- 2 -
Tôi đang phân vân còn muốn hỏi thêm nhiều câu, nhưng nhìn thấy ánh nắng đang lên dần, chưa bao giờ tôi muốn níu cánh thời gian như lúc nầy. Có một số câu hỏi cập nhật và rất cần thiết, chúng đang ứ tràn trong tâm khảm, chẳng biết nên hỏi câu nào trước, câu nào sau. À thôi nhớ ra rồi sang đây thì bây giờ phải thăm Đặng Thị trước, tôi nói ngay, chỉ sợ rồi lại quên.
– Xin tướng công nói cho biết hơn một chút về ngài Tổng... Đặng Tiểu Bình, tại hạ thấy ông ta coi vậy mà khôn hơn Mao ông, tướng công có đồng ý không?
– Đặng Thị, tức ông họ Đặng nầy nhờ hưởng được ngôi mộ của bà cố chôn cạnh miếu của Vũ Hầu Gia Cát Lượng, trên đỉnh Trung Sơn. Trước đó tổ tiên họ Đặng rất nghèo, Đặng Thời Mẫn là ông nội của Đặng Tiểu Bình phải đi giữ trâu cho nhà giàu. Sau khi mẹ chết, chú bé chăn trâu bỗng có ý muốn đi học, nên mỗi khi đưa trâu ra núi cho trâu ăn cỏ, thì thả trâu đấy, còn mình lẽn chạy đến nhà ông thầy cũng chẳng cách bao xa, để đứng nấp ở cửa nghe bài. Một hôm vô ý thế nào bị trật chân ngã quay xuống đất, cánh cửa bật tung ra. Ông thầy trông thấy, gọi vào hỏi lý do. Sau khi nghe chú bé kể lể hoàn cảnh gia đình, ông thầy bèn cho vào để khảo thí, nhận thấy chú bé chăn trâu nầy học lén có bao nhiêu tháng năm đâu, sao lại giỏi hơn rất nhiều đứa học trò đã được cha mẹ nuôi ăn học từ tấm bé. Thế là từ đấy chú bé chăn trâu khỏi phải học lén nữa. Sau 3 năm theo học, thấy cậu bé Đặng Thời Mẫn nầy quá tấn tới, ông thầy bèn đến nhà nói chuyện với người cha, xin cho Đặng Thời Mẫn được lên thị thành để tiếp nối sự học. Cha của chú bé mang gia cảnh ra trình bày, sự không thể cố gắng sự ấy. Ông thầy đề nghị chịu hết mọi sự phí tổn cho đến ngày chú bé thành tài. Người cha cảm tạ, vui mừng vì đó là điều vượt ra khỏi tầm ước muốn, ông thầy bảo rằng chú bé nầy “Phi nhất huyện, nhất phủ chi tài, tha nhật quý vi triều đình đống lương“. Không phải chỉ là người tài trong một phủ, một huyện mà ngày sau sẽ là cột trụ của triều đình.
Y như lời ông thầy tiên đoán, sau một năm Đặng Thời Mẫn thi đỗ tú tài, năm sau nữa đỗ cử nhân đầu bảng được vua Càn Long hân thưởng tài học, đã thân ngự bút phê điểm rồi cứ thế mà thăng quan tiến chức lên đến Hình bộ Thượng Thư, nhờ vậy mà Đặng gia đã danh dương thiên hạ.
Tướng Mông Điềm nói đến đây đã ngưng giọng, trầm ngâm suy nghĩ.
– Như thế là họ Đặng nhờ chôn nhằm huyệt tốt, đúng không tướng công, làm sao tìm ra được ngôi đất, chắc ngôi đất phải có văn bút quý nhân sa, lại có cả chiên cổ, kỳ phướng…
– Khoan hẳn, chuyện đâu còn có đó các hạ đã nghe nói nhiều đến câu “Phúc địa, phúc nhân cư”. Tức là phải có phúc mới được ở trên một ngôi đất tốt, và bao giờ cũng đừng quên sự: “Tiên mãi đức, hậu tầm huyệt” tức là trước hết phải lo mua đức, tức là tạo ra nhiều đức, sau đó hay nghĩ đến chuyện tìm huyệt. Các hạ cũng đừng tưởng những nhà giàu cứ ỷ tiền, cho rằng mang tiền đi rước thầy địa lý về nhà chiều chuộng, cho thầy hưởng đủ mọi thứ của ngon vật lạ để rồi đưa thầy vào sự: Ăn xôi chùa ngọng miệng, bắt thầy phải đi tìm cho mình một ngôi đất tốt mà được đâu. Nếu ăn ở bạc ác thì ngôi đất cũng biến thành xấu, mà lại còn biến rất nhanh. Từ xấu trở nên tốt lắm khi cần cả đời người, hay là hơn nữa, mà trái lại từ tốt hóa xấu thì lắm khi chưa đến 3 năm.
– Làm sao biết được?
– Nhìn sự thành bại trong họ, trong gia đình, nhìn cây cỏ ở nơi mộ địa…nhưng sao các hạ tò mò chi quá vậy, để nghe nốt câu chuyện nhà họ Đặng nầy đã.
– Tại hạ cũng đang nóng ruột muốn nghe đấy chứ, nhưng tại Tướng công nói thêm ra ngoài mà rồi vấn đề nào cũng hấp dẫn. Tại hạ thắc mắc muốn tìm hiểu sự thăng quan của nhà họ Đặng, lý do vì đâu, lệ thường, lắm khi vì quá nghèo có muốn làm việc thiện, việc phước đức cũng không làm được. Chưa đủ ăn, lấy đâu mà bố thí cho ai.
– Các hạ nói cũng đúng nhưng chỉ một phần nào thôi, để yên bỉ nhân kể nốt. Thuở ấy Đặng Thời Mẫn có bà mẹ ốm yếu phải nằm nhà, hai cha con đi làm thuê mỗi ngày, bỏ người đàn bà ở nhà, trước khi đi bao giờ cũng nấu cho một bát cháo ăn mà cầm hơi. Chờ đến chiều tối hai cha con đi làm về mang chút tiền công mua gạo nấu cơm cùng ăn.
Một hôm người đàn bà bệnh hoạn ấy đang nằm trong nhà, bỗng nghe một tiếng rơi đánh bịch lên mặt đất từ ngoài sân vọng vào, cố nhiên là từ nhà đến sân giỏi lắm cũng chỉ độ vài ba thước. Tưởng chừng như có ai vứt vào một cái gì, bà lần bước ra, nghe thêm vài tiếng rên yếu ớt, nhìn kỹ thì đó là một nhà sư đói, đi đến đó thì bị đuối sức đã ngã xỉu ngay trước sân. Người đàn bà nghĩ bụng, hẳn nhà sư đến đấy thì vừa mệt lại vừa đói. May quá sẵn phần mình còn sót bát cháo hôm nay chưa ăn, thôi thì nhường cho nhà sư, may ra có cứu thoát. Bà ta bèn lết vào nhà mang bát cháo ra, nâng đầu người đang sắp lả, đổ từng thìa cháo vào miệng. Dần dần người đói hồi tỉnh, ngạc nhiên và cảm động nói khẽ: A Di Đà Phật, thí chủ đã cứu mệnh bần tăng, ân nầy làm sao báo đáp đây?
Người đàn bà mừng rỡ khi thấy nhà sư đã hồi tỉnh, chỉ nói.
– Sư tỉnh lại là may lắm rồi, không phụ công của một bát cháo trắng.
Nhà sư nhìn lại người đàn bà với dáng điệu tiều tụy xanh xao, nhìn vào trong nhà cũng chỉ là thứ mái tranh, vách đất. Biết chắc rằng người đàn bà đã nhịn phần bát cháo cho mình. Người đàn bà đoán hiểu ý nên đã nói thêm cho nhà sư an lòng.
– Nhà sư được bình yên là tôi an tâm rồi, tấm thân bệnh hoạn nầy có một bát cháo hay không cũng còn kéo dài được.
Nhà sư cảm động, trầm ngâm một lúc rồi hỏi:
– Trên đời thí chủ có ước nguyện gì không? Để xem tôi có thể làm gì hòng mong trả cái ân của bát cháo chăng?
Người đàn bà nở nụ cười héo úa trả lời.
