← Quay lại trang sách

PHẦN I - 1 -

Nhớ đến mẹ tôi ngày xưa, mỗi lần có gì rầy la, dạy bảo chúng tôi, bà thường nói câu: “Các con làm như vậy không phải là hảo hán”. Mới độ lên bảy, lên tám, chưa đến tuổi hiểu biết, thì hai chữ hảo hán quả thực chẳng có ý nghĩa gì. Hẳn trước kia, mẹ tôi cũng đã từng bị bà ngoại rầy câu ấy, và chắc bà ngoại cũng đã nghe bà cố…rồi cứ thế mà truyền lên tới thời nước ta bị quân nhà Hán sang đánh chiếm…Con làm thế nầy không phải là hảo hán, thế kia không phải là hảo hán. Chữ hảo hán trở thành một tỉnh từ, như khi nói đến một cái gì tốt đẹp. Không phải hảo hán tức là xấu, là làm sai, phản lại với đạo đức, luân lý. Nhưng thuở bé chưa biết gì và chưa làm tội gì nặng, ngoài mấy cái tội như tội chạy ra nắng buổi trưa, hoặc trèo cây hái quả non, chưa chín mà đã hái ăn. Chỉ có thế mà đã bị mẹ mắng rằng không phải hảo hán, thì chắc hảo hán phải là một thứ gì ghê gớm, tốt lành, tuyệt vời lắm chăng.

Từ độ lớn lên, chung quanh chẳng còn nghe ai nói, ngay cả mẹ tôi cũng không dùng mấy chữ ấy. Có phải vì sau nầy chúng tôi hết phá phách, hết nghịch ngợm không còn làm những điều đáng bị đánh đòn nữa, hay là chúng tôi đã trở thành hảo hán dưới mắt người mẹ. Giá bà cụ còn sống thì sẽ bị tôi đưa câu chuyện ra để hạch hỏi, cũng chưa chắc mẹ tôi đã trả lời được với những câu vặn vẹo “lý sự cùn” của tôi.

Sáng nay lúc xe đến Vạn Lý Trường Thành, trên xe toàn ngoại nhân, chỉ có tôi là Á Ðông, là người Việt Nam, ngoài hai ông tài xế và chú hướng đạo. Tôi cũng là ngoại nhân, tuy cùng mầu da vàng, ngoài ra chẳng thấy có gì giống nhau với các chú Tàu nầy. Nhờ có học Hán ngữ ngày còn sống ở Pháp và vẫn tiếp tục nuôi dưỡng nó, nên hôm nay mới có thể đọc được mấy chữ khá lớn, kẽ lên một tấm bảng to, trước khi xe vào đổ bến dưới chân Trường Thành.

Mấy chữ “Bất Đáo Trường Thành Phi Hảo Hán” nầy làm tôi buồn cười, nhất là riêng ba chữ phi hảo hán. Chợt nghĩ đến người mẹ, lúc nào cũng dạy các con bằng những câu, những chữ mà lắm khi chẳng hề biết đến xuất xứ.

Nếu còn mẹ thì lúc về điều trước nhất là chạy đi tìm để khoe rằng bây giờ tôi thật quả là hảo hán rồi đó. Mục đích của cuộc viễn du nầy đã được ghi từ lâu vào trong chương trình mà mãi đến hôm nay mới có thể thực hiện. Hôm nay ai làm gì thì làm, đi đâu thì đi, riêng phần tôi đã nhất quyết sang sang Bắc Kinh, đáo Trường Thành để thăm người bạn.

Bảo rằng bạn, dùng chữ nầy liệu có đúng, đã có mấy lần nằm mơ thấy ông ta đến thăm, từ độ còn ở Pháp, hôm nay đến phiên tôi đi gặp ngài, gọi là đáp lễ. Bạn tôi là tướng Mông Điềm, nói ngay cho mọi người khỏi thắc mắc.

Tính theo ngày tháng của nhà Phật, một trăm năm cõi trần chỉ là một ngày của cung trời Đao Lợi, nếu tính theo cung trời Đâu Suất lại càng ít hơn, hình như phải đến ba trăm năm. Hôm nay, nếu chỉ tính theo ngày tháng của trời Đao Lợi thì tướng Mông Điềm mới chết chưa có bao lâu, một tháng hơn là nhiều.

Tôi sẽ mang mấy điểm thắc mắc ra chất vấn, may ra có giải ưu được một phần nào, những gì đang ngày đêm quằn quại trong tâm tư của nhiều người, nhất là người dân Việt chúng ta.

Xe đổ xuống bến, người “gít” (guide) là một chú “chệt” trẻ, biết nói tiếng Anh dáng dấp lịch sự, từ cách ăn mặc đi đứng, đến lối xử dụng ngoại ngữ khá thông suốt, ít thổ âm. Đây chắc phải là một trong những vị con ông cháu cha, nếu không là mật vụ chính cống mới được vào chức vị nầy. Đâu phải bất cứ ai muốn làm “Gít” là được phép hành nghề ngay, khi tưởng rằng mình có biết thông thạo một thứ ngoại ngữ. Nào phải dễ, hầu hết trên các nước cộng sản đều như thế, huống hồ nơi đây là xứ Trung Hoa, xứ của Mao xếnh xáng và nàng Giang Thanh, xứ đã từng phát minh ra những tên người máy, hồng vệ binh, đánh dân mình không nương tay, nhìn người chết không xót xa.

