- 1 - (2)
Chào Hảo Hán.
Tôi giật mình nhận ra giọng nói quen thuộc của cố nhân. Sáng nay ngài có vẻ chải chuốt, tươm tất hơn. Hôm qua chắc là vì hơi vội, khi quân hầu báo tin có viết sũ, khách phương xa đến tìm, nên ngài không kịp chuẩn bị sửa soạn chăng.
– Chào tướng công, nhưng sao ngài gọi tôi là Hảo Hán, tôi là…
– Biết rồi, bà là người Việt Nam, con cháu bà Trưng bà Triệu… Nhưng hôm qua nếu tôi không lầm thì hình như bà có ghi vào sổ tay câu “Bất đáo Trường Thành phi Hảo Hán”. Vậy thì sau khi đáo Trường Thành bà phải là Hảo Hán chứ còn gì nữa.
Tôi gật đầu, cười cho qua vấn đề, chợt nhớ đến một câu nói của một nhân vật nào, không biết ai, tôi mang câu nói ấy ra làm mồi câu chuyện.
– Tướng công có nghe một ý kiến rằng, nếu trong một thời điểm nào đó, mà con số một tỷ người Trung quốc nầy, cùng hẹn nhau, chụm chân nhảy vọt lên một lần, một hai cái thôi, là cả địa cầu rung rinh.
Tướng Mông Điềm mỉm cười, vui thích, ông nói tiếp theo.
– Thế bà không nghe rằng, nếu cả tỷ người Trung Hoa nầy mà cùng nhau mỗi người nhổ một bãi nước bọt, thì thế giới sẽ ngập lụt.
– Nhưng đừng quên rằng chính quý vị sẽ điên đảo bì bõm trước, vì nước ấy sẽ cuồn cuộn chảy dưới chân quý vị cơ mà.
Chủ, khách cùng cười vui vẻ, đồng ý sự khai mạc buổi gặp mặt, mở đầu câu chuyện bằng những lời nói đùa như thế, thì cuộc đối thoại tất nhiên sẽ được cởi mở hơn.
– Quên hỏi bà đi bằng xe gì để đáo Trường Thành hôm nay.
– Tôi bị xếp vào cái khách sạn Hoa Kiều, hơi xa và buồn quá. Hôm qua tôi nói với tướng công câu: Nhất ẩm, nhất trác, giai do tiền định. Chữ tiền nầy viết với bộ “kim”, chứ không phải tiền với bộ “đao” đâu nhé. Xin nhớ cho.
– Nhớ rồi, làm nghề viết mướn như quý vị, thì chỉ có chữ tiền là tiền bạc, là đồng Đô La đấy chứ gì. Ngưng bà có thấy là chúng tôi, tuy đọc lên nghe tưởng giống nhau, nhưng khi viết thì rõ ràng, khác hẳn, chữ nào ra chữ ấy. Ngày xưa quý vị có thứ chữ Nôm, thật là độc đáo, phải phục cái nhân vật nào đó đã sáng tạo ra.
– Bảo rằng chỉ có một người mà sáng tạo ra chữ Nôm thì không đúng, chữ Nôm của chúng tôi được sáng chế ra là do nhu cầu cấp bách của thời đại, có những chữ mà Hán ngữ không có, như chữ Ổi, chữ Cù, chữ Ớt… Chúng tôi cũng đã cần mượn đến Lục Thư của quý quốc để mở đầu đấy chứ.
– Hay thật, chẳng kém gì Triều Tiên, Nhật Bản. Bảo rằng mượn Lục thư của chúng tôi, nhưng chúng tôi cũng phải chịu thua, muốn đọc cũng chỉ lõm bõm vài chữ. Đúng là do từ cái tinh thần độc lập, bất khuất, không chịu bị ai chi phối, không muốn lệ thuộc vào ai. Thật đáng khâm phục, đề cao. Cho nên hồi năm Nhâm Tý 1772 khi ông vua trẻ tuổi của quý vị, vua Quang Trung, sau khi đã thắng trận Ngọc Hồi, làm cho tướng nhà Thanh, Sầm Nghi Đống phải thắt cổ tự vẫn. Tôn Sĩ Nghị phải hốt hoảng chạy về mạn Bắc, đến địa phận huyện Phương Nhãn, đã phải vứt bỏ ấn tín để thoát thân…
– Ồ sao tướng công nhớ lịch sử của chúng tôi hay đến thế.
– Thì hôm qua bà đọc lên vanh vách về tướng Mông Điềm, hôm nay bỉ nhân phải trả lễ, phải thuộc bài cho bà chứ.
À ra thế, tôi nghĩ thầm, chắc ông tướng nầy biết rằng ngày mai thế nào tôi cũng còn trở lại, nên đêm qua ông mở sử của Việt Nam xem vài đoạn chăng? Đây là nghề của các nhà ngoại giao, biết trước ngày mai sẽ có khách nào đến thăm là học qua vài đoạn văn, đoạn sử hoặc nhân vật để chứng tỏ sự quan tâm của mình với người ấy, xứ ấy.
– Tướng công đã nói đến vị vua anh hùng áo vải của chúng tôi vì cái chữ Nôm đó không?