– Với tấm thân tàn nầy, sắp chết đến nơi còn có gì nữa mà nguyện với vọng. Tuy vậy cũng có một điều ước mơ, làm sao cho cha con nó đỡ vất vả, và cầu cho thằng con trai Đặng Thời Mẫn sau nầy lớn lên cũng sẽ có được vợ con như người ta, thế là thân già nầy mãn nguyện lắm rồi và chắc đó là điều khó thực hiện. Nghèo quá, ai mà thèm thương.
Nói xong người đàn đã khóc lên, vì quá xúc động. Nhà sư tìm lời an ủi.
– Thí chủ đừng quá lo, bỉ cực thái lai, sắp được về miền cực lạc, gia đình họ Đặng rồi sẽ có ngày khá.
Nói xong nhà sư cáo từ, nhưng trước khi đi có đọc lên bốn câu có ý nghĩa rằng: “Cứ tìm hướng Tây mà đi, lên trên núi cao, rung ba lần, thân rơi xuống nơi nào thì nơi ấy là long sàng”. Nói xong nhà sư đi mất.
Hai cha con nhà họ Đặng đi làm thuê xong, trở về thấy người đàn bà năm lả trên giường có vẻ mệt và đói lắm, hỏi ra mới biết rõ sự tình. Người mẹ tuy cạn sức mà vẫn cố gắng hết lực đọc mấy câu kệ của nhà sư cho thằng con trai, bắt nó học thuộc lòng, chỉ có mấy hôm sau người đàn bà chết.
Cha con Đặng Thời Mẫn đã làm hệt những gì nhà sư dặn qua câu kệ. Đặng Thời Mẫn về sau làm đến Thượng Thư như bỉ nhân đã kể cho các hạ nghe lúc đầu, ông có một vợ và sinh được một con trai là Đặng Văn Minh, ông nầy thì rất giàu, của cải bố mẹ để lại, không học hành nhiều, lấy đến năm bà, và Đặng Tiểu Bình là con của bà cả Đàm Thị, lúc sinh ra không một tiếng khóc.
Tướng Mông Điềm kể chuyện nhà họ Đặng nghe cứ y như trong tiểu thuyết, tôi không biết có nên tin hay chỉ xem như tất cả những huyền thoại người ta thường thêu dệt chung quanh những nhân vật.
– Tướng công đọc đâu ra câu chuyện nầy vậy, vừa đạo đức luân lý lại vừa sưu tầm lịch sử.
Ông tướng mỉm cười nhìn ra phương xa, tôi nhận thấy mỗi khi có gì suy nghĩ là y như cái nhìn gửi vào một nơi thật xa.
– Thì cũng đọc trong mấy tờ báo lá cải như mọi người vậy.
– Thế tướng công có tin là họ Đặng đã được ngôi đất ở Trung Sơn đó không?
– Trên quan điểm địa lý thì chắc phải có thật. Nhưng nếu câu chuyện nầy mà được đưa ra thời Mao Ông, Mao Bà còn tại vị thì chắc là Mao Bà đã sai Hồng Vệ Binh đến mà phóng uế cho phá cách vương tướng nầy đi mất rồi, còn đâu có hôm nay, vì phá là được. Ngày xưa trong các triều đại thấy ai nổi lên mà thế dân mạnh là triều đình chỉ việc cho người tìm đến mộ tổ ếm cho một cái là cục diện thay đổi ngay.
Tôi gật gù suy nghĩ, nhớ đến những trang sử nói về Cao Biền, à ra thế, nhưng thôi hãy cho đó là mệnh nước, là quá khứ, thảo nào mà hay có những cái chết bất đắc kỳ của những đại nhân vật, sẽ có lúc mang ra thảo luận thêm với ông tướng nầy nhưng bây giờ còn phải hỏi thêm về con người họ Đặng nầy đã, lúc về còn kể cho anh em nghe.
– Thỉnh vấn tướng công…
– Cái gì nữa đây?
– Tại hạ còn nghe một câu chuyện về Đặng Thị nữa. Người ta bảo ông nầy lúc sinh ra không khóc, cô đỡ đã theo lệ thường, đánh cho mấy cái vào mông, chú bé vẫn không khóc mà chỉ hơi mếu và trên trán nhăn thành 3 lằn, hình chữ Vương, cả nhà ngạc nhiên… Có thật vậy không?
– Các hạ cũng biết chuyện ấy nữa sao, cũng có thì giờ đọc báo lá cải lá hành nữa sao? Cũng may cho họ Đặng là những mẫu huyền thoại nầy chẳng ai dám nói ra, hoặc đề cập đến trong câu chuyện khi Mao Ông còn tại vị.
– Thế tướng công có tin rằng những cái chết bất đắc kỳ tử cũng còn là do kết quả của các hành động gian ác từ tổ phụ truyền xuống không.
Tướng Mông Điềm mỉm cười rồi bỗng cau mặt có dáng suy nghĩ, hay là ông ta đang nghĩ đến cuộc đời của mình, cái sống và cái chết của chính mình. Yên lặng một lúc ông ta mới trả lời rất chậm rãi.
– Các hạ và quý đồng hương hay nói câu: “đời cha ăn mặn, đời con khát nước”. Nhưng nhà Phật dùng chữ nghiệp để giải thích nghe hợp lý hơn. Ai làm tội thì người ấy chịu, các hạ về mở sách xem lại, nếu bây giờ mang ra đây mà nói thì chẳng khác gì một buổi thuyết pháp, dành việc của các sư, không được. Chỉ nên tóm tắt rằng, ai tạo nên nghiệp gì thì nhận cái quả ấy, chứ chẳng có ông thần bà thánh nào ngồi đó mà đợi thưởng hay phạt, chỉ có chính mình tự thưởng hay phạt lấy mình.
Tôi sợ nói nhiều, sợ sẽ không tránh khỏi sự bắt ông ta phải nhắc đến cái chết bị bức tử của chính mình. Tuy nếu được nghe tự miệng ông ta nói chắc sẽ thú vị vô cùng, chỉ e rằng mình kém lịch sự chăng. Châm ngôn Pháp có dặn, vào nhà người tự tử không nên nhắc đến sợi dây thừng. Tôi đành đổi vấn đề, mà trong lòng hơi tiếc.
– Tướng công có thể cho tôi biết một vài ngôi đất nào có cách phát mả Đế-vương không?
– Biết để làm gì vậy? Bộ muốn con cháu sau nầy làm vua à?
Tôi lắc đầu đưa tay lên trời tỏ ý phản kháng.
– Biết để nói chuyện với anh em chơi cho vui vậy thôi, chứ tôi đâu có tham lam dữ vậy, đến tấm vé số còn không muốn mua, có ai cho cũng mang vứt vào xó ngăn kéo, không hề nghĩ đến chuyện dò xem trúng hay trật.
– Dại, ngu. Các hạ xử sự như thế là ngu.
– Biết vậy nhưng tại hạ cũng tự hiểu rằng cái nghiệp mình khá nặng phải cong lưng làm mới đủ sống. Không thể chờ đợi những món hoạnh tài của những người có Thiên Phủ trong Tử vi, mà không bị triệt.
– Xin lỗi các hạ, phải nói rằng, cung tài nào có Thiên Phủ ở trong mà số lại không bị tuần triệt là người nhận được tiền của “welfare” mỗi tháng, khỏi phải đi làm. Hoặc các cô nhân tình của quan lớn, những kẻ nầy, đa số đều được sao quý ấy chiếu mệnh.
Tôi giật mình, không ngờ cái nhà ông tướng nầy cũng có nghiên cứu cả môn tử vi. Nhân đây cũng có vài điều thắc mắc muốn hỏi mà sợ mất thêm nhiều thì giờ, đành chờ một dịp khác chăng, tôi nói tiếp ý mình.
– Tại hạ lại còn sợ những thứ tiền ngồi không mà lãnh ấy là với ai cơ, riêng phần tại hạ nhận xét thấy thì hình như nó là loại chữ tài mà nhà thơ Nguyễn Du bảo rằng liền với chữ tai một vần đó chăng?
Tướng Mông Điềm lắc đầu cãi lại.
– Tài đó là tài hoa, sao các hạ nói bừa bãi thế, nhà thơ có mặt hôm nay thì biết thân. Nói đùa vậy thôi chứ bỉ nhân đây cũng chẳng hơn gì các hạ, chết rồi, con cháu chắt chỉ có mấy cây đàn với mấy cây bút.
– A cây đàn Xuân Lôi, xin nói về cây đàn Xuân Lôi.