Xuống xe, người “gít” dặn: “Quý vị đi đâu thì cứ đúng năm giờ chúng ta gặp nhau ở đây”.

Vạn Lý Trường Thành, sự thực thì cũng chẳng xa Kinh Đô Bắc Kinh là bao nhiêu, xe chỉ đi vào lối hơn một giờ, sáng nay vì có đến viếng ngôi mộ của vua nhà Minh nên mới kéo dài thời gian. Lại có một bữa cơm trưa thật dở, chẳng đáng nửa đồng tiền Trung Hoa chứ không phải nửa đồng Mỹ kim đâu. Tôi nói với các bạn đồng hành, giá hồi Tổng Thống Nixon sang mà cho ăn như thế nầy thì chắc chúng ta không có ngày hôm nay. Mọi người cùng đồng ý.

Toàn một lũ quen ăn ngon mặc đẹp ở những nước tự do, thế mà hôm nay đến đây bị người ta xem như thứ ốm đói, cho ăn gì thì chỉ biết nhắm mắt nuốt vậy. Nhưng thôi, mục đích của những chuyến đi nầy đâu phải để ăn, vả lại, có thiếu gì hiệu ăn đang chờ ở ngoài phố.

Trước khi nói đến cái Trường Thành nầy phải nói đến chuyến đi của tôi. Chẳng có gì lạ, nhân có đôi bạn khá thân ở Hồng Kông, vợ chồng ông Staedtler, làm giám đốc cái Trung Tâm Văn Hóa Đức. Mỗi lần thư từ họ hay khoe chuyện đi chơi Trung Cộng, đi viếng bao nhiêu nơi, ông chồng còn được mời thường xuyên sang dạy về môn triết cho nhiều đại học ở xứ của các chú chệt ấy. Họ hỏi tôi có muốn đi thì sẽ tổ chức cho mà đi, chỉ gửi tiền sang là thực hiện ngay.

Tưởng họ sẽ tổ chức cho đi như thế nào, không ngờ họ ỷ rằng tôi biết đọc biết viết, tức là phải biết ăn, biết nói. Thế thì ta tổ chức bắt đi “lẻ loi một mình” cho nó biết thân.

Khi đến Hồng Kông, nhận được một phong bì dày cộm với mấy chục cái vé máy bay, phòng trọ giữ sẵn, và chương trình di chuyển ngày nào phải đi chuyến máy bay nào, ở phòng trọ nào… Eo ôi, quý vị hại tôi chi lắm, tôi hét lên phản kháng dậm chân kêu trời.

-Quý vị tưởng tôi còn chân cứng đá mềm như ngày xưa hay sao. Phải cho con người ta được quyền già nua, bệnh hoạn chứ, làm sao tôi có thể đối phó với bao nhiêu nỗi khó khăn đây.

Nói gì cũng đã lỡ, thôi thì đành nhắm mắt đưa chân, xem như ván đã đóng thuyền. Điểm cần biết nhất, tưởng nên khai ra đây để cho những ai rủi bị đặt vào hoàn cảnh của tôi hôm nay, mặc dầu có hằng triệu người đã đi trước, nhưng sao chẳng mấy khi được nghe ai nói đến những nỗi khó khăn vất vả. Hẳn vì người ta đi từng phái đoàn, nào tiền hô, hậu ủng, ngày đêm lúc nào cũng có ban tổ chức lo lắng, hướng dẫn.

Điểm quan trọng cần phải biết nhất, là dầu cho vé máy bay đã được giữ chỗ xong cả rồi, nhưng khi vừa đến một nơi nào, cũng vẫn phải lo chạy đi giữ chỗ lại một lần nữa mới đủ chắc, trước khi đi chơi đâu, nếu không thì không có chỗ và “Cái nị rán mà chịu lớ, ngộ không piết đau lớ…”

Sự kiện nghe qua chẳng có gì khó nhất là khi chúng ta quen sống trên một xứ tự do, nhưng trên thực tế nó đa đoan phiền phức vô cùng, mình đã không giàu, lại không phải là dân bản xứ để biết đường biết lối Trước hết là vấn đề di chuyển, làm sao đón tắc xi, đây gọi là “xi xơ” tức là khí xa vì không thể có phương tiện nào khác hơn. Vẫn có, nhưng phải dành cho người bản xứ mới đủ hiểu biết các ngõ ngách, mình là thứ ngoại nhân mới vừa đến, có biết gì mà cũng chẳng quen ai.