– Đúng như thế, tôi muốn nói đến người Anh Hùng Áo Vải Nguyễn Huệ của quý quốc, sau khi vua Càn Long nhà Thanh tấn phong An Nam Quốc Vương xong, Nguyễn Huệ đã hết sức lo chỉnh đốn nước nhà, mà theo thiển ý thì một trong những sáng kiến hay nhất, là sự tổ chức nền học chính và đã trọng dụng chữ Nôm, dự định một nền quốc học thuần túy Việt Nam. Năm Nhâm Tị lại cho sứ thần Võ Văn Dũng sang xin cưới Công Chúa con vua Thanh, đòi lại hai tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây… Đáng tiếc là ông bị chết ngay vào lúc ấy. Đúng là cái vận nước chưa lên.
– Tướng công không giận sao mà ca tụng vị anh hùng áo vải của chúng tôi, lệ thường, tôi vẫn thấy đa số con người không bao giờ chấp nhận cái hay, cái tốt của kẻ thù…
– Điều thứ nhất tôi không thù, mà cũng không phải là đa số con người xin bà nhớ cho, điều thứ hai là chỉ có phường tiểu nhân mới không biết nhận định, chứ quân tử thì dầu bạn hay không bạn, cũng phải biết rõ đâu là thị, đâu là phi, điều gì đáng phục, điều gì đáng chê…
Tôi đứng thừ ra, cảm động, không ngờ lịch sử của nước mình mà có những người, chẳng phải dân, lại nhớ rõ ràng, khen chê đúng đắn, trong khi chính dân xứ mình, lắm kể thật hững hờ, không thèm biết đến. Nhật là sau vụ ra đi… cuộc sống tị nạn giả tạo đã đẻ ra những cái máy ăn, máy nói, máy làm tiền. Không còn biết xúc cảm, không có lịch sử, không có tình tự quê hương đất nước, vì sống trên xứ người, chỉ còn biết vui cái vui mượn của người, ưu tư cái ưu tư vật chất của người…
– Tướng công chắc phải có nhiều thì giờ rỗi rãi để đọc sách, các thứ sách tham khảo trên thế giới, đúng không?
– Sách tham khảo thì được, chứ không có thì giờ để đọc loại sách nhảm nhí đâu. Ngưng khi thấy ai là một nhân tài bất cứ của nước nào mình cũng nên biết qua, nhất lại là một nước láng giềng.
– Tướng công nói đúng, giá Nguyễn Huệ còn sống thêm vài chục năm nữa, thì cục diện chính trị của nước tôi đã không như hôm nay, tôi nghĩ như thế, chẳng biết với người khác thì sao. Đa số con người vẫn hay nhận xét tình hình qua những sự lợi ích của gia đình, hoặc chính cá nhân mình, không mấy ai chịu nhìn đại cuộc.
– Mà có biết câu chuyện chi triều đình Huế làm đơn xin chính phủ Pháp đề nghị để cho một vị vua nào đó được trị vì, hay được một đặc ân gì đó, đơn viết bằng chữ Nôm nên đã bị bác ngay. Người Pháp bắt phải về viết lại bằng chữ Hán. Nói sơ qua để thấy rằng, những kẻ đến đô hộ bao giờ cũng sợ cái tình thần độc lập, cái ý chí bất khuất của một dân tộc, bà biết chứ?
– Mà chữ Nôm đã tiêu biểu cho cái tinh thần ấy, có phải tướng công đã nghĩ như vậy không?
– Chính thế.
– Nhưng ngày nay chúng tôi có thứ chữ dùng gốc chữ La Tinh, cũng khá tiện, chỉ cần học ba tháng là biết đọc, biết viết và…
– Trong cái dở có cái hay, nhưng trong cái hay cũng không thiếu gì điều dở, bà nên nhớ như thế, và hầu như cuộc đời cũng đã bị cái định luật ấy nó chi phối.
– Một sự Tái Ông thất mã, phải không. Nhưng bây giờ, thì ngày cả Trung Hoa của tướng công cũng đang tìm cách chuyển sang gốc chữ La Tinh đấy, tướng công biết mà, ý tướng công như thế nào.
Tướng Mông Điềm lắc đầu, mím môi thở dài, tầm mắt phóng ra thật xa, chắc ông đang chợt nhớ đến cái thời oanh liệt, uy chấn Hung Nô của mình. Tôi nghĩ thầm, nếu bây giờ lại một chút cho ông ta nói, hẳn ngài sẽ vui lắm. Tiếc rằng mục đích đến đây của tôi, đâu phải để nói, và để nghe những chuyện bâng quơ. Mà nếu chỉ nói những câu chuyện khô khan nghiêm trọng mãi cũng mệt. Tôi đưa mắt nhìn hai bên Trường Thành rồi hỏi, cốt để gợi chuyện cho bớt nặng nề.
– Bên nào là địa phận Hung Nô?
Tướng Mông Điềm đưa tay chỉ ra phía xa, rồi quay về phía Trường An, ông thở dài nói khẽ, chẳng biết có muốn cho tôi nghe.
– Tần Thành là nơi mà Chu Hiếu Vương đã phong cho hậu duệ của Bá Ích, ngày nay là tỉnh Cam Túc thuộc huyện Thiên Thủy…
– Chắc tướng công cũng phải có nhiều lúc hối tiếc.
Tướng Mông Điềm quắc mắt quay lại, cái chứng của người hùng, quen thói chỉ huy và hay nổi giận chăng. Tôi đổi hẳn câu chuyện sang hướng khác.
– Hẳn tướng công vẫn nghe nói đến nàng Vương Tường?
Bà muốn nói đến nàng cung phi cùng người nướcTề với tôi đấy chứ gì. Tội nghiệp cô bé đúng là “vị thường khuy môn hộ”, như người ta vẫn nói.