– Các hạ nhảy như cóc làm sao ai mà theo cho kịp, chờ hôm khác, chúng ta còn cả trăm vấn đề, chỉ sợ rằng …
Ông tướng cau mày một lúc, hình như đang suy nghĩ sự gì khá quan trọng ông bỗng đổi giọng bình thản nói tiếp.
– Thôi, chuyện đâu còn có đó…
– Nhưng tướng công chưa trả lời cho tại hạ về những ngôi đất phát Đế Vương, cho tại hạ biết thêm. Tại hạ cần thêm chất liệu để viết bài cho quý vị chiêm gia, và một vài tờ báo Xuân.
Ông tướng đưa tay lên vuốt hàm râu, có vẻ trầm ngâm khá lâu một lúc mới chậm rãi bắt đầu.
– Khá phức tạp, không thể nói vài câu hay vài chục câu mà đủ ý. Thí dụ như bây giờ tôi bảo với các hạ hãy tìm ngôi đất nào được cái cách gọi là Ngô Đồng Cách mới là đệ nhất cách, làm sao các hạ biết nó như thế nào. Phải là một vị thầy giỏi, nhiều kinh nghiệm. Từng trèo non lặn biển nhiều nơi, ở nhà phải nghiền ngẫm nhiều sách vở. Học môn địa lý là phải đi, không phải ngồi nhà mà đọc sách thôi. Đàm binh chỉ thượng, tức là nói chuyện quân sự binh pháp trên mặt giấy thì cũng như vậy. Sau khi đọc sách một thời gian rồi phải đi. Nghe nơi nào có người được ngôi mộ phát, hay một ngôi mộ đang phát, hoặc đang tàn cũng phải đến mà nghiên cứu.
– Nhưng làm sao biết được một ngôi đất nào có thể phát đế vương?
Tôi nóng ruột hỏi thúc. Ông tướng lại cười ngạo nghễ, chắc hẳn có hơi khinh khi đàn bà không đủ kiên nhẫn, thảo nào không làm được đại sự.
– Thì khoan hẳn, các hạ sao mà lúc nào cũng như đang nhảy trên lửa.
Tôi phì cười, cái nhà ông tướng cõi âm nầy thật là không thèm đếm xỉa đến thời gian, người ta thì nóng ruột, nhưng vì đã đoán biết tôi đang nghĩ gì nên ông tướng nói tiếp.
– Một ngôi đất phát công hầu thôi là cũng phải có đủ tiền hô hậu ủng, nói gì đến ngôi đất phát Đế Vương. Các hạ hãy tưởng tượng ra một cung điện như thế nào, cần phải có những gì, nào ấn trướng, chung cổ, xa mã, thương khố, nào nhật nguyệt, nào đội ngũ, rồi bên văn, bên vũ. Tất cả những quý sa chầu đến, ngoài mấy vấn đề căn bản, nào long nào hướng nào thủy, nào khí, lại không được phạm bát sát, hoàng tuyền.. Không được phạm âm phong là thứ gió làm tán sinh khí.
– Có những mấy thứ phong?
– Có nhiều mà người ta thường nói đến là Ao phong, Xạ phong, Trực phong, Cấp phong. Nên nhớ là khán phong đệ nhất mà biện âm dương thứ chi. Sa cũng phải biết phân biệt thế nào là Triều sa, Nghênh sa, Thị sa, Vệ sa…
Tôi lắc đầu, thảo nào đời không có nhiều vua, và phải khó khăn đến thế nào mới tìm được một ngôi đất quý.
Ông tướng lại nói.
– Nếu có dịp tôi sẽ đưa các hạ đi xem những ngôi mộ đã phát, và có thể là cả những ngôi mộ sẽ phát, rồi giảng giải ra mới thích, chứ nói khơi khơi như thế nầy, quả là đàm binh chỉ thượng, bỉ nhân không muốn.
– Tại sao gọi là minh đường, thưa tướng công?
– Minh đường là Thiên Tử chi đường, tức là nơi làm việc của nhà vua, hướng minh nhi trị, hướng về chốn ánh sáng mà trị dân, nơi thiên hạ quy triều. Nhà kham dư phong thủy mượn cái tên ấy để nói đến sự “Sơn tụ thủy quy” mà gọi cái vũng nước ở trước huyệt đấy thôi.
– Như câu chuyện về sự phát đạt của Đặng Thị, tướng công có nhìn thấy Đặng Tiểu Bình còn sống lâu, còn nhiều thời giờ dẫn dắt quý quốc đi đến chỗ phồn vinh không.
Tướng Mông Điềm vuốt râu mỉm cười, không trả lời, đợi một lúc sau ông ta hỏi tôi.
– Các hạ có biết hồi tháng tư năm 1975, về phía Việt-nam của các hạ, có những vì sao đỏ ở phương ấy. Ai cũng tin chắc, sau ngày quân cộng sản vào Nam rồi là ngưng chiến, là hòa bình, là hết đổ máu, là quốc thái dân an. Chỉ tiếc rằng sau đó mới thấy rõ là quốc chẳng thái, mà dân cũng chẳng an. Trái lại, sự đổ máu còn nhiều hơn dưới một hình thức khác, người dân đã đau khổ hơn cả lúc còn bom đạn, còn chiến tranh… Như thế là cớ làm sao?
– Tướng công muốn nói …
– Bỉ nhân chẳng muốn nói gì cả, Trung Hoa cũng như tất cả các quốc gia khác trên thế giới đều cần được sự thanh bình dài lâu, sự ấm no thực thụ và sự tự do tối thiểu trong tư tưởng cũng như trong cuộc sống hằng ngày. Có như thế mới hòng cất đầu lên được. Nhưng đó là những điều “Khả cầu nan khả đắc” tức là có thể cầu nhưng khó được, mặc dầu mới nghe qua thì cũng dễ. Cuộc sống thanh bình của thời Nghiêu Thuấn không bao giờ trở lại nữa, không phải chỉ ở bản địa mà là ở trên toàn thế giới.
– Vì sao? Hình như tướng công hơi bi quan chăng?
– Các hạ lầm, ngày nay cơ khí tiến bộ, khoa học cũng tiến bộ, nhưng cái gì tốt vẫn đến chậm hơn những cái xấu đến quá nhanh. Các hạ có thấy trồng lên được một gốc cây mất bao nhiêu thời gian mà đốn nó đi thì mất bao nhiêu thời gian không. Con người cũng vậy từ lúc nằm trong huyết khí của cha mẹ, đến lúc khôn lớn cần có bao nhiêu năm tháng, bao nhiêu sự săn sóc dạy dỗ mà chỉ cần một phát đạn, một lát đao là gục ngã. Tắt thở và bao nhiêu công sức vun xới, nuôi dưỡng đều tiêu tan.
Tôi đưa cả hai tay lên trời tỏ sự phản kháng.
– Thôi thôi, xin tướng công, tại hạ đã mệt mỏi lắm rồi. Sang đây để tìm một làn gió, tìm sự lãng quên, mà tướng công còn không tha. Tại hạ muốn hỏi, muốn nói đến cái tương lai của quý quốc, rồi có còn bị những cơn đại nạn nữa không, mà tướng công vượt ra khỏi đề xa quá, tại hạ theo không kip.
– Các hạ thật là “Oa tại tỉnh trung” tức là ếch ngồi đáy giếng, biết một mà cam phận biết một của mình, không muốn biết mười. Các hạ chịu khó để yên, tôi sẽ phân tích ra cho mà nghe…
Mặc đầu ông tướng đã năn nỉ mà tôi vẫn cứ lì, vẫn giữ ý nghĩ thay đổi vấn đề chứ để cho ông tướng nầy mà nói triết lý, chắc đến chiều vẫn chưa xong chuyện, tôi phải tìm cách khác để đặt câu hỏi.
– Ngày ấy tướng công làm đến chức tướng vậy thì chắc tổ phụ cũng phải có ngôi mộ đắc cách lắm.
Tướng Mông Điềm cau vừng trán, mím môi một lúc mới trả lời.
– Ngôi mộ của tổ phụ được một cách rất đặc biệt là:“Án kiếm quý nhân cách”, thuộc về thượng cách long nên bỉ nhân mới làm đến chức vụ ấy. Ở dưới chân núi có một ngọn đồi nhỏ, dài, nằm xéo, nó lại nằm cách nghịch thủy nên khá tốt, chỉ tiếc rằng phía mũi kiếm, tức là phía đầu ngọn đồi lại hơi chĩa vào huyệt nên con cháu về sau không nối nghiệp được, hay nói đúng hơn là không theo kịp ông cha. Cách này nếu hoàn hảo là Phát Tướng quân uy chấn tứ di.