Người đâu mà nghi ngút, chen chúc xô đẩy, bản xứ quá nhiều mà ngoại nhân cũng không thiếu. Nơi nào cũng thấy từng đoàn người nối đuôi nhau chờ đợi. Tất cả đều đi làm cái công việc tôi vừa nói trên, tức là đi giữ chỗ máy bay. Sau khi đứng đợi cả giờ, để rồi lúc đến phiên mình thì được nghe một giọng lanh lảnh rằng rằng: “Pu sư…” Nếu ở một quày khác còn đỡ, lắm lúc văn phòng của hãng máy bay nầy lại được thiết ngay trong một khách sạn. Thế là, lại trèo lên tắc xi đi nữa, ngoại nhân thường phải giữ tắc xi, các chú lo đi giao dịch hộ cho, cố nhiên là đến lúc về trả tiền bằng thích. Sự bực mình lên đến độ không còn chữ để tả, thảo nào mà có nhiều người lúc bực tức quá đã thốt ra những câu nặng nề.

Chưa hết đâu, còn cả trăm, cả nghìn sự bực mình nho nhỏ khác, có khi cũng chẳng nhỏ đâu, nhất là vấn đề tiền tệ. Có hai thứ tiền như nơi nào có người Hoa Kỳ là xứ ấy phải đặt ra hai thứ tiền như thế chăng. Một thứ tiền dành cho người bản xứ, và một thứ dành cho “dương quỷ tử”, tức là lũ ngoại nhân mang đồng đô la xanh đổ vào cho Thiên Triều Trung Quốc. Vấn đề nầy thôi để gác lại vào một khi khác, hơn nữa, nó cũng là một vấn đề mà hẳn tất cả mọi người đều đã gặp. Mục đích của tôi hôm nay không phải để than thở, kể lể những bực dọc mà để nói câu chuyện “Đáo Trường Thành”, đến thăm ông tướng Mông Điềm, người bạn vong cả hai nghìn niên của tôi.

Sau khi nghe tên hướng dẫn dặn dò, chúng tôi chia tay mỗi đứa đi một nơi, và tôi đã bỏ hết mọi người đi lang thang một mình, tìm ông bạn.

Người đông chen chúc, toàn là hảo hán cả chăng. Tôi đứng trên cao, nhìn bên đông, nhìn bên tây, muốn nhận xe nơi nào là biên giới phía Hung Nô.

Sau khi đi một lúc, tìm được một chỗ, tựa vào thành ngồi nghỉ chân, nơi nầy tôi có thể phóng tầm nhìn khắp gần xa. Tôi vừa ngồi là tướng Mông Điềm đến ngay, câu hỏi thứ nhất mang giọng hơi trách móc.

– Sao mãi bây giờ mới chịu đến thăm nhau.

Tôi trả lời ngắn ngủi, tin rằng nó hàm đủ ý nghĩa.

-Nhất ẩm, nhất trác giai do “tiền” định (một cuộc ăn uống – ẩm là uống mà trác là ăn, (cách ăn như chim mổ), cũng phải được tiền định.

Tướng Mông Điềm hỏi thăm tôi về tình hình Việt Nam, ngày giờ nầy ray sao? Người trần, tôi đâu có thể biết hơn ngài được, chẳng qua đây chỉ là một vài câu đối thoại giáo đầu để làm bớt sự ngỡ ngàng của buổi sơ kiến đó chăng, biết vậy, tôi vẫn phải trả lời cho đủ lễ.

-Kiệt quệ đủ mọi mặt. Nhưng tôi đến đây còn có một vài thắc mắc muốn hỏi tướng công, vì thế mới phải cất công, vượt bao nhiêu gian nan.

-Thế à, vậy thì cứ hỏi đi.

-Tôi muốn hỏi sao độ ấy tướng công u mê thế. Nhận được lệnh bảo chết mà cũng ngoan ngoãn thi hành à, lý trí để đâu.

Tướng Mông Điềm trợn mắt nhìn tôi ngập ngừng một lúc lâu, hẳn đời ông ta chưa bao giờ gặp người bạo mồm bạo miệng như tôi. Dám chê một vị tướng đã từng trấn thủ biên cương, uy chấn Hung Nô là u mê.

– Quân xử thần bất tử bất trung (Vua xử tội bắt chết, thần phải theo, nếu không là bất trung).

Tướng Mông Điềm miễn cưỡng trả lời, tôi lắc đầu không đồng ý.

-Thế tướng công không chút nghi ngờ rằng đó chỉ là một tờ kiểu chiếu của Triệu Cao hay sao? Tướng công cũng biết, tên Triệu Cao mưu mô thủ đoạn, lại chỉ là một thứ gián quan, nhờ những hành động luồn lọt gian ngoan mà được lên đến địa vị ấy thì nào có giá trị gì?

Tướng Mông Điềm quắc mắt nhìn tôi, giọng dữ dằn hơn ban nãy.

-Thế bà quên rằng lúc ấy có Thừa Tướng Lý Tư cùng đi với Triệu Cao hay sao, vì thế chúng tôi mới bị mắc mưu. Ngay đến Lý Tư rồi cũng phải vào tròng. Hai tên ấy mưu mô để giết cả Phù Tô là người cương trực lại có nhiều lòng nhân. Phù Tô đã từng can gián Phụ Hoàng khi ông chôn các học sĩ và đốt sách. Nếu để Phù Tô lên nối ngôi, ông nầy là con trưởng, tất nhiên, chỗ đứng của Triệu Cao sẽ không còn và chắc chắn là đến cả cái mệnh vận của dòng họ nhà hắn cũng không còn. Chính vì ý kiến của tên Triệu Cao mà Tần Thủy Hoàng mới nổi cơn đại nộ, khi nghe Phù Tô cực lực can gián. Cái chết của các bậc vua chúa, Quốc Trưởng hầu hết đều chỉ vì bị những lời xúi dục của lũ nịnh thần, mà chúng thì toàn là những kẻ hiểm độc, bao giờ cũng có nhiều mưu chước.