– Là nghĩa gì, chắc muốn nói sự người con gái chưa hề liếc mắt nhìn ra ngoài cửa phải không?
– Đúng, cô ta là con gái của Vương Ngướng, ông nầy vẫn rất tự hào, cho rằng con gái mình khác người, lại thêm có nhan sắc tuyệt vời, ai đến xin cưới cũng lắc đầu chê rằng không xứng, đến năm 17 tuổi, đưa vào làm cung phi cho Hán Nguyên Đế. Để rồi suốt sáu bảy năm không được gặp nhà vua, chỉ vì ông vua nầy có đến hai nhìn cung nhân.
– Sao mà lắm thế, một năm chỉ có 365 ngày đêm.
– Ừ thì vì thế nhà vua mới phải dùng đến một họa sĩ họa chân dung mỗi cô, trình dâng lên để mỗi ngày nhà vua chọn một người. Các cung phi đã không ngoan, biết hối lộ Mao họa sĩ, ông nầy vẽ tăng thêm nhan sắc, ngoại trừ Vương Tường, kiêu hãnh, tự biết mình đẹp không thèm hối lộ. Nhà họa sĩ ghét nên đã vẽ cho xấu đi, nên bị nhà vua không chú ý. Gặp lúc chúa Hung Nô là Đơn Vu gửi sứ sang triều cống hậu cung ra, trước mặt sứ giả, Hán Nguyên Đế hỏi ai muốn làm món quà của nhà vua ân tứ cho chúa Hung Nô. Một khi ra đi sẽ không còn được trở lại. Nàng Chiêu Quân, tức Vương Tường biết ý vua, nên đã cố trang sức thật đẹp, ra trước mặt sứ Hung Nô, cô đã đưa tay xung phong xin ra đi.
Mọi người đều kinh ngạc, ngay cả sứ Hung Nô lẫn Hán Nguyên Đế cũng không ngờ. Lúc bấy giờ nhà vua mới thấy nàng cung nữ nầy vừa kỳ lạ lại có nhan sắc như tiên trên trời. Mà đã trót hứa, đành phải giữ lời, nhà vua tức giận mang tranh ra so sánh và cố nhiên là anh chàng họa sĩ ăn hối lộ đã bị xử tử. Sang đến đất Hồ, chúa Hung Nô đã trên bảy chục tuổi, khi trông thấy nàng cung nữ quá xinh đẹp lại còn trong trắng mà vua Hán đã “ân tứ” cho mình, ngỡ rằng nhà vua phải quý mình lắm. Chúa Hung Nô gửi sang tạ ân lại bằng một đôi Bạch Bích, mười con ngựa quý và rất nhiều châu báu của đất Hồ.
Một năm sau Đơn Vu chết, Thế Đạt là con trai lên làm chúa thế vị, đòi lấy Chiêu Quân theo tục lệ của xứ Hồ, Chiêu Quân vờ ưng thuận nhưng đến ngày làm lễ đã uống thuốc độc tự vẫn. Thật đáng thương, bà thấy không, sự quá đẹp cũng trở thành một cái vạ.
Nghe câu kết hơi bất hợp thời, tôi cảm thấy phải cần minh định lại, giảng cho ông tướng nầy biết rằng thời buổi bây giờ các bà đã bỏ tiền muôn bạc nghìn ra đến viện mổ xẻ để làm cho đẹp hơn, mà nào có tội vạ gì đâu.
– Tướng công có cái nhìn hơi lỗi thời đấy, ngày nay nhan sắc được xem như là một yếu tố thượng thặng cần thiết cho sự nghiệp.
– Sự nghiệp gì vậy?
– Minh tinh, Hoa hậu, làm vợ các quan lớn, và tất cả các văn phòng cơ quan, hãng xưởng, nơi nào người ta cũng chỉ muốn tuyển chọn người đẹp, dầu người xấu có khả năng hơn, đó là quan niệm của thời đại.
– Thế người xấu thì sao? Mang vứt đi à.
– Nhờ các viện thẩm mỹ, nhờ phương pháp dinh dưỡng và thuốc men săn sóc, nhờ cả mấy bác thợ nay, thợ cạo, nên ngày nay hầu như không có người xấu mà chỉ có đẹp nhiều, đẹp ít thôi.
Tướng Mông Điềm gật gù hơi có vẻ thông ra, tôi nói tiếp để “văn hóa” thêm ông ta tí nữa.
– Tướng công không nghe người ta vẫn kể chuyện nếu có hai cô, một cô đẹp và một cô kém đẹp, rơi xuống ao hồ sông bể gì đó, thì người ta vớt cô đẹp lên trước. Tướng công thấy chưa, cái quan niệm…
– Ừ thì đồng ý, người đời nay có quyền nghĩ như vậy, nhưng bà hãy nhìn chung quanh từ cổ chí kim, từ Á sang Âu, chỉ có người đẹp mới hay tự vận, quyên sinh, chứ có mấy khi nghe ai nói người xấu đi tìm cái chết đâu, ngay cả Chung Vô Diệm.
– Ừ nhỉ, cũng có một phần nào như thế, giống như bên xứ Hoa Kỳ chỉ có nhà giàu mới hay xảy ra nhiều vấn đề.