Nghe giọng nói hơi buồn, chắc ông ta đang tiếc cho cái thế sa không hoàn toàn hợp cách, để cho con cháu được tiếp nối. Muốn nói lên một lời an ủi nhưng nói gì cũng bằng thừa, tốt nhất là thay đổi vấn đề một lần nữa.
– Người ta bảo rằng tướng công đã chế ra cây bút, xin nói cho tại hạ được nghe để mở rộng thêm tầm kiến thức khả dĩ bất khả di?
Lần nầy thì ông tướng mở miệng cười thật sự, sau khi nghe cái lối ăn nói vá víu của tôi, nhưng ông cũng rầy tôi một câu thân mật.
– Lại khách khí, chúng ta quen nhau đã hơn một ngày một đêm rồi, sao các hạ còn dùng những lời khách khí nếu không là thừa thãi. Các hạ thường bảo tránh xa những người nói khéo, và như Khổng Tử cũng bảo “Xảo ngôn lệnh sắc” thì ít có lòng nhân, xin các hạ bớt những lời đãi đưa ấy đi, có thế tình bạn mới mong giữ được dài lâu. Với người đời cũng nên như thế mà cư xử. Tốt nhất là nên tránh xa những người nói quá khéo.
Đợi tướng Mông Điềm dứt lời, tôi mới giải thích, cái nhà ông tướng nầy quả thực có chất nghệ sĩ chân chính, bén nhậy trong vấn đề giao thiệp.
– Xin được nghe nói về cây bút, mao bút.
– Thế có phải dễ nghe mà rõ ràng không? cần chi phải rườm rà, khách sáo, “để mở rộng thêm tầm kiến thức”. Cây bút nó có cả một quá trình lịch sử, không phải một sớm một chiều mà nó ra cái vóc dáng ngày nay. Độ ấy bỉ nhân thấy dùng bút gỗ, hay bút trúc đều cứng, khó viết, nhân một hôm đang ngồi chơi ngoài sân thấy có người dẫn dê đi qua, hỏi đi đâu? bảo ràng đi làm thịt. Bỉ nhân cảm thấy tội nghiệp cho con vật, ra đời chỉ để nuôi người hay nuôi hổ, nuôi beo. Lúc chết cũng chẳng để lại gì cho đời, nhân đang bực mình với cây bút, bỉ nhân bèn nẩy ra cái ý định hay là ta cứ làm thử, đã chết chóc ai. Hơn nữa, con vật nếu nó biết chắc nó cũng hài lòng, ít nhất cũng lưu lại được một chút gì cho nhân gian. Không ngờ thế mà lại đúng như ý mình muốn.
Nghe nói đến đây tôi không thể dấu được một nụ cười, ai ngờ mà con người nầy bên ngoài coi có vẻ hùng dũng uy chấn Hung Nô, bên trong lại ẩn dấu một tâm hồn khá lãng mạn, nhưng không dám lên tiếng, sợ cắt mất nguồn hứng đang thao thao của ngài. Ông tướng nói tiếp không thèm để ý đến những suy nghĩ riêng tư của tôi.
– Bỉ nhân bèn bảo quân hầu mang đến cho mình một số lông đê, rồi ngay hôm ấy, nghĩ ra cách chế biến, tức là lấy cán trúc, mang nhét một túm lông dê vào, dính chút hồ, vậy mà nào ngờ dùng nó lại có vẻ thông sướng dễ dàng, rồi ngày một, ngày hai, mỗi ngày lại có thêm một chút biến hóa. Người đời sau cứ thế mà tiếp tục thêm bớt. Thí dụ như đến đời Tấn có ông Quý Di, lấy lông con lang để thay lông dê, thật ra thì lông con gì cũng làm bút được, mà ngay cả lông dê cũng được chia ra 6 thứ, trước hết là:
1.Bạch Tiêm Phong, thượng hạng, phải lấy lông chỗ nách, gần ngực con dê, chọn lông sợi to bao quanh, sợi nhỏ gom vào giữa.
2.Cước Trảo Mao là hạng thứ hai, phải lấy lông ở chỗ móng chân con dê, mà là lông ở phía sau, chứ không phải những túm lông đằng trước móng chân đê, chọn cho được những sợi lông nhỏ mà dài nhất, thì mới có được những cây bút tốt.
3.Phó Trảo Mao, loại nầy được xếp vào hạng ba, cũng phải nhổ lấy lông ở móng chân con dê, nhưng đây là thứ lông ở đằng trước, tuy cũng phải chọn thứ lông mịn và dài mới làm bút được,
4.Phúc Mao, hạng thứ tư. Lấy lông ở bụng, tuy là hạng tư nhưng cũng viết được, vẽ được.
5.Dương Tu là râu dê, nhổ hết hai hàm trên và dưới, quanh mõm con dê rồi cắt xén làm bút, thứ nầy xấu, viết không sướng tay.
6.Nhưng còn một thứ tệ hơn nữa là Bối Mao, loại nầy vặt lông trên lưng đê, vừa thô lại vừa cứng, nhưng giá tiền rất rẻ, với những người như chúng ta thì mang đến cho cũng còn giận chứ đừng nói đến sự bỏ tiền ra mua. Tuy vậy với các anh học trò khó thì cũng đành phải dùng tạm, có còn hơn không.
Nghe nói đến sáu loại bút trong một lúc, tôi thích chí nhưng cũng bị cái tính hay nghịch, thấy tôi hơi mỉm cười tướng Mông Điềm hỏi ngay.
– Các hạ cười cái gì vậy.
– Nghe tướng công bảo cho cũng giận, ở nhà tại hạ còn có câu, cho cũng gọi lính đến bắt.
Ông tướng cười ha hả, hẳn ông vui vì học thêm được một câu nói xấc hợp thời đại, bây giờ đến phiên tôi hỏi lại.
– Sao tướng công lại cười?
– Cười vì thấy một dân tộc mang nhiều tang tóc như quý vị, mà lúc nào cũng vẫn có thể nói đùa. Nhưng các hạ chắc cũng biết là đời có ba, bảy loại đùa chứ nhỉ, ba bảy lối chọc cười, phải làm sao cười mà không rơi vào sự thô tục mới đáng gọi là hay.
Tôi đồng ý, nhớ đến một đêm được mời đi xem hát tại Saigon, lúc vai hề ra, nghe mọi người cười gần vỡ rạp mà sao tôi vẫn ngồi yên, chẳng thấy có gì đáng cười. Ngay cả loại cười của người Hoa Kỳ, vứt chiếc bánh kem vào mặt nhau, cũng không làm tôi cười được. Cả những câu chuyện hơi thô, người ta cho là tiếu lâm cũng chỉ có thể làm cho tôi cau mặt chứ không thể cười. Hình như trong cuộc đời làm cho người cười được đúng mức còn khó hơn làm khóc. Đa số các bà hay tìm những phim tuồng, những trang tiểu thuyết lâm li để khóc, tôi cho là dại, nếu họ khôn thì chỉ nên đi tìm những phim nào, chuyện nào làm cho họ cười thì sẽ tăng thêm nguồn sinh lực. Tôi bỗng cảm thấy, thì ra mình cũng còn khôn, nghe cái gì buồn là trốn nằm nhà.
Mang những ý nghĩ của mình ra nói với tướng Mông Điềm, ông ta nhìn tôi một lúc rồi nói.
– Để bỉ nhân kể thử một câu chuyên xem các hạ có cười được không nhé.
– Xin tướng công cứ kể, có gì thì tôi sẽ mang về làm quà cho anh em, mà nếu có cười không nổi thì… cũng chẳng sao.