– Tại sao lại đặt tên là Phù Tô? Nếu là đứa con trưởng, đứa con mà mình biết sẽ nối dõi. Tôi ư? tôi sẽ chọn một cái tên, cũng sẽ lấy từ Lục Thao của Thái Công Binh Pháp ra mà đặt cho con, chứ Phù Tô chỉ là phù trợ nhỏ nhoi, Phù Tô là Phù Tư, khí giới của khin xa, những cổ xe nhẹ mà thôi, phải vậy không thưa tướng công?

– Cô biết gì nhiều không mà dám nói?

– Không biết nhiều thì biết ít, mà ít nhất cũng đã có đọc Lục Thao và trong thiên Hổ Thao có câu: “Vũ Dực, Đại Lỗ, Mâu Kích, Phù Tư, thất thập nhị cự..” Mà Phù Tư với Phù Tô là một, đúng không?

– Bây giờ đến phần tôi thắc mắc đặt câu hỏi.

– Tướng công có gì thắc mắc? Xin cứ hỏi, nếu trả lời được sẽ xin trả lời ngay.

– Tại sao tò mò dữ vậy. Quân sự là vấn đề của nam giới chúng tôi kia mà, đàn bà chỉ nên…

Không để tướng Mông Điềm nói hết câu, tôi cắt lời ngay:

– Xin lỗi, tướng công sống từ đời nhà Tần, trên 2000 năm rồi. Thời buổi bây giờ thay đổi khác hẳn, vả lại gặp sách hay, sách đáng đọc, thì phải đọc chứ có hại ai. Nếu tướng công biết ngày nay ở West Point, trường quân sự xứ Hoa Kỳ hiện tại, còn có cả con gái Việt-nam vào học, và hẳn tướng công đã nghe danh hai vị nữ tướng Trưng Trắc và Trưng Nhị của Việt-nam chúng tôi đấy chứ.

– Trưng Trắc, Trưng Nhị…

Nghe giọng nói ngập ngừng nhắc lại, tôi thấy mình cần phải soi tỏ vấn đề, để khỏi có sự thắc mắc về sau.

– Vâng, chúng tôi gọi hai bà là Trưng Nữ Vương, hai nữ tướng đã từng bắt Tô Định phải bỏ thành Luy Lâu mà chạy, chỉ trong vòng một năm mà hai bà đã thâu được 65 thành ở cõi Lĩnh Nam.

– Những người ở vùng Quảng Đông và Quảng Tây vẫn dành bảo là của họ đấy, bà cũng biết chứ?

– Tôi biết, họ gọi Hai Bà là những nữ tặc, Trưng Thị, Triệu Thị…Nhưng xin tướng công nhớ cho là ngày xưa, nước Việt chúng tôi phía Bắc giáp tới Động Đình Hồ…Tuy nói vậy chứ ngày giờ này nếu có người mang Lưỡng Quảng mà trả lại chắc chúng tôi cũng chẳng ham, chẳng nhận đâu.

– Chúng ta đổi vấn đề thảo luận chăng, lâu lắm không gặp, đến lúc gặp lại đưa những hận thù cũ ra nhắc lại.

– Tôi đồng ý nhưng xin tướng công nhớ rằng thời ấy người Việt chúng tôi đã tiếp tay cho Hán Cao Tổ rất nhiều trong việc đánh dẹp nhà Tần đấy nhé.

– Con người nầy cũng lì lắm nhỉ!

– Con cháu của bà Trưng bà Triệu mà.

Nói xong tôi vội ngừng, quả thật ở đời không nên gây xáo trộn, cũng như tránh sự chuốc thêm oán thù, chuyện đâu còn có đó, tôi đổi vấn đề.

-Tôi còn muốn hỏi tướng công một vài điều nữa, một là về cây đàn tranh, hai là cây bút. Có người bảo rằng chính tướng công đã chế ra cây đàn ấy chứ chuyện hai chị em giật cây đàn Sắt để ra thành cây đàn tranh là vô lý, nhưng có người lại bảo rằng… Tranh là đàn có từ đời nhà Tần, người đời nghĩ rằng do Mông Điềm tạo ra. Nếu xét cái phẩm của của nó, bên trên cong như vòm trời, bên dưới phẳng như mặt đất ở giữa trống rỗng hoài lục hợp, dây đàn tượng cho mười hai tháng, thiết ra là tứ tượng tại đó, vỗ lên là ngũ âm phát ra, một vật phẩm hội được cả vừa đức Nhân lại vừa đức Trí “Khởi Mông Điềm, vong quốc chi thần, năng chi tai ” (Mông Điềm là thứ thần mất nước mà có thể tạo ra được sao).

