PHẦN II - 1 -
– Các hạ hà thái trì? (sao chậm vậy)
Tôi giật mình, sáng nay mải đi tìm mua mấy cái bút nên đến Trường Thành hơi muộn. Tướng Mông Điềm đã chờ ở đấy, tôi vừa đến chỗ hẹn, đang ngơ ngác nhìn từ trên xuống, những vạt cỏ xanh đang chờ đợi ánh mặt trời.
– Tướng công hà thái tảo? (sao ông đến sớm vậy?)
Tướng Mông Điềm biết tôi muốn trêu nên mới trả lại câu hỏi, dùng lối cổ thi để đối đáp. Có gì lạ đâu, tôi là khách từ phương xa, còn bao nhiêu thứ cần xem, tướng Mông Điềm là chủ nhà, có gì lạ nữa đối với ông, nên ông phải chịu chờ. Bắt được một người khách từ phương xa đến để nói chuyện, chắc ông ta cũng thích thú, hẳn đêm qua ngài ít ngủ, nếu người cõi âm cũng cần ngủ.
– Hôm qua các hạ về nhà bình yên chứ?
– Tại hạ về, thấy trời chưa tối nên có ý định ra phố mua sách mà người ta bảo phố bán loại sách ấy ở rất ra, mà đã đóng cửa, thế là đành chịu vậy.
– Các hạ phải bớt cái bệnh mê sách đi chứ, về nhà đổ nợ ra đấy.
– Nghìn năm một thuở, đời của tại hạ ngày nay chỉ còn ba thứ để say mê là sách, nhạc và cỏ cây.
– Ba vị quân tử, còn đòi gì nữa.
Tôi chợt nhớ đến câu chuyện nói về chữ Ngụy quân tử hôm qua, sáng nay lúc vừa thức giấc tôi nằm suy nghĩ trong đám bạn bè, ai đáng được gọi là quân tử, may quá cũng còn tìm được vài người.
– Xin tướng công định nghĩa hai chữ quân tử, xem hai cõi âm dương có suy nghĩ giống nhau.
Tướng Mông Điềm lắc đầu, hơi mỉm cười.
– Khó mà cho một định nghĩa ngắn, trong Kinh Dịch quẻ Càn có câu: “Quân tử chung nhật càn càn” có nghĩa là người quân tử suốt ngày nỗ lực không đám lười, từ việc trau dồi đức hạnh, làm điều ích lợi cho mọi người, đọc sách… Mỗi sách đều có một định nghĩa mà đại ý là như thế. Nếu mang một nhân vật điển hình ra mà nói thì có kẻ đưa Văn Vương, có người đưa Khổng Tử. Đó là những bậc vĩ nhân quân tử, ngày nay được gọi là quân tử, không bị đòi hỏi tuyệt đối đến như vậy nữa.
Tôi như chợt gặp được một làn ánh sáng. Tôi vẫn thích cái nhân vật Văn Vương ấy, nhân đây phải đặt vài câu hỏi để hiểu biết thêm.
– Xin được nghe nói về Văn Vương.
– Nói về cái gì mới được chứ? Nói về bà mẹ, vì ông ta là người con chí hiếu, mà người mẹ ấy cũng là một nhân vật hiếm có. Bà đã dùng Dịch Kinh để theo dõi cuộc đời của con, cố nhiên là thời ấy chỉ nói đến Tiên Thiên, về sau khi Văn Vương bị tù tại Dữu Lý mới chỉnh đốn soạn ra Hậu Thiên… Hay các hạ muốn tôi nói đến cái tâm trạng của người cha lúc phải ăn bát cháo nấu với thịt của con trai mình. Biết rằng Trụ Vương đã giết Bá Ấp Khảo, bắt mang nấu cháo đưa đến buộc mình phải ăn, mà vẫn phải ăn.
– Bá Ấp Khảo chết chỉ vì cái tội đàn cầm quá hay, có đúng vậy không?