– Câu chuyện xẩy ra trên Nga quốc, một hôm các cán bộ Nga Sô được mời sang Hoa Kỳ, mỗi đêm sau khi ăn uống tiệc bàn, lại còn được mời đi xem ‘”show” thoát y vũ. Ban ngày thì đi viếng các hãng xưởng nhà máy… Từ Nasa đến Cape Canaveral, phim trường Hollywood đến Disneyland, các nhà chế tạo xe hơi, máy bay tàu thủy, súng đạn…
Cán bộ Nga Sô về xứ, họp nhau lại, và dầu có ghét đến mấy cũng phải công nhận rằng nền kinh tế của Hoa Kỳ quá phát đạt, mức sống của người dân quá cao. Các cán bộ đã vô cùng thắc mắc, ngày đêm bàn cãi, sau cùng tất cả đều “nhất trí” một sự. Có phải vì các cán bộ cũng như các kinh tế gia, kỹ nghệ gia đã nhờ vào sự mỗi đêm đi xem “show” thoát y nên mới được hăng say như vậy chăng, và nhờ ở sự hăng say ấy, nên công tác phát triển, sáng kiến hùng mạnh đó chăng?
Các đồng chí Y khoa, Tâm lý khoa cũng tỏ vẻ đồng ý chấp nhận sự kiện nầy, cho rằng nhờ thế mà những chất “Hà Nhĩ Mông” (hormone) được tiết ra làm cho con người trở thành quân bình hơn, trong số có những chất “Hà Nhĩ Mông” làm tăng trưởng sức phát kiến, sáng tạo. Tinh thần sảng khoái thì năng xuất của công tác sẽ phải gia tăng tự nhiên. Tuy đêm nào cũng thức mà không thấy mệt, mà nếu có mệt thì chỉ cần nốc một vài chai coca, trong ấy có chất làm tỉnh táo ngay, hoặc là một cốc cà phê chua vì có trộn nhiều sinh tố C… Chỉ có thế mà năng xuất vượt bực.
Vậy thì tại sao chúng ta lại không nghiên cứu để bắt chước, để làm tăng năng xuất của chúng ta? Vấn đề được đưa ra thảo luận nhiều lần, nghiên cứu kỹ lưỡng. Sau đó là một phiên họp bất thường gồm có nhiều phân khoa trưởng tham dự nào Y khoa, Dược khoa, Phân-tâm khoa v..v.. và cố nhiên là tất cả các đảng viên cao cấp của Trung Ương.Trước hết là đảng viên phải được học tập kỹ càng rồi sẽ đưa xuống các cấp dưới. Nhưng học tập là học tập thế nào. Bàn cãi mãi, sau cùng có một nữ đồng chí đã được xem phim và nghiên cứu. Bà đã xung phong, vì tinh thần đảng, vì tương lai của cả nền xã hội chủ nghĩa, vì uy tín của Liên Xô, vì tương lai nền kinh tế quốc gia, vì chủ nghĩa Mác Lê và Liên Xô vĩ đại, bắt đầu ngay đêm nay, mỗi đêm từ 10 giờ đến 12 giờ sẽ có màn thoát y do nữ đồng chí Nina Petrovna trình diễn.
Hoan hô tinh thần xung phong của nữ cán bộ gương mẫu đã vì nước, vì đảng mà sẵn sàng xung phong, mở màn thoát y cho các đảng viên cao cấp. Rồi đây chắc chắn là Liên Xô sẽ không còn thua kém Hoa Kỳ, sẽ phát triển đủ mọi mặt…
Sau chưa tới một tháng thì các đảng viên, ông nào cũng mệt đừ, lắm ông còn phát bệnh vì cứ phải thức đêm ngồi xem nữ đồng chí Nina Petrovna thoát y, với mục đích làm cho các đảng viên lên tinh thần để ngày mai còn phục vụ cho xã hội chủ nghĩa, để Liên Xô sẽ không còn thua kém Hoa Kỳ trong tương lai… Thế mà tại sao năng xuất không những không lên mà lại càng sút kém. Một đồng chí đã thốt lên lời phê bình: “không thể nào tin tụi tư bản được, chúng nó mà phát triển được như ngày hôm nay chắc phải còn những yếu tố gì bí mật mà ngay KGB của chúng ta cũng chưa biết, chứ không phải chỉ có mỗi một sự để cho cán bộ đi xem thoát y như chúng ta thế nầy mà thôi đâu… vả lại xem thoát y như thế nầy… thật chẳng ra gì…”
Mọi người đều đồng ý, hoan hô và cảm tạ lòng hy sinh cao cả, gương mẫu của nữ đồng chí Nina Petrovna, con người tuy đã trên 50 tuổi đảng, mà vẫn một lòng vì đảng, vì nền xã hội chủ nghĩa, thật đáng được tuyên dương công trạng và trao huy chương Lê-Ninh.
Tôi cười vang sau một hồi cố giữ yên lặng, hẳn tiếng cười của tôi làm cho mấy du khách quay đầu nhìn lại, không hiểu lý do. Tướng Mông Điềm không cười, chỉ đưa mắt nhìn lên lũ người ở phía dốc cao, rồi lại cúi nhìn xuống bên dưới. Người đâu mà lắm thế, nhưng liệu có ai vui bằng tôi trong giờ phút này.
– Các hạ hiểu chứ?
Tôi hơi nhăn mặt, chẳng lẽ ông ta nghĩ rằng tôi không hiểu sao, cái nhà ông tướng nầy cũng hơi khinh người, tôi hỏi.
– Có phải tại nữ đảng viên Nina Petrovna gia nhập đảng vào năm bà lên 20 tuổi chăng?
– Không, năm bà lên 25 tuổi mới gia nhập đảng, cho nên mặc dầu tinh thần cao, nhưng với bốn chục tuổi đảng thì… năng xuất của cán bộ khán giả nhất định phải sút kém.
Tôi còn muốn nghe nói thêm về cây bút, vì từ nãy đến giờ chúng tôi đã vượt ra ngoài đề tài quá xa. Lạ thật cả ông tướng lẫn tôi đều hay bỏ đề tài để nói chuyện gì đâu đâu. Cũng may, đây chỉ là một cuộc gặp gỡ giữa hai người bạn vong niên, không có sứ mệnh, trọng trách, tôi lại đặt câu hỏi, đưa câu chuyện trở về với cây bút
– Xin tướng công nói thêm về cây bút nữa đi, thì giờ ít mà sao chúng ta cứ nói ra ngoài đề.
– Các hạ thật dễ ghé, bộ câu chuyện của bỉ nhân không hay à? Sao mà không cười. Lúc nào cũng hồng hộc chạy theo thời gian, đúng là dân sống ở xứ Hoa Kỳ, người xứ cộng sản không hề đếm xỉa tới thời gian. Thảo nào trên những quốc gia giàu sang thường phát ra những bệnh trạng, suốt ngày ngồi trên xe, ăn đồ hộp…
Tôi đành im lặng, mỉm cười nhận khuyết điểm, nhưng vẫn phải giữ cái ý muốn bắt ông tướng nói thêm về cây bút.
– Nghe bảo có loại sói, lông nó dùng làm bút tốt lắm, phải không? Thưa tướng công.
– Thứ đó gọi là Lang Hào, phải dùng đuôi con lang, rồi phân sợi dài, sợi ngắn, sợi thô, sơi thanh mà làm các loại bút. Nhưng phải chờ đến mùa đông mà phải bắt cho được lũ sói cái, lấy đuôi nó làm bút mới tốt.
– Hay nhỉ, lần đầu tiên mới nghe nói đến sự ích lợi của giống cái, ngoài sự sinh đẻ sao thấy tuồng như giống cái chẳng làm được việc gi hay ho, ích lợi cho đời.
Tướng Mông Điểm cau mặt gạt ngang.
– Các hạ lại vọng ngôn rồi. Sự sinh nở làm tiếp nối giống nòi là một đại sự, một sứ mệnh vô cùng thiêng liêng, sao các hạ lại nói thế.
Tôi cúi đầu im lặng, ông tướng làm gợi nhớ đến ông thầy cũ của tôi, Đặng tiên sinh, người thầy cũ. May quá ngài tiếp tục sự giảng giải:
– Thứ ba là Thố Hào, loại bút làm bằng lông thỏ, vặt lông trên lưng chế thành bút cũng khá. Nhưng cũng phải đợi mùa thu và mùa đông, tìm thứ thỏ dại ở trên núi, thỏ nuôi nhà không dùng được. Bút này cũng được chia làm mấy hạng. Thứ nhất là loại bút với lông trên lưng, toàn mầu đen gọi là Tiêm Khẩu. Thứ hai là Lục Hoa, cũng vặt lông ở lưng mà là lông màu vàng, và lông ba màu. Thứ ba, loại bút lông nhiều màu vàng, ít màu đen gọi là Tam Hoa. Ngoài ra, các giống vật như giống ngựa hoang trên núi, chồn, đều có thể vặt lông làm bút nhưng không được tốt bằng các giống thú mà chúng ta vừa kể.