Câu cuối tôi cố đọc nguyên Hán văn, để nhìn xem sắc mặt ông tướng có thay đổi, tôi lại hỏi tiếp.

– Tướng công nghĩ sao về những lời bình trong Đỗ Thị Thông Điển nầy?

Tướng Mông Điềm thở dài, trầm ngâm nhìn đoàn người lũ lượt lên xuống, một lúc mới lắc đầu nói giọng thật trầm, chậm rãi.

– Người ta nói thì mình đành chịu chứ biết sao, nhất là khi đã thành âm dương cách biệt. Có thể bảo rằng tại trấn ở cái vùng xa xôi hẻo lánh nầy, nếu không có cây đàn thì làm gì mỗi khi rảnh rỗi, nhớ nhà, nhất là, bà cũng biết ngày xưa cách hàng nghìn năm trước cảnh vật đâu phải như ngày nay. Có thể nói một điều, tôi đã sửa chữa từ nặng nề đổi thành nhẹ nhàng hơn, cho dễ di động mỗi khi có cuộc hành quân, bảo rằng tôi tạo ra hoàn toàn cũng không đúng hẳn. Nó là biến thể từ cây đàn Sắt… Chắc bà đã nghe nói đến Hoàng Đế một hôm ngài buồn, lệnh mời Tố Nữ bảo tấu một khúc đàn cho khuây, bà nầy tấu khúc Bạch Tuyết làm cho ngài càng buồn hơn. Nghệ sĩ đang lúc cao hứng không chịu ngừng mặc dầu đã được lệnh, ngài giận quá đã đập đàn vỡ đôi. Từ đó cây đàn sắt chỉ còn có 25 giây, trước đàn Sắt có những 50 giây.

Thấy ông tướng có vẻ không vui, tôi tìm lời an ủi.

– Dầu sao tên tuổi của tướng công cũng đã được vào sử xanh một cách vẻ vang, tướng công có muốn nghe tôi đọc ngay cho mà nghe: “Mông Điềm, tướng của Tần Thủy Hoàng, gốc người nước Tề, đã cầm ba chục vạn quân về phía Bắc, dẹp được Nhung Địch, từ Hoàng Hà đến Na Lĩnh, đánh các châu địa, tu chỉnh Vạn Lý Trường Thành từ Lâm Thao đến Chiêu Đông… mười năm sống nơi biên ải..”

Tướng Mông Điềm ngơ ngác nhìn tôi hỏi giọng ngạc nhiên.

– Sao học đâu mà thuộc lòng nhớ hay vậy?

– Tại tôi nghiên cứu về cây đàn tranh nên phải biết, đã hết đâu, còn cây bút nữa, tướng công quả thật là văn vũ toàn tài…

Tướng Mông Điềm nghe tôi nói đến đây, cắn môi lắc đầu.

– Văn vũ mà làm gì, rồi cũng bị bức tử.

– Tướng công có tin rằng mỗi con người đều có cái phần số, cái vận mệnh của mình, những gì đã do mình tạo nên từ mấy kiếp trước?

– Cũng tin, nhất là bây giờ, sau khi đã trải qua bao nhiêu thử thách, nhưng tôi muốn biết mục đích của bà sang đây để làm gì? Các chính trị gia sang để tìm đường lối, xin nâng đỡ, xin chức quyền, xin viện trợ, hỗ trợ. Ông nào cũng tiu nghỉu trở về vì thiếu tiền, bản quốc làm gì có thừa tiền mà viện trợ cho ai, tự nuôi lấy dân mình còn vất vả. Mà chẳng kiếm ra đủ tiền nuôi quân thì cũng vô ích. Lấy quân lính, lấy khí giới đâu mà tính chuyện đánh ai.

– Tôi sang đây để gặp tướng công, chỉ có mỗi mục đích nầy là chính, hôm nay gặp nhau đây, coi như đã đạt được. Ngoài ra, có thể còn một số vấn đề thắc mắc, cần xin ý kiến của tướng công. Người ta vẫn hỏi tôi, tại sao người cộng sản ác dữ vậy. Ai cũng nghĩ rằng dân tộc Á Đông với cái khối gia tài triết lý của người xưa để lại thì sẽ không bao giờ có thể làm thay đổi. Khi nghe báo cáo những công trình của bà Giang Thanh với đạo Hồng Vệ Binh độc địa, độc ngay cả với chính những người thân ruột của mình, tướng công trả lời sao.

– Tôi biết những câu hỏi của bà rồi, gặp Sihanouk thì bà lên đặt câu hỏi trước tất cả mọi người rằng, nếu bà Jackie Kennedy tái giá thì Đức Ông nghĩ sao? Gặp nhà văn Pakin thì hỏi, sao Mao chủ tịch là bậc lãnh tụ anh minh, thương dân thương nước, mà nỡ để cho Tứ Nhân Bang lộng hành, ác độc làm khổ dân quá vậy?