Tôi ngừng, nhận thấy cuộc nói chuyện đang đi đến chỗ vô bổ, chẳng lẽ vượt hằng mấy trăm nghìn dặm đến đây để chỉ nói những câu chuyện vô bổ nầy sao. Còn bao nhiêu là vấn đề quan trọng, ích lợi cần phải thải luận. Chỉ lạ một điều là khi đứng trước hiện tại thì lại quên đầu, quên đuôi, để lúc về đến nhà mới nghĩ ra, mới hối tiếc. À, nhớ rồi, tôi còn phải hỏi về cây bút và cây đàn.
Thấy tôi ngồi yên lặng, tướng Mông Điềm cũng ngừng, đoàn người tiếp tục bấm máy ảnh, cố sức thu hết những hình ảnh để về còn đưa ra khoe với bà con. Tôi chợt nhớ đến Trọng Kim, anh chàng thường chỉ trích tôi cái tội đi đâu không chịu chụp ảnh, trái lại hắn ta thì, đi đâu cũng lè kè, đến nhà tôi, hắn chụp từ cái gốc cây ngọn cỏ.
– Tướng công nghĩ gì về Mao Trạch Đông?
Tướng Mông Điềm mỉm cười rồi lắc đầu thở dài, nói bằng tiếng Hán.
– Kỳ nhân, khẩu vô tì, tu, nam sinh, nữ tướng, hiểm ác, âm mưu, vô anh hùng khí chất.
– Tướng công nói vậy, xin cho phép tôi được tạm dịch là: “Con người mà không có râu mép, râu cằm (râu mép là tì, râu cằm là tu) sinh ra là đàn ông mà tướng đàn bà, là loại người hiểm ác, nhiều âm mưu, không có khí chất của người anh hùng” dịch như vậy có đúng chăng? Tướng công muốn phê ông ta như vậy chứ gì.
Tướng Mông điềm có vẻ đắc ý sự lĩnh hội nhanh chóng của người đối thoại. Tôi được thể, cố ý nói tiếp.
– Tả truyện có ghi câu: “Sở nhân đa trá” mà Mao ông là người nước Sở, phải vì vậy không tướng công?
– Đúng, nhưng không phải tất cả mọi người dân nước Sở đều đa trá. Từ Ngũ Tử Tư, đến Phạm Lãi, Văn Chủng đều là dân nước Sở cả đấy chứ, mà rồi người sang Ngô kẻ sang Việt làm công thần đó thôi. Cả ba ông nầy đều là dân nước Sở có thể cũng đa trá nhưng đã biết xử dụng cái đa trá, tức là đã mưu đồ, dối trá để làm lợi cho đất nước họ trú ngụ.
– Ừ nhỉ, cả ba đều đã tận tình giúp cái quốc gia đã bao dung họ, chỉ có Phù Sai với Câu Tiễn mới thay đổi mà thôi.
Tướng Mông Điềm lại gật gù đưa tay lên vuốt chòm râu tỏ vẻ hài lòng, có ý muốn chứng minh sự ta đây khác Mao ông, ta đây có đủ cả râu cằm, râu mép, thượng hạ phân minh.
– Bà có biết tại sao người ta gọi Mao Trạch Đông là Thanh Long không?
– Không, chẳng bao giờ nghe mà chỉ nghe qua các sách về địa lý, tả Thanh Long, hữu Bạch Hổ, tiền Chu Tước, hậu Huyền Vũ…
Ông tướng nhìn tôi thoáng có chút thương hại, ngỡ tôi là đứa chỉ biết đùa, không đủ trang nghiêm để làm việc lớn, hẳn ông không thể không có chút khinh khi, cho rằng đàn bà thôi thì chấp nhận nó như vậy, dầu sao thì bộ óc nghe bảo cũng nhẹ cân hơn đàn ông, làm sao mà vượt được xa hơn đàn ông. Tôi nhếch mép chấp nhận. Thua ai còn sợ nhục chứ thua cái nhà ông tướng “Uy chấn Hung Nô” nầy thì cũng chẳng lấy gì làm xấu hổ.
– Xin được chỉ giáo, dầu sao tôi cũng chỉ là một viết sĩ tầm thường, mà kiến thức và sự học hỏi còn mênh mông hơn Đại Dương, có điều gì còn u mê xin tướng công dây bảo thêm. Như thế mới xứng đồng tiền bát gạo của tôi, làm việc cả năm, dạy bao nhiêu học trò, viết bao nhiêu trang báo…
– Mà lắm khi còn bị “Chùa” trực tiếp hay gián tiếp, có phải không?
Thấy nhân vật cõi âm nầy sao có vẻ thông thạo, tôi chỉ cười. Ai lại vạch áo cho người xem lưng làm gì. Kiếp nầy nợ thì kiếp sau ráng mà làm trâu ngựa đưa lưng cho người ta quất, người ta cưỡi. Chuyện đâu còn có đó. Thấy tôi vẫn giữ im lặng, tướng Mông Điềm tiếp tục giảng giải, giọng nói trầm, êm, rất dễ nghe.
– Con người sinh ra ai cũng có 8 cái mạch theo Hoàng Đế Nội Kinh, đó là Nhâm mạch, Đốc mạch, Xung mạch, Đái mạch, Âm mạch, Dương kiệu, Âm duy và Dương Duy. Mạch không có huyết quản mà chỉ để thông hành khí lộ nên được gọi là khí mạch. Cái được gọi là dịch hoàn phân bí tuyến, nôm na là cơ quan sinh thực của đàn ôn, thuộc về Nhâm mạch, ở trước hung cốt (sternum). Cái Nhâm mạch nầy từ Hải Đê huyệt, còn gọi là Hội Âm hay là Nhiếp Hộ Tuyến. Nhâm mạch từ trước Hung Cốt đi lên, nhưng phải biết rằng Nhâm mạch nầy kinh qua Sĩ Cốt, nhập Đan Điền, lại qua Tâm Khãm Huyệt, đến đây nó chia làm đôi đường, tả, hữu nhũ bộ đi lên nữa để rồi nhập vào cổ, qua Giáp Trạng Tuyến, nhập vào họng, lên đến mặt.