– Trong các thứ tốt, thứ nào tốt nhất?
– Tùy theo dùng để làm gì, vẽ hay viết?
– Người ta bảo ông Vương Hy Chi đã thử lấy râu chuột làm bút, có phải không?
Ông tướng có dáng suy nghĩ rồi như nói một mình, không cần tôi nghe.
– Ừ, Vương Hữu Quân, Thư Thánh… Lan Đình Ký viết trong lúc đang lên một cơn vũ bão tinh thần, sau đó thử lại mấy lần mà không thể nào viết được như thế nữa.
– Tôi có xem mấy phức bản đập vào đá ra, không biết có thật là nguyên tác? Như tướng công có nói, loài người khôn ngoan quá, tìm đủ cách để tráo trở, lấy chân thay ngụy, ngụy làm chân.
Ông tướng lắc đầu cũng có vẻ ngờ vực, tôi chợt có ý định sẽ đưa vấn đề hội họa ra, chắc có nhiều người sẽ thích thú lắm, nhất là Nam họa, để đấy, mà sao còn nhiều vấn đề quá thế nầy, nhưng tướng Mông Điềm đã tiếp nối câu chuyện bỏ dở vì bị tôi ngắt lời.
– Đáng tiếc là ngày nay loài người cần phải đốt thời gian, ít mấy ai chịu bỏ thì giờ để ngồi tập viết. Chương trình học cũng thay đổi, máy móc đã thay con người làm tất cả mọi việc…
Giọng ông tướng có vẻ bâng khuâng tiếc nuối, tôi thấy cần phải giải toả. Đến đây mới thấy sự khác biệt của người cõi âm mà lại là một nhân vật từ gần hai nghìn năm trước. Nhìn lại con người của chính mình, hồng hộc theo đuổi… sao mà quá u mê… Trời sắp ngả bóng, một vài giờ nữa tôi sẽ phải từ giã ông bạn vong “thiên niên” nầy để trở về với gian phòng trọ lạnh lẽo. Cũng như trong vài tuần lễ nữa, hết hạn đi chơi lại phải bay trở về với công việc, với các cô tranh sinh, với cái Ngõ Trúc thân yêu, từ một cành trúc bé nhỏ của các sư Tiểu Thừa ở Chùa Pháp Vân cắt cho, đặt trên bàn viết, chỉ trong bảy năm sau tôi đã gầy dựng thành mấy chục vị quân tử. Người ta bảo cây cỏ cũng biết yêu thương, hờn giận, nếu giờ phút nào mình đi xa mà nhớ đến nó là nó biết. Các khoa học gia đã chứng minh như thế.
– Sáng nay có mấy người đến hỏi có muốn đi xem các đền đài, cung điện Thiên An Môn… ngày giờ chật hẹp quá, làm sao đây?
– Chắc chắn là phải đi, nghìn năm một thuở, các hạ đâu có thể sang đây chỉ để mà gặp riêng một mình bỉ nhân, như thế thì quá đặc biệt, quá hân hạnh cho bỉ nhân….
– Sao lại không? Tướng công chưa biết tại hạ sao?
– Biết chứ, tôi còn biết cả cái tuần lễ mà các hạ sống ở Brasilia, lúc đi làm công việc… Chạy chọt cái hội nhà văn…gì đó. Hơi ngu đấy ai bảo mà đưa lưng ra, rán chịu.
– Sao tướng công hay quá vậy, tại vì thuở ấy khối cộng sản còn đang vững, các vị trí thức thiên tả cũng hơi nhiều. Người ta đã nói hẳn vào mặt tôi rằng hội Văn Bút quốc tế đã có nhiều hội viên lưu vong lắm rồi, họ không muốn nhận thêm một Việt Nam lưu vong nữa, hãy gia nhập vào khối Lưu Vong quốc tế là đủ.
– Thế tại sao không cứ vậy mà làm, có phải thông minh hơn không.
Tôi cúi đầu suy nghĩ, chắc chắn là ông tướng nói đúng, nhưng thuở ấy vì nghe những tin tù đày ở quê nhà, tôi quá uất ức nên cố vùng vẫy cho được. Sự khổ nhục thật vô cùng, khi mình chỉ có một thân sau lưng chỉ được vài người bạn ngoại quốc của gia đinh, các cô con gái. Nghĩ đến đây tôi thấy chắc hẳn có ngày cũng nên minh xác lại, hay là thôi, chỉ phải nhắc vài ba tên những người mà có lẽ ngày nay đã chết đó là Boris Glovacki, chúng tôi đặt tên là ông già cá, vì lúc vào hiệu ông ta thường gọi món cá; ông Serge Wourgaft tổng thư ký hội cựu chiến binh Âu châu, và nhất là Michel Voirol, nhà báo rất trung trực, láng giềng của chúng tôi và một người Hoa Kỳ là ông Robert Mueller… Ồ nói thế cũng chưa đúng, còn một số người nữa như bà chủ tịch lưu vong Hoa Kỳ mà chúng tôi thường chỉ gọi tên Clara suông thôi. Tôi không quên được đêm họp cuối cùng, trong buổi dạ vũ, Clara thấy tôi quá mệt mà ngày mai còn phải chịu trận nặng nhất, vì là ngày bầu cử, Việt Nam lưu vong chúng tôi có được đắc cử vào làm hội viên chính thức hay không, nếu không được thì quả là một sự bẽ bàng nhục nhã cho tất cả khối lưu vong. Clara thấy tôi đừ quá, bà ấy đến ôm tôi nói khẽ vào tai:”Đi lên phòng ngủ trước đi để chuẩn bị cho ngày mai, tôi sẽ ở lại nhảy với một số người và sẽ vận động giúp cho”. Thật cảm động và tôi vẫn nhớ, vẫn mang ơn. Cũng như bà chủ tịch Hàn quốc, mấy hôm đầu đã buồn rầu đến nói khẽ với tôi rằng: “Chúng tôi không thể bỏ phiếu cho you được vì hiện nay còn nhiều nhân viên ở tòa Đại Sứ Đại Hàn kẹt lại Việt Nam. Chúng tôi sợ họ bị khó dễ”. Nhưng rồi sáng ngày trước hôm bầu cử bà ấy đến ôm tôi nói khẽ vào tai: “Chúng tôi đã họp nhau, bàn cãi suốt mấy hôm may và quyết định là ngày mai sẽ bỏ phiếu cho you“. Nói xong bà ta đẩy vội tôi ra xa và đi tránh chỗ khác ngay, chỉ sợ mọi người trông thấy. Tôi nói lời cảm ơn nhưng trong lòng chỉ muốn khóc vì tủi nhục, không biết nợ nần gì mà phải vất vả, nhục nhã như người hủi, người lao, ai cũng sợ hãi, tránh xa… còn nữa, còn một số bạn bè mà chắc sau nầy tôi sẽ phải làm gì để tạ ơn.
– Các hạ bỏ bỉ nhân đi trở về với quá khứ hơi lâu đấy nhé.
Tôi giật mình, chợt nhớ, thì ra từ nãy đến giờ mãi u uất với quá khứ, với những kỷ niệm, với những người bạn bè xa gần, tôi quên mất hiện tại. Cũng lạ, có những ý tưởng rằng mọi sự đều dễ: “P.E.N quốc tế đã dành mọi dễ dàng mà giúp đỡ Minh Đức Hoài Trinh vì họ muốn chuộc lại cái lỗi lầm, và an ủi người cầm bút Việt Nam ở hải ngoại.” Sự thực, nhưng thôi cần gì phải nói. Những người chết trên biển cả, chết trong ngục tù biết là được rồi. Vì quả thật là những ngày giờ ấy, tôi đã khấn thầm với họ: “Các anh chết oan ức, xin hãy về tiếp tay với tôi” Ngày giờ nầy tôi vẫn nghĩ nếu không có những sự cứu giúp vô hình ấy thì chắc còn lâu mới có những gì để cho một số người có thể nghĩ rằng đấy là vì “…muốn chuộc những lỗi lầm và an ủi người cầm bút ở hải ngoại”.
– Các hạ hơi trẻ con, nhớ gì những lời nói của những kẻ… ấy. Cứ xem như là….
– Tướng công nói đúng, âu cũng là cái vận nước…
– Các hạ vẫn buồn, tại sao lại còn buồn nếu đã bảo là cái vận nước.