– Ô hay sao tướng công biết, tại hôm ấy nghe ông vua Sihanouk ca tụng cố tổng thống Kennedy quá, mà miền Nam chúng tôi lại chẳng có bang giao, tôi nói dối là buôn bán để xin lên Nam Vang nhân cuộc họp báo đầu tiên sau bao nhiêu năm đóng cửa của ông vua ấy.

– Thế mà người ta cũng cho bà đi họp báo à, họ còn tốt đấy, gặp mấy ngài cộng sản là bà vào tù rồi.

– Thì cũng cầu may, chắc họ nghĩ rằng tôi chỉ là thứ đàn bà, phụ nhân nan hóa cũng như các đồng bào hay ngay tướng công cũng đã nghĩ. Họ cho tôi đến họp báo mà còn xúi bảo tôi ngày mai bà cứ lên chất vấn đặt câu hỏi với “Monseigneur”, không sao đâu. Thế thì sợ ai mà tôi không lên đặt câu hỏi. Cố nhiên, tôi cũng đã phải suy nghĩ trước nên hỏi những câu nào cho người ta đừng chê báo chí mình yếu kém, và nhất là chê đàn bà u mê, chỉ biết ăn diện… Hơn nữa, sau khi nghe Đức Ông ca tụng cố Tổng Thống Kennedy quá cỡ, thì câu hỏi của tôi chỉ có ý nói rằng: Được làm vợ một vĩ nhân, nhưng bà ta chỉ là “người” chứ nào phải thần thánh gì, mà bắt phải chịu cảnh góa bụa cô đơn như thế thì ngài có thấy là đáng thương không, theo ngài thì sao? Mục đích của tôi lúc hỏi chỉ có thế.

– Rồi Đức Ông trả lời sao?

-Tôi vừa hỏi xong, tại lũ báo chí nó đập bàn đập ghế vỗ tay la hét om sòm, chưa kể là sau đó, câu hỏi được đánh điện về khắp nơi, cố nhiên, nó đã làm cho Đức Ông đâm ra lúng túng, ngài chẳng biết phải trả lời như thế nào cho hợp tình hợp cảnh. Thế là ngài tự ý thay đổi chương trình không cho nhà báo lên hỏi nữa, ngài tự trả lời, xem như đây là tất cả điều mà quý vị muốn biết, quý vị sẽ hỏi.

– Thế là vô tình bà đã hại anh em rồi chứ gì.

– Tôi đâu có cố tình, mà tướng công có nhận thấy câu hỏi của tôi rất vô tư không, nếu tướng công còn ở đời, rồi trong một cuộc họp báo nào đó, gặp tôi thì cũng vậy, cũng sẽ được tôi hỏi những câu rất xây dựng và rất không có ác ý tí nào.

– Bà nói thế thì với câu hỏi trong cuộc họp báo của nhà văn Pakin ở Paris thì sao, cũng vẫn tự cho rằng mình không có ác ý?

– Không, tại hôm ấy người ta đặt toàn những câu hỏi u mê quá, mà nhà văn cũng than sự bị Tứ Nhân Bang hành hạ đủ mọi điều, chịu không nổi, nên tôi hỏi để thay đổi. Câu hỏi cũng bị một sự la lối đập bàn đập ghế om sòm và sau đó tôi được bao nhiêu người đến bắt tay. Họ cho rằng mãi bây giờ mới có một câu hỏi vừa ý.

– Rồi nhà văn Pakin trả lời như thế nào?

– Nhà văn ầm ừ một lúc, nói lúng túng rằng tại nị ở ngoài xứ, không biết nhiều… và sau đó, người ta tuyên bố không cho hỏi nữa, lý do vì nhà văn đã cảm thấy mệt, cần phải trở về nằm nghỉ.

– Lại hại anh em một lần nữa, nhưng theo bà vừa nói thì thế nào là một câu hỏi u mê?

– Người ta hỏi về sự ăn uống, có đàn bà làm báo ở xứ Trung quốc hay không… Tôi cho là vô bổ, với một nhân vật như thế, một nhà văn lớn như thế…

– Phải rồi, và sau những câu hỏi của bà là chẳng ai còn được lên hỏi nữa chứ gì, người ta sợ phải gặp những loại ký giả ác ôn móc họng như bà đó thôi. Thảo nào mà mấy ông lớn thường hay tránh không muốn gặp báo chí, phải bản lĩnh lắm…

Tôi lắc đầu không đồng ý, tự thấy mình hiền lành chẳng bao giờ muốn phá ai, bao giờ cũng chỉ muốn làm sáng vấn đề. Các bạn tôi đặt cho cái biệt hiệu là “petit soldat” (tên lính nhỏ) mỗi khi đi đâu mà chúng thấy có tôi là chúng đến bắt tay hỏi thăm trước, xem hôm nay tên lính nhỏ có lên lên tiếng hỏi han gì không. Nhưng tôi chỉ nhúc nhích lúc nào thật cần chứ lệ thường, ở ngoài cuộc đời tôi vẫn là thứ đuổi ruồi không thèm bay. Thấy hơi phí thì giờ vì những vấn đề không quan hệ tôi vội nhắc ông tướng.

– Tướng công chưa trả lời tôi.

– Ừ nhỉ, bà hỏi sao người Á Đông ác.