Sĩ mao và Tì, Tu tức là những lớp lông và râu cằm, râu mép đều từ nhâm mạch mà ra. Nếu có gì làm trở ngại ở cái hệ tuyến đó, thì dẫu dịch hoàn phân bí có làm việc, cũng không đưa lên được đến cằm, đến mép. Cứ để ý nhìn xem người nào mà Nhâm mạch không thông thì râu ria lơ thơ, lông lá ít ỏi.
– Lý do tại sao, và như vậy thì có làm sao không, thưa tướng công?
Tướng Mông Điềm cười lên ha hả, nhận thấy rõ nét u mê hiện trên mặt tôi. Từ nãy đến giờ nghe nói về các khí mạch mà chẳng hiểu ông ta muốn đưa câu chuyện đến đâu. Thấy tôi ngồi yên, chỉ biết lắng nghe mà không dám ngắt lời, ông ta lại tiếp tục giảng.
– Tại sao ư? Chắc tại thuở bé có ốm đau gì đó, mà không biết thầy biết thuốc, hoặc có người từ thuở sinh ra đã bị như vậy. Tuy nhiên, dầu không râu ria nhưng đối với thân thể cũng chẳng có gì trở ngại…
– Tướng công muốn dạy tôi về Đông Y học chăng? Xin để cho tôi được về nhà chuẩn bị đã.
Tướng Mông Điềm cau mặt lắc đầu.
– Không đâu, chúng ta nào có nhiều thì giờ, tôi chỉ muốn nói với bà về Mao Trạch Đông, nhưng vì cái nghề viết lách của bà nên nói gì thì phải rõ ràng, để lúc về, nếu bà có dịp ghi lại cũng phải rõ ràng. Người cầm bút mà nói bậy, nói sai sự thật, bóp méo vấn đề đều đắc tôi với quỷ thần, với dân chúng, với độc giả, tội nầy nặng lắm, bà nên nhớ điều ấy. Chết là đáo hỏa ngục ngay.
Tôi cảm thấy vui vui trong lòng, con người nầy của cõi âm, nên có một sự hiểu biết vượt thời gian và cả không gian. Cuộc gặp gỡ hôm nay phải là mối duyên kỳ ngộ, đã được xếp đặt từ bao nhiêu kiếp trước trước.
– Xin tướng công dạy bảo tiếp…
– Ban nãy tôi nói về đường đi của Nhâm mạch, bây giờ chúng ta sang đến cái gọi là Đốc mạch, tiếng Việt Nam của quý vị thường đảo ngược, gọi là mạch Nhâm và mạch Đốc, tuy vậy chúng ta vẫn hiểu nhau. Đốc mạch khởi từ Vĩ Lư – Lư là cái cổng làng,Vĩ ở đây có nghĩa là cái đuôi là chỗ cuối, riêng trong lĩnh vực chúng ta đang nói thì chữ Vĩ Lư nầy có nghĩa là cái xương đằng cuối mông, Hung Cốt, và nơi nầy có Đốc mạch nằm ở đằng sau. Nhâm mạch ở đằng trước, Đốc mạch đi qua Mệnh Môn, tức là đốt xương sống thứ năm, đếm từ dưới lên. Sau đó nó đi qua Lộc Lô Quan, nhập vào Cao Hoang, ở nơi nầy nó được phạn ra hai huyệt nằm dưới vai, phía đằng sau lưng, đi vào cổ, vào Đối Khẩu nhập trở lại thành một, vào Ngọc Chẫm Quan, đi lên tí nữa đến Bách Hội huyệt là nơi đỉnh đầu của con người.
Ông bà nào mà mạch Đốc bị trở ngại thì ít tóc. Cũng có người vì thuở bé bệnh hoạn, như bệnh thương hàn, sau khi ốm mà sợ xấu không cạo một lần thì sẽ rụng hết tóc, không mọc lại nữa. Những người bị rụng tóc có thể dùng lối tập khí công để cứu chữa thì tóc sẽ mọc lại.
Nghe tướng Mông Điềm nói đến đây tôi chợt nghĩ đến chú em, và một số người quen, ngày về bảo cho họ biết chắc họ sẽ mừng lắm. Tôi muốn hỏi rõ hơn tuy biết rằng câu hỏi sẽ đưa ra xa vấn đề.
– Khí công là gì, hình như chữ nầy không có trong tự điển.
– Một chữ do mấy ông thầy võ đặt ra, khí công là khí lực, dùng cái lực của khí, của hơi thở mà tập luyện, đây là một sự luyện tập khí mách. Nhưng sao bà hay nhảy ra ngoài đề quá vậy.
– Tại muốn biết cho rõ, tri chi vi tri chi, bất tri vi bất tri… (biết thì bảo rằng biết…)
Ông tướng phì cười thấy tôi mang Khổng Tử ra nói để đỡ tội.
– Tướng công nói nốt đi, tôi xin lỗi.