– Tướng công có lý, thôi ta đổi vấn đề, tướng công có thích hội họa không?
– Người biết viết, thích chơi các loại Tự như Đại Tự, Thảo Tự… đều có am hiểu ít nhiều về hội họa.
– Trong các họa gia, tướng công chuộng ai nhất?
– Bỉ nhân thích cũng nhiều tên, nhưng ưa nhất có lẽ là Thạch Đào, biệt danh Khổ Qua Hòa Thượng.
– Thạch Đào chỉ là mới sau nầy thôi, tại hạ tưởng rằng tướng công phải chuộng những Cố Khải Chi, Lý Tư Huấn, Vũ Đạo Tư, Nghê Tã, Vương Duy..
– Thì mỗi người có một lối, chẳng ai muốn bắt chước ai, nhưng ngoài nghệ thuật ra còn phải kể cả cái tính chất đặc thù của nghệ sĩ. Trong số có Trầm Thạch Điền, đời nhà Minh, có tác phong rất đặc biệt, các hạ muốn nghe không, tôi kể cho mà nghe.
– Xin tướng công cứ kể, cái gì mà tại hạ chẳng muốn nghe, tướng công cũng biết tại hạ làm nghề cầm bút…
Nghe nói đến hai chữ cầm bút, tướng Mông Điềm bỗng phá lên cười ha hả làm tôi trố mắt ngạc nhiên, không hiểu lý do.
– Các hạ làm tôi không thể nhịn cười được khi nghe các hạ bảo làm nghề cầm bút, tức là có những lúc kẹt tiền các hạ phải mang cây bút Mont Blanc đi cầm chứ gì. Nhà văn, cửa nhà có mỗi một cây bút mà phải mang đi cầm thì đáng thương thật, tội nghiệp cho các hạ sinh vào làm dân một nước mà…
– Ô hay sao tướng công biết câu chuyện bí mật nầy, chỉ vì tại hạ có chú em cũng thích chơi bút, hôm ấy kẹt tiền, tại hạ mang cái bút đi bán cho chú em. Sau khi mua xong chú ấy chỉ viết có hai dòng rồi đưa tặng lại cho tại hạ, bảo: “xem như chị cầm nó chứ không phải bán”.
– Để rồi vài tháng sau lại kẹt tiền lại mang đi cầm nữa chứ gì.
Tôi chỉ cười không trả lời, ai lại đi vạch áo cho người xem lưng bao giờ, chỉ cái nhà ông tướng cõi âm nầy mới có thể biết được chứ người đời làm sao biết nổi những bí ẩn riêng tư nầy.
– Các hạ có chú em như thế là may mắn lắm đấy nhé, gặp bỉ nhân à, bắt túng thiếu một lần, cho mà biết. Chừa cái tội mê sách.
Tôi bĩu môi lắc đầu, biết lâu rồi đã dám tự xưng rằng thiên hạ đệ nhất không giàu, chứ nói nghèo thì hơi vô lý, chỉ tại cái tôi mê sách.
– Thôi tướng công ơi, xin xếp chuyện đời tư của tại hạ lại, xin kể chuyện anh chàng họa sĩ họ Trầm ấy đi, tại hạ cũng có người bạn gái họ Trầm, tên nàng là Xuân Hương…. người thật dễ thương, nhiều đức tính.
Tướng Mông Điềm vuốt râu có vẻ suy nghĩ rồi nhắc khẽ.
– Trầm Xuân Hương, cái tên khá hay, chắc người cũng phải đẹp như tên, anh chàng hoạ sĩ của tôi là Trầm Thạch Điền, nói đến cái lòng tốt của anh ta thì suốt ngày cũng không hết. Chẳng hạn một hôm nhà hàng xóm để thất lạc đâu một món đồ đạc gì trong nhà. Nhìn thấy bên nhà ông hoạ sĩ cũng có món đồ giống hệt, ngỡ rằng ông ta đã ăn cắp của nhà mình, cho người sang đòi, Trầm họa sĩ thấy họ đòi thì cũng đưa, chẳng nói năng gì, chỉ mấy hôm sau nhà láng giềng tìm ra được món đồ, xấu hổ quá lại mang sang trả và xin lỗi, nhà họa sĩ chỉ mỉm cười nhận lại, không nói thêm một lời gì, các hạ thấy con người như thế có tốt không?
Tôi gật đầu nghĩ đến Trầm Xuân Hương, chắc phải có họ hàng gì với nhà họa sĩ nầy. Thấy tôi im lặng, tướng Mông điềm nói tiếp.
– Các hạ đang nghĩ đến Trầm Xuân Hương đấy à? Ông chồng cũng dễ thương nhỉ, hiếm có những đôi vợ chồng như thế ở thời nay. Đúng vậy không.
Tôi gật đầu mỉm cười, nghĩ đến cái phòng mạch của ông chồng, lúc nào cũng đông mà “chùa” rất nhiều. Chính tôi cũng hay đến “chùa” một vài khi, nhưng lắm khi cũng không dám. Người ta càng tốt mình càng ngại chẳng biết kiếp sau làm sao mà trả.
– Lại còn một câu chuyện nữa cũng độc đáo không kém, kể nốt cho các hạ nghe để ngày về có “cầm bút”.
Tôi cười, biết ông tướng nhắc chuyện mình đã mang bút đi cầm, tôi nói.
– Xin được nghe nốt.
– Ông ta còn lấy một biệt hiệu nữa là Trúc Cư Chủ Nhân, vì nhà ông ta ở cạnh khu rừng trúc, rất thích nghe tiếng gió thổi làm giao động những cành trúc và thường chờ khi trời đổ mưa nhẹ để đi dạo dưới rừng trúc. Mỗi lần xuân đến, ông thường ngồi suốt nửa ngày nhìn măng mọc. Hẳn các hạ biết chỉ cây trúc mới cho người nhìn thấy được sự lớn dần của mình. Chẳng còn có cây nào mà các hạ nhìn thấy được nó lớn ngay trước mắt như thế. Đây cũng là một đặc điểm, lý do vì sao mới được người đời phong làm Đệ nhất quân tử trên cả các thứ Mai Lan và Cúc chứ.
– Thích nhỉ, tại hạ cũng có thể tạo một khu rừng trúc, chỉ trong vòng nửa giờ, gọi là tiểu Trúc Lâm. Để cũng có thể ngồi nghe gió thổi, hoặc là tĩnh tọa thính vũ thanh như cái nhà ông họa sĩ của tướng công vậy, một vấn đề là nó hơi nặng nề, giá có đôi cánh tay của một chàng lực sĩ thì dễ dàng cho công việc xê dịch, biến thành Trúc Lâm được nhanh chóng hơn.
– Các hạ hơi tham lam đấy.
– Xin nói nốt về ông tướng họ Trầm ấy đi, tại hạ còn phải nghe mà thời gian càng ngày càng co rút.
– Ông ta là nhà họa sĩ nổi danh nhất thời. Sáng nào nhà chưa mở cửa mà dưới bến sông Tô Châu đã chật cả thuyền của khách đến mua tranh. Do đó nên có một số họa sĩ cỡ hạng ba, hạng tư đã bắt chước giả lối vẽ tranh của ông để bán lừa khách, kiếm tiền. Trong số ấy có một người đã hoàn toàn sinh sống bằng nghề giả mạo nầy. Một hôm bà mẹ ông ta ốm nặng cần có tiền, một số tiền khá lớn mà chẳng biết làm sao, ông ta bèn vẽ lên một bức tranh, bắt chước hoàn toàn lối vẽ của Thạch Điền, rồi sai con mang đến nhờ Thạch Điền ký và đóng triện vào, kể lể nỗi niềm. Thạch Điền vui vẻ viết thêm mấy câu thơ vịnh cảnh, ký tên và đóng dấu. Nhờ đó mà tranh bán được ngay một số tiền đủ thuốc men cho mẹ và bà mẹ thoát bệnh. Các hạ có thấy đó mới đáng tôn làm bậc chính nhân quân tử không?
– Nhà Phật chúng tôi gọi đó là tâm Bồ Tát, nhưng tại sao ban nãy tướng công bảo thích Thạch Đào, Khổ Qua Hoà Thượng.
– À đấy là thích cái kiến thức của ông ta, thích cái tác phẩm Họa Phổ của ông ta, không phải chỉ nói đến hội họa mà còn nói đến triết lý, về cái quan niệm nhân sinh, vũ trụ, các hạ nên về nhà tìm mà đọc.
