diệt, những viên đá chết, những mảnh sành vỡ. Trên bầu trời trong những đám mây nhẹ trôi, như thể những chiếc thuyền đang căng buồm. Chúng thật xa mặt đất. Ngày xưa ở Takoradi tôi nhìn chúng trôi qua chu vi khu vuờn, tôi nằm dưới đất và chúng trôi qua chậm rãi, nhẹ nhàng, theo hướng gió từ biển. Cùng với Bibi chúng tôi chơi trò chơi đặt tên cho những đám mây: nào cá heo, nào chim tu căng, nào yêu tinh trắng, yêu tinh xám, nào phù thủy, nào liễu bách. Tôi vẫn nguyên là con người ấy. Tôi là cái đứa chuyên ngủ dưới đất vườn, ở phía bên kia thế giới, ở Phi châu. Cần phải có điều gì đó xảy đến, ngay bây giờ, để ngắt cái cuộc đời tôi đang mơ tưởng lại. Tôi cần phải đi vào nửa còn lại của cuộc đời mình.

Trước tiên họ tới trại, để trục xuất tất cả ra khỏi đó. Hình như họ đã thông báo rằng, chính quyền không muốn dung dưỡng bọn lang thang nữa. Rada đã chuẩn bị chuyến đi của mình, họ đã thu hết đồ đạc, và cùng với đám trẻ con họ lên xe cảnh sát đi về phía tòa nhà đón tiếp, ở đó họ sẽ có nhà vệ sinh và những căn phòng tử tế. Sau đó họ đã tới tìm tôi, họ tới không gây một tiếng động. Không rúc còi hiệu, không ầm ào, không la lối. Lẹ làng, như thể họ đi trên cát, hay trên một tấm thảm mút. Hai nữ, hai nam. Không có dáng vẻ của những cặp đôi đóng giả tình nhân lượn lờ trên phố để tóm kẻ gian. Họ nói. Họ hỏi. Họ muốn gì? À phải, món đồ chơi của tôi. Là hỏi cái ấy. Tất cả đều muốn món đồ chơi của tôi. Tôi cười với họ. Tôi cười với người phụ nữ trẻ đứng trước mặt mình. Mặt trời chiếu sáng khuôn mặt màu đồng của cô. Đôi mắt cô thật dịu dàng, không giống như mắt Rada. Cô từ đó tới, từ thành phố của tôi, từ những con phố Takoradi, từ Cape Coast, từ Elmina. Tôi còn nhớ, tôi đã gặp người phụ nữ ấy ở đó, khi mà dì tôi đưa chúng tôi, Bibi và tôi, tới tham quan nhà tù nô lệ. Bên cạnh pháo đài, những con phố nhỏ chật hẹp, những căn nhà xây bằng gạch và lợp mái tôn. Cô đứng dưới bóng râm một mái nhà, cô nhìn tôi. Cô bé nhỏ, một đứa trẻ với cái miệng sưng phồng, đôi mắt giương to vì sợ hãi. Tôi đưa kẹo cho cô. “Đừng sợ, cô gái. Tôi tên là Ramata. Chúng tôi ở đây để giúp cô. Hãy giao vũ khí của cô cho tôi, làm ơn.” Tôi không sợ. Tôi cười với cô, tôi muốn ôm chặt cô trong vòng tay, như thể chúng tôi vừa tìm lại được nhau sau một cuộc xa cách dài. Tôi thích tên của cô, một cái tên Phi châu. Một cách chậm rãi, tôi chìa khẩu súng ra cho cô, cô cầm lấy và đưa cho viên cảnh sát đứng bên cạnh. “Cô đi với chúng tôi, chúng tôi sẽ chăm sóc cô, đừng sợ.” Tôi đi với Ramata, cô không muốn người ta còng tay tôi. Tôi dựa vào cánh tay cô như thể một người già nhỏ bé, tôi đi bộ chậm rãi, từng bước nhỏ, những hòn sỏi lạo xạo dưới gót giày chúng tôi, một thứ tiếng động của cát bên bờ biển.