– Bà biết chứ, theo Tướng Thư, tức là loại sách viết về tướng số, có ghi rằng: “Phàm hạ thể vô mao giả, nam viết Thanh Long, nữ viết Bạch Hổ” (lệ thường những người nào mà bên dưới không có mao, thì đàn ông được gọi là Thanh Long và đàn bà được gọi là Bạch Hổ).
À ra thế, từ nãy đến giờ ngài giảng về Nội Kinh, mục đích để dẫn đến đây. Con người sao mà kỹ lưỡng, cẩn thận, nói điều nào rõ ra điều ấy, thảo nào mà Hung Nô vừa nghe danh đã sợ. Tiếc rằng ông đã thuộc về cõi âm, giá là người thời nầy, người cõi dương chắc tôi đã cõng về suy tôn làm cố vấn cho công cuộc đấu tranh của chúng ta.
– Tại sao tôi rất ít khi đọc thấy những vấn đề nầy qua các sách vở, thưa tướng công.
– Vì người xưa cho đó là uế tục chi ngôn, không dám viết rộng, viết dài sợ làm bẩn mắt, bẩn trí, chữ gọi là “hữu thương đại nhã”. Mà tự cổ đã nói rằng: “Bạch Hổ đương gia tắc gia bại, Thanh Long trị quốc tắc quốc vong”. Bà hiểu không, hiểu thì thử giảng ra.
– Có nghĩa là người đàn bà Bạch Hổ mà làm chủ gia đình thì gia đình sẽ lụn bại, người đàn ông Thanh Long mà giao cho việc trị quốc thì mất nước, quốc vong. Phải thế không, nhưng nước Tàu đâu có vong, sách viết e sai rồi tướng công ơi.
Tướng Mông Điềm lắc đầu, hơi cau mặt, chắc bực mình cái tính gàn bướng hấp tấp của tôi.
– Hãy yên, chờ nghe tôi giải thích, sao mà nóng nẩy thế. Đành rằng nước Tàu không mất, nhưng suốt mấy chục năm bắt dân sống trong sự đấu tố, lo âu, hỏi có được gì so với các quốc gia tự do khác.
– Nhưng, xin tướng công…
– Để tôi giảng tiếp cho mà nghe, phàm nhìn thấy người nào mà chỗ cầm và mép không có chút râu thì đầu tóc lại xanh tốt, vượng thịnh. Hãy nhìn lại cái ảnh Mao Ông đi tắm sông, mặc dầu đã gần 80 tuổi mà tóc tai rậm rạp thì đủ rõ.
Đàn bà Bạch Hổ cũng chỉ vì nhâm mạch bất thông, đầu tóc cũng rậm rạp, chỉ có đôi chân mày nhạt hơn người thường. Những người nầy khá thông minh nhưng chẳng biết gì về đạo lý. Mặt mày xinh đẹp mà đầu óc dị kỳ, lại rất thạo về môn trang điểm, loại người nầy “tần tiếu vô thường” tức là lúc vui lúc buồn, chẳng ai còn dám biết trước. Thái độ lại kiêu ngạo. Đối với cha mẹ thì vô lễ phản phúc, với con cái thì ngược ngạo, với chồng như cừu hận. Thuyết trường, đạo đoản có nghĩa là nói thì hay mà trong lòng rỗng không, cắt đứt cả tình bà con nhất là đối với nhà chồng, diện thị bối phi, chẳng có gì cũng làm lớn chuyện, sao náo gia đình, rốt cuộc là gia phá nhân vong…(nhà tan người mất).
Tướng Mông Điềm ngừng một lúc, hẳn để nghỉ hơi, tôi hơi ngạc nhiên, ông có bực tức điều gì không mà sao ông nói nhiều thế. Định chờ ông ta nghỉ một lúc tôi sẽ hỏi thêm một ít về chính trị nhưng ông ta lại tiếp tục ngay sau đó, không cho tôi có thì giờ nói chen vào.
– Tự cổ đã bảo mãi rồi, và cũng có nhiều nhân vật đã được ghi vào lịch sử, vả lại đàn bà là Âm, đàn ông là Dương, đây là nói về con người, với trời thì ban ngày là dương, ban đêm là âm, với đất thì cao là dương, thấp là âm, quang đãng sánh lạng là dương mà âm u đen tối là âm. Người Thanh Long tuy là đàn ông mà tính tình lại là âm, nên người Thanh Long làm gì cũng thích về đêm, mà đạo lý của chính trị lại nên dương không nên âm. Kế hoạch quân sự thì ngược lại, nên âm không nên dương. Người nắm vận mệnh quốc gia cần được sự tin tưởng của dân, và làm chính trị cần phải quang minh chính đại, không bao giờ đi dùng những âm mưu quỷ kế. Chưa hề nghe ai trị quốc bằng đường lối mưu chước hư ngụy mà thành công được lâu dài. Tính Nam, tướng Nữ, hàm không râu, đó là người âm tính, không thể để cho loại người nầy nắm vận mệnh quốc gia. Mao Ông phát minh ra sự nội bộ đấu tranh, giữa đồng sự mà bỉ với thủ tức là anh với tôi mà hận thù nhau, hôm nay ta đấu người ngày mai bị người đấu tố lại, như thế thì còn đạo lý đâu nữa.
– Tôi nghĩ đây là đường lối chung của người cộng sản chứ đâu phải riêng Mao Ông.