Tôi đồng ý, nghĩ đến hành trang sách vở ngày về chắc sẽ nặng nề lắm, tôi hỏi tiếp.
– Tại sao lại chọn cái biệt danh là Khổ Qua hòa Thượng?
<– Tôi nghĩ rằng chúng ta nên lấy lời giải thích của Khuất Đại Quân, một nhà bác học sống vào thời đại ấy, ông ta giải thích rằng:“Khổ Qua, nhất danh quân tử, kỳ vị thậm khổ, nhiên tạp tha vật trữ chi, tha vật phất khổ, tự khổ nhi bất dĩ khổ nhân, hữu quân tử chi đức yên”.
– Xin tướng công giảng rõ đi, tại hạ sợ không đủ sức dịch ra cho sát nghĩa chăng.
Ông tướng thấy tôi cũng biết chịu thua nên vui lòng dịch ngay. Đời phải có lúc thua lúc thắng chứ cứ đòi thắng hoài, chắc rồi ai cũng bỏ chạy. Tướng Mông Điềm tằng hắng giọng đọc lên.
– Khổ qua còn tên là quân tử, vị nó rất đắng, nhưng nếu mang nấu lẫn với các món khác thì những món ấy lại không bị đắng. Chỉ để mình nó chịu đắng khổ mà không cho các vị khác phải khổ theo, đó là cái đức của bậc quân tử vậy.
Tôi cau mặt suy nghĩ hình dung ra quả mướp đắng, nói chuyện với cái nhà ông tướng nầy thật là có thể học thêm từng giờ, từng phút. Xứ ta có bao giờ ai ăn khổ qua mà biết suy luận những điều nầy nhỉ.
– Khổ qua là mướp đắng.
– Ừ, gọi là dưa hay là mướp cũng vậy, quý quốc gọi là mướp, bản quốc thì cứ gọi hết cả các thứ ấy là dưa cho nó tiện.
– Tướng công nghĩ gì về ngành hội họa ngày nay?
Ông tướng mỉm cười hỏi tôi có biết chuyện: “Bộ áo mới của nhà vua không?
– Có phải chuyện của Andersen, nhà văn Đan Mạch ở thế kỷ trước chứ gì.
– Đúng đấy, người ta hay nói với câu “Ông vua ở trần” để nhắc lại câu chuyện chứ chẳng ai nói rõ tên chuyện.
– Tướng công trả lời tại hạ như vậy là sao?
– Các hạ hỏi kỹ quá, sao bắt bĩ nhân cứ phải nói lên những gì mà bỉ nhân không muốn lập thành lời.
– Xin lỗi tướng công chứ tại hạ không đồng ý với tướng công ở điểm nầy. Hội họa ở mỗi thời đại phải mang cái tính chất của nó, mang cái tầm ưu tư và suy tư của xã hội nó đang sống, của người nghệ sĩ. Tướng công phải chịu đặt mình vào niên đại đó, xã hội đó, chứ đang thời buổi bây giờ mà tướng công bắt phải giữ cái tầm cảm xúc của mấy nghìn năm trước. Nếu bảo văn là người thì họa cũng là người và người làm sao thì phải để cho họ nằm chiêm bao làm vậy…
Ông tướng nhếch mép hơi cười rồi gật đầu hơi có chút suy nghĩ.
– Xin đồng ý với các hạ, xin được rút lui cái ý nghĩ chật hẹp của bỉ nhân lại, và đề nghị chúng ta nên đổi câu chuyện.
Tôi còn muốn trêu tướng Mông Điềm nên nhắc lại câu chuyện ông họa sĩ Trầm Thạch Điền nầy một lần nữa.
– Tướng công có biết là xứ Hoa Kỳ, có vùng Nam Cali, từ khi tỵ nạn Việt-nam đến lập Thủ Đô tại đấy thì vùng Cali, nhất là quận Orange đã trở thành một nơi khá lừng lẫy, kinh động. Cái nhà ông họa sĩ họ Trầm của tướng công, nếu đưa đến cho sống ở tại quận này thì chắc chỉ vài tháng là ông ta phải thay đổi.
– Tại sao vậy, người ta bảo là dời quốc gia, nết na không dời mà, các hạ không nghĩ như thế sao?
– Khó mà giải thích được thành lời, xin tướng công cứ dời gót sang viếng cái quận ấy rồi tự nhận xét lấy.
– Vậy sao? Chẳng hóa ra người Việt Nam của quý quốc nhiều mưu thần chước quỷ lắm sao. Bỉ nhân không tin đâu, các hạ về xét lại đi.
– Tôi chợt nghĩ đến một chú nghệ sĩ nói với tôi cái ý nầy trong một buổi gặp. Chú ấy bảo rằng người ta rủ em sang Cali sống mà em sợ quá, sợ thay đổi tính nết vì phải bon chen. Ừ mà chú ấy làm cái nghề ca sĩ nên mới phải bon chen chứ đôi bạn Văn Thế Xuân Hương của tôi, Cửu Lâm Liên Hương của tôi, Ái Liên và Tân của tôi… đâu có vậy. Những con người ấy cũng sống cả chục năm hơn trên đất Cali nào có thay đổi gì. Chắc tại cái đất Cali nó chứa chất nhiều hồn oan ma quái, nó khiến cho con người ta ai tốt thì thật tốt, ai giỏi thì thật giỏi, mà người nào độc địa, ác hiểm, tham lam, hư hỏng thì cũng lên hạng vô địch, tướng công có nghĩ như thế không?
– Thì cũng chỉ là một thứ cam nước Việt qua trồng đất Ngô, nước Tần trồng đất Sở chứ gì. Con người cũng vậy, nhất là anh chị nào còn nhiều chất sân si, háo thắng, nhiều tự ái.
Tôi cau mày suy nghĩ, hẳn tướng Mông Điềm nói có phần đúng, trong ba miền, Việt-Miên-Lào của xứ Đông Dương, thì xứ Việt đi đâu cũng đè đầu đè cổ người ta. Giá tâm sự được với ông tướng này, nhờ ông đi tìm lại các anh hùng liệt sĩ của xưa đâu cả rồi, những Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi, Ngô Thời Nhiệm, Nguyễn Huệ… các vị ấy đi đâu cả mà bỏ ngỏ quê hương, để cho cái lũ ma quái nó múa men phá phách, hại dân hại nước, sao các ngài không nóng gan nóng ruột.
– Mệnh nước. Các hạ đừng nên suy nghĩ quá nhiều, chẳng làm gì được đâu, cái gì cũng phải có thời điểm, chúng ta đã nói từ ban nãy rồi cơ mà: “to everything there is a season…”
– Ừ nhỉ, nhưng rồi đành chịu bó tay giương mắt nhìn vậy sao?
Ánh nắng hầu như đã bắt đầu thoi thóp, nhìn giờ, chắc phải tính chuyện chia tay, trả người về cho cõi âm. Nếu tôi kéo dài câu chuyện thì sẽ trật chuyến xe như hôm qua. Chưa nói thì tướng Mông Điềm đã hiểu và đã lên tiếng giục.
– Các hạ lo về đi, ngày mai chúng ta sẽ lại gặp, đừng đến muộn quá, thời gian qua nhanh mà chúng ta còn bao nhiêu là chuyện để nói với nhau, nếu các hạ cùng một ý nghĩ như bỉ nhân.
Tôi nghĩ thầm, ngài thúc tôi thế nầy chắc phải có lý do. Hẳn phu nhân đang chờ cơm ở nhà chăng, hay ngài sắp phải đi làm việc, hay đi họp một cuộc hội nghị giữa các tướng lãnh. Chưa đặt câu hỏi thì tướng Mông Điềm đã nói.
– Điều các hạ đang nghĩ là đúng, rồi bỉ nhân sẽ có những cuộc hội nghị quan trọng, liên can đến vận mệnh nhiều lớp tuổi trẻ của bản quốc, những người thuộc giai tầng trí thức, đang sắp có một cuộc biến chuyển nặng nề.
– Cuộc biến chuyển gì vậy, xin tướng công nói rõ.
Tướng Mông Điềm mím môi lắc đầu.
– Thiên cơ bất khả lậu, các hạ sống nơi đô thị, bị nhiều khói ô nhiễm chứ ở nơi thôn dã và nếu có m