– Không phải cá nhân tôi hỏi, mà đây là một câu hỏi thắc mắc của ngoại nhân, mỗi khi người ta gặp tôi.

– Người Á Đông làm gì cũng tinh vi, thì sự độc ác cũng phải tinh vi chứ sao. Hẳn bà còn nhớ tên Triệu Cao. Tần Thủy Hoàng chết rồi mà hắn không cho tin ấy ra, sợ quân thần, sợ chúng tôi biết. Hắn đã làm những điều kinh khủng để che dấu, thí dụ như cho xe chở cá thối đi theo để mọi người không nghe mùi hôi lạ… Tại hắn mà nhà Tần mất. Tần Thủy Hoàng quá nghe lời sàm tấu nên mới làm thất nhân tâm đi đến chỗ bị tiêu diệt. Đây là một bài học cho người sau, chỉ tiếc rằng người sau không bao giờ chịu học. Khi đã nắm được địa vị trong tay thì chỉ còn biết nhắm mắt hưởng thụ, không nghĩ đến sự thương dân thương nước gì nữa. Để phó mặc cho một lũ gian nịnh thần lộng hành. Lịch sử đã chứng minh cả trăm nghìn lần.

– Theo tướng công, nếu vậy thì làm sao để cứu chữa cái tệ đoan ấy.

– Một vị lãnh tụ cần phải có kiến thức, phải có đức độ. Phải biết nhận xét ai là thiện tri thức, ai là người hiền, người có đủ sự hiểu biết, có tài, trí, đức. Không bao giờ nên nghe lời nịnh hót, ca ngợi dưới bất cứ một hình thức nào. Không cho phép gia đình, bà con mình và bà con vợ mình ra để gánh vác, nếu xét người ấy thiếu khả năng. Không hiếu sắc, những tên hiếu sắc là vứt đi, phải đặt chữ Đức trên chữ Sắc, nhưng tôi không tin rằng bà sang đây chỉ để gặp tôi mà thôi, bà phải còn mục đích gì khác nữa.

– Cũng có, tôi muốn cố lùng mua mấy quyển sách, nếu ở đây không tìm thấy thì phải sang Hồng Kông.

– Sách loại gì mà dữ vậy.

– Loại cổ Thiên Văn, sách về Địa Lý thì quá nhiều, dễ kiếm mà sách về Thiên văn thật khó. Ngay cả những hiệu bán sách chuyên môn cũng không tìm thấy.

– Đó là hai môn học để làm “Đế Vương chi Sư” (làm thầy nhà vua). Tần Thủy Hoàng đốt sách đã làm mất đi khá nhiều, thật đáng tiếc. Mà nếu chỉ nói đến Tần Thủy Hoàng không cũng chưa đúng, người sau mỗi khi mở một cuộc chiến là tiêu diệt, thiêu hủy biết bao nhiêu thư viện, biết bao nhiêu là pho sách quý, mà chỉ vì sự u mê cuồng loạn của một số người, đã biến ra thành tro bụi. Tội nghiệp, hận nào bằng.

– Thế tướng công có bao giờ tiếc cái công trình xây đắp của mình không?

– Chẳng nên tiếc, ngày nay nhờ đó mà mọi người còn có chỗ đến du ngoạn. Vả lại chỉ mình bức trường thành nầy là các phi hành gia ở trên không gian có thể nhìn xuống mà trông thấy. Những cơ sở ngụy tạo khác dầu là Kim Tự Tháp hay Empire State Building, hay gì gì đi nữa cũng bị mù mịt khói sương che, chẳng ai nhìn thấy.

– Mỗi viên đá ở đây là một mạng sống để xây đắp nên cái Vạn Lý Trường Thành nầy, có phải vậy không?

– Người sinh ra không chết trước cũng chết sau, bà cứ thử nhìn xem những nơi nào có sự hy sinh xương máu của người trước thì người sau mới lấy đó mà gây cơ đồ, sống nhờ vào đấy. Trái lại, những nơi nào bằng phẳng quá thì nơi ấy chẳng có gì để lôi cuốn du khách. Ai không tin cứ nhìn ra thế giới sẽ thấy, điển hình là Pompeii, sau trận đá núi lửa đổ xuống đầu dân chúng vào năm 79, mấy chục nghìn người bị chết ngạt, ngay cả cái nhà ông Pline, bố nhà văn La Tinh, vì muốn nhìn gần mà cũng bị ngạt thở đến chết. Khổ nào nói cho hết thế mà đấy, ngày giờ nầy du khách kéo đến đông đảo, người nào chưa đặt chân đến là có cảm tưởng thua chúng kém bạn. Ở Âu Châu nơi nào có dấu ngựa của quân La Mã tràn tới thì ngày nay tấp nập ngựa xe. Dân chúng trong vùng tha hồ mà mua bán, mà kêu gọi du khách. Và, như bà đã biết, mỗi một đoàn quân đi đến đâu là gây ra bao nhiêu tang tóc, rồi những cái Kim Tự Tháp ở Ai Cập hay Mễ Tây Cơ cũng vậy, rồi các đền đài cung điện.. Tuy chưa đến nổi như bà vừa nói, mỗi viên gạch một mạng người, nhưng cũng đòi hỏi sự đóng góp sưu cao thuế nặng bắt dân phải chịu, làm kiệt quệ tài lực.