– Đúng, nhưng Mao Ông với sự phụ giúp của Mao Bà, càng ngày càng tăng cường phát minh thêm nhiều sự ác độc tinh vi hơn hết các xứ thì người dân chỉ có cơm không no áo không ấm. Sống trong sự sợ sệt lo âu. Bà có đọc tác phẩm của Jack London chứ.
Tôi gật đầu, không ngờ cái nhà ông tướng nầy có nhiều thì giờ đọc đến thế, chắc cõi âm là vậy chăng, ai cũng có thì giờ, muốn đọc sách đông tây gì cũng có, khỏi cần học cũng biết, nhưng để tiếp tục vấn đề, tôi thấy cần phải cãi một câu.
– Dầu sao Mao Ông cũng là Quốc Vương của nước Trung Hoa suốt một thời gian dài gần nửa thế kỷ, và Mao Bà cũng đã hét ra lửa, bao nhiêu triệu người phải hy sinh. Theo Thiên Văn chí, ai làm vua thì trên trời có Đế Tinh xuất hiện, thế thì tướng công nghĩ sao?
Tướng Mông Điềm nhìn tôi cau mặt, chắc ông đang nghĩ thầm cái con đàn bà nầy lắm điều nhiều chuyện, nhưng rồi biết là với một đứa cứng đầu, lại ham hiểu biết, đừng mong bỏ qua được với tôi, nên ông phải đổi giọng hiền hòa để trả lời cho yên.
– Tinh của Đế Vương phải xuất hiện từ Tam Viên mà ra. Biết rồi, bà sang đây để lùng cổ thư về Thiên Văn, thứ nầy mà cho sống vào thời Hán Đường là mọt gông nằm nhà tù đến chết. Không dễ gì mà mua ra nguyên một quyển cho bà về nhà đắp chăn, mở đèn nghiền ngẫm đâu. Chưa ai chịu ngồi để gom góp lại viết thành hẳn một quyển tự điển như ý bà muốn đâu, có giỏi thì cầu trời cho sống thêm vài chục năm nữa mà làm lấy, chắc sẽ có những đứa gàn như bà tìm mua được dăm ba quyển. Học về hai môn Thiên Văn và Địa Lý là cái học để làm Đế Vương chi sư, bà hơi nhiều tham vọng đấy.
Tôi lắc đầu cãi lại.
– Tướng công quá lầm, tại cái tính tò mò, vả lại những đứa mà theo khoa Tử Vi, ở mệnh cung có những vì sao như tôi, là đứa có học hành từ kiếp trước, biết đâu kiếp nầy chỉ là sự tiếp nối mà thôi.
– Ừ nhỉ, biết đâu kiếp trước bà chẳng là một…
– Một Lưu Bá Ôn, một Triệu Khang Tiết, một Tư Mã Ý, một Gia Cát Lượng.
– Hay là một lão thầy bói mù ngồi ở góc chợ.
Tướng Mông Điềm nói giọng chế riễu, vừa cười vừa cố nhìn xem tôi có nổi cáu vì tự ái bị chạm, nhưng không, ông đã thất vọng.
– Chắc tướng công nói đúng, biết đâu tôi chẳng là một lão thầy bói mù ngồi ở một góc chợ quê nào, lại còn đoán quẻ trật, đón sai nên kiếp nầy phải tội, bị đày làm thân đàn bà…
Chủ, khách cùng cười, ở đời anh nào biết nói đùa, chấp nhận lời nói đùa, là anh ấy dễ sống, miễn nó đừng thuộc loại đùa thô tục, hạ cấp làm bẩn tai bẩn mắt.
– Thôi, bây giờ xin tướng công nói qua về môn Thiên Văn cho tôi nghe để xem cái kiến thức của vị tướng Uy Chấn Hung Nô nó đến đâu.
– Tôi cho bà biết, tại hôm qua nghe bà bảo có ý định đi kiếm sách về Thiên Văn, nên hôm nay tôi mới trở lại, nếu gặp người không say mê môn ấy, thì chắc tôi đã nằm nhà. Nào, bây giờ bà muốn biết xem Mao Ông có sao nào trên trời không chứ gì?
Tôi gật gù, thán phục, chỉ người cõi âm mới có thể đọc lên đư5ơc những ý nghĩ của người cõi dương một cách rõ ràng nhanh chóng, thật dễ chịu, chưa nói đã biết.
– Xin được chỉ giáo.
– Đế Vương chi tinh, ứng tại Tam Viên Đế Tòa.
– Tam Viên Đế Tòa có những 15 vì sao, làm thế nào mà biết được?
– Lại nóng nẩy… Tam Viên, mỗi Viên chỉ có 5 vì sao, nếu chợt thấy hiện ra một vì sao thứ 6 đó là Đé Vương Tinh. Hẳn bà đã nghe câu chuyện Khách Tinh Phạm Đế Tòa rồi chứ.
– Chuyện Hán Vũ Đế ngủ chung giường với người bạn, đêm ông nầy nằm gác lên bụng ấy phải không.
– Đúng, thời trước khi nhà Minh lên, Lưu Bá Ôn đã trông thấy tại Tử Vi Viên, xuất hiện một Đế Tinh, lại nhìn về miệt Giang Hoài, có Thiên Tử khí, trong một thời kỳ mà thiên hạ đại loạn, bao nhiêu đấng anh hùng nổi lên đó đây, ông đi lần đến góc trời có Thiên Tử khí ấy mà tìm ra Minh Thái Tổ. Mang Thiên Tướng và Nhân Sự ra đối chiếu là biết ngay. Ngày xưa mỗi triều đại Đế Vương đều có một vị quan trông coi về sự biến động của các vì sao để rồi phúc trình lên…
Thấy tướng Mông Điềm ngừng tôi vội đặt câu hỏi.