Nghe đến đây bắt tôi chợt nhớ đến cái Cô Tô đài của Ngô Vương xây cho nàng Tây Thi, tôi đặt ngay một câu hỏi rất xa câu chuyện đang nói.

– Tướng công nghĩ gì về Phạm Lãi.

– Một thiên tài, một nhà tiên tri, biết Việt Vương Câu Tiễn có hai tướng xấu mà khi Việt bị Ngô đánh bại, đã một lòng cương quyết, trung thành, hành động xứng danh quân tử, để đưa nước Việt trở lại vinh quang rửa được cái nhục chiến bại, để rồi sau khi công thành là thân thối, dầu Việt Vương có hăm dọa, vẫn ra đi, không thèm ở lại hưởng lộc.

– … và cũng để rồi đi uống trà trên Ngũ Hồ, có phải vậy không?

– Ừ, nói đến uống trà, tiếc rằng chúng ta gặp nhau hôm nay, ngay trên bức Trường Thành, tôi không có hoàn cảnh đãi tri kỷ một chén trà. Hẹn nhau một nơi khác vậy.

– Tướng công có dịp sang Hoa Kỳ xin mời đến Ngô Trúc, tệ xá, sẽ có đủ các thứ từ Bạch Trà, đến Thanh Trà, Hồng Trà…

– Bao giờ bà trở lại cái đất tạm cư ấy?

– Chắc không lâu, nhưng tôi còn phải ghé lại Hồng Kông thăm các bạn và đi lùng mua ít sách về Thiên Văn như tôi vừa thưa với tướng công.

– Hơi khó kiếm đấy, chỉ một vài chương xen kẽ, chứ riêng về Thiên Văn chưa chắc đã tìm ra.

– Lý do vì sao?

– Ngày xưa bắt đầu từ thời Đường, Tống, môn nầy bị cấm. Ai thù hận ai, chỉ cần đi báo với quan sở tại rằng người ấy đêm nào cũng ra sân sau, ngước mặt lên trời, như có ý theo dõi các vì sao. Thế là chẳng cần điều tra hạch hỏi, quan cứ việc cho lính đến trói giam vì tội tiềm đồ phản nghịch muốn tìm hiểu thiên cơ để mưu cầu sự lật đổ.

– Xem chừng cũng chẳng khác gì dưới Mao đại nhỉ?.

– Chẳng có gì mới lạ, đại nào cũng thế thôi, dưới ánh mặt trời… bà biết câu châm ngôn Pháp quốc ấy chứ.

– Tướng công nghĩ gì về sự đắc cử của đảng Cộng Hòa tại Hoa Kỳ vừa rồi, chắc tướng công có theo dõi báo chí chứ.

Tướng Mông Điềm gật đầu nói giọng vui vẻ.

– Hẳn bà đang nghĩ rằng tôi sẽ bảo là nhờ một số phiếu của người tị nạn nhà bà, phải vậy không?

Tôi cãi ngay rằng tôi chưa nghĩ đến điều ấy, mà nếu có nghĩ thì cũng không hẳn đã sai.

– Nhưng quý vị nên biết rằng chẳng ai nên đặt hết cả số trứng vào một giỏ. Nếu tôi là người Việt tị nạn khôn ngoan, có uy tín với cộng đồng, thì tôi sẽ đề nghị là, chúng ta hãy đặt tầm nhìn xa hơn, và chia công tác cho đều. Có thể lúc nầy như vậy, nhưng 4 năm sau sẽ có những thay đổi khác thì sao, ai sẽ là người đại diện để ra ăn nói.

Tôi biết rằng tướng Mông Điềm nói không sai lắm, nhưng tôi cứ cãi bướng lấy câu sấm Trạng Trình ra, bắt chước theo các chính trị gia nhà ta, đưa hỏi tướng Mông Điềm.

– “Mã đề, dương cước anh hùng tận”. Theo như câu sấm nầy thì quý vị ấy đã giảng ra rằng, chỉ đến cuối năm Ngọ và năm Mùi, tức thị cộng sản, là những người mà từ trước đến nay vẫn tự xưng mình là anh hùng ấy, sẽ phải tận, và người Việt chúng tôi sẽ kéo nhau về nước, tướng công có tin như thế không?

Tướng Mông Điềm lắc đầu nhìn tôi hơi thoáng chút thương hại chắc trong ý nghĩ ông cho tôi là thứ phụ nhân nan hóa (đàn bà khó dạy) chăng.

Câu chuyện còn có thể kéo dài nhưng thấy xa gần, mọi người đã lũ lượt dẫn dắt, nắm tay nhau đi xuống. Các bạn đồng hành thấy tôi ngồi tựa lưng vào thành, nhìn ra xa, đến hỏi tôi có biết là đã tới giờ rồi không.

Tôi vội vàng giã từ ông bạn, hẹn trở lại ngày mai để còn chất vấn về cây bút, cây đàn và có thể là rất nhiều vấn đề khác nữa.