– Tôi nghe nói Lưu Bá Ôn, khi vào quán thấy một người, ông đoán ra sau khi xem tướng mạo, đó là Chu Nguyên Chương. Ông nầy mời Chu vào phòng mình, sụp xuống lạy bảo rằng ngài sẽ là Vương thiên hạ trong 10 năm nữa, làm Chu Nguyên Chương sợ quá, phải vậy không?
– Phải, chịu khó tìm tòi nhỉ.
– Khó khăn gì, sách địa lý nào chẳng nhắc chuyện ấy, nhưng xin tướng công nói thêm, để tôi đỡ phải đọc sách.
– Hẳn bà đã thuộc lòng tất cả tên những hằng tinh của 4 phương, Đông Thanh Long, Tây Bạch Hổ, Nam Chu Tước và Bắc Huyền Vũ rồi chứ gì. Muốn học Thiên văn, trước hết phải biết phương vị, sau đó phải thuộc các danh xưng, ngoài ra, cũng không được quên Nam Đẩu Lục Tinh. Người ta phân ra cửu Châu để đối chiếu trời đất với nhau. Thí dụ như tỉnh Hồ Nam ngày nay, xưa thuộc Kinh Châu, trên trời thuộc Chu Tước, lĩnh vực của Chẩn Tinh. Nơi nầy đã có vì sao của Mao Ông, cố nhiên là ngày nay không còn nữa vì Mao Ông đã chết. Ngày Mao Ông còn sống, vì sao ấy đã được nhiều thiên văn gia nhìn thấy. Nó chỉ là một tiểu tinh màu đỏ nhấp nháy không ngừng. Theo cổ thư thì một ngôi sao nào mà quang thái tường lệ, được gọi là Thụy Tinh. Bà biết chữ Thụy nghĩa là gì chứ?
– Là điềm lành, viết với bộ ngọc, phải không?
– Đúng đấy, có khi còn gọi là Cảnh Tinh, nếu ánh sáng của sao nầy mà có lúc bùng lên to, có lúc thâu nhỏ lại thì gọi là Bồng Tinh. Màu sao đỏ, nhìn thấy chói mắt gọi là Yêu Tinh, hay là Khách Tinh hay là Dị Tinh. Cố nhiên, Yêu Tinh không thể là một vì sao chính, mà sao của Mao Ông chỉ là Yêu Tinh. Trước khi chết, sao sẽ mờ dần dần để rồi lúc chết là tắt hẳn, không còn trông thấy nữa.
– Tôi vẫn còn thắc mắc một điều, làm sao người xưa có thể mang gán cho người nầy vì sao nầy, người kia vì sao kia, căn cứ vào đâu? Nếu không đúng thì sao?
– Esprit Cartésien nhỉ. Nhưng không sao, đã học thì học cho đến nơi, đến chốn, đặt những câu hỏi lục soát như bà cũng hay. Người xưa có những vì quan suốt đời chỉ theo dõi có chừng ấy việc. Nghiên cứu những người có học có thi, được bổ dụng ra làm quan. Những người ấy phải có đầy đủ gia phả, nếu không có là chẳng được vào thi cử gì nữa chứ đừng nói đến sự bổ làm quan. Ngày tháng nào, trên trời có vì sao nào xuất hiện, thì ở dưới đất thuộc vùng nào có đứa bé nào sinh ra, có những điềm gì thí dụ như, mời bà về mở lịch sử của quý quốc ra mà xem lại. Ngày ông vua nào ra đời thì có những điềm gì, nào là con rồng nằm phủ phục lên lưng lúc ông nằm ngủ, có người thì mùi hương thơm ngát luôn mấy ngày, có người thì vùng ấy trên trời có màu mây tím đẹp bao phủ khắp cả… Do sự quan sát những vì sao mà người xưa có thể biết được thời vận của mỗi cá nhân, sự an nguy của một quốc gia. Sao của Mao Ông không nằm cùng một vị trí với những Đế Tinh nên các thiên văn gia chuyên nghiệp biết ngay rằng nó không phải là một chính tinh.
Tôi nhăn mặt vẫn còn thắc mắc, có thể là tôi muốn nghiên cứu về Thiên Văn vì nhận thấy bên trong nó có nhiều chất thơ hơn là để đi tìm một sự gì khác. Phần mình nghèo, lại sinh vào một thời buổi mà mọi người đều chạy theo văn mình cơ khí. Làm sao mà mình, với cái vị trí nhỏ nhoi có thể tạo đủ phương tiện để nghiên cứu như ý muốn.
– Tại sao với cái cương vị hệt như Đế Vương mà vì sao của Mao Ông lại ở Chu Tước, không nằm trong Đế tòa thưa tướng công.
– Mỗi người một giai đoạn, mỗi quốc gia, mỗi dân tộc phải trả một cái giá nào của những kết quả tạo ra hay nói như tiếng của nhà Phật, cái nghiệp chung, phải chia ra mà hứng chịu. Phương vị như thế tức là không phải chính quả. Nếu sao của Mao Ông mà nằm ở Đế tòa thì tương lai của Cộng Sản sẽ còn trường cửu, người dân trong nước còn phải tìm đủ cách để thoát thân.