– Một phần thôi, một phần vì quá thương cha mà không chịu chờ đợi theo lời của cha, dặn đừng đến Kinh Đô Triều Ca, hãy chờ 7 năm cha sẽ trở về, Bá Ấp Khảo quá nôn nóng, cứ liều ra đi, bị con yêu Đắc Kỷ nó mê tiếng đàn, nó đòi học, không nghe lời nó dụ dỗ, quá đứng đắn nên bị nó phao cho cái tội khi quân, dám tán người đẹp của vua. Mà các hạ có biết đó chỉ là một thứ mưu kế phổ thông và tầm thường nhất của người đàn bà đẹp, tức giận vì thấy cái nhan sắc của mình vô hiệu quả nên đã đổi chiến thuật chứ có gì đâu. Hay các hạ muốn nghe cuộc gặp gỡ đầu tiên của hai đại quân tử là Văn Vương và Thái Công Vọng.
– Cái gì tôi cũng muốn nghe, đề tài nào cũng bắt phải suy nghĩ, bà Thái Khương quả là đặc biệt, hình như bà cũng giỏi về Dịch Lý như con trai là Văn Vương, nhưng ai đã dạy cho ai, mẹ dạy cho con hay con truyền cho mẹ. Bà biết trước mọi sự cát, hung sẽ xảy đến và đã báo cho văn võ triều thần biết, khi Văn Vương đang còn trong tù.
Tướng Mông Điềm gật gù hài lòng, nhận thấy người đối thoại cũng có chút chịu khó bỏ thì giờ nghiên cứu sử sách.
– Các hạ chịu khó đọc, khá đấy. Ở đời mà muốn tiến thì chỉ có đọc sách và làm điều thiện. Chính ra vai trò của người mẹ quan trọng vô cùng, con có làm nên, có là người hiền hay không đều nhờ đức mẹ. Những người mẹ quá lo nhan sắc, quên trau dồi đức độ thì con chẳng nên cơm cháo gì, giỏi lắm là cái máy làm tiền mà thôi. Bà Khương Thị quả là người đàn bà vô cùng đạo đức, biết dạy con, nhờ bà nên chúng ta mới có Văn Vương.
– Con người ấy lại còn biết đàn cầm để mỗi khi buồn nhất, là lúc bị cầm tù tại Dữu Lý.
– Các hạ chỉ chú trọng có mỗi một việc bé nhỏ ấy sao?
– Tướng công cho đó là bé nhỏ sao, theo tôi thì âm nhạc đã dự một phần rất quan trọng trong cuộc sống của mỗi con người. Tôi nhớ hình như trong cuộc đời của Khổng Tử cũng có lần đang tấu cầm mà thấy Văn Vương hiện về…
Tướng Mông Điềm mỉm cười giảng hòa, ai lại mới sáng ngày ra gặp nhau chưa gì đã có sự trêu gan nhau. Tôi bình thản nói tiếp.
– Trêu gan tôi thì tôi sẽ bắt nói về Lục Thao cho mà biết tay.
– Nghề của chàng mà, sợ gì.
– Nghề của chàng, Tướng công mà cũng biết chữ ấy sao? Tôi tưởng chỉ có người Việt Nam sau nầy mới dùng, chứ đời bố mẹ tôi cũng chẳng hề biết.
– Đi với Bụt mặc áo cà sa.
Tôi bật cười, cố nhiên không chịu nhận mình là ma nên nói gài một câu cố ý trêu chơi.
– Xin tướng công khỏi cần nói câu sau.
– Các hạ tự nhận mình là Bụt à. Con của Bụt thôi.
Giọng tôi trầm tĩnh làm y như mình là con của Bụt thật. Tướng Mông Điềm vui cười, câu chuyện từ nghiêm trang đổi sang đùa nghịch.
– Thì thôi để tôi nói đến câu chuyện gặp gỡ giữa hai người quân tử cho La Hầu La, con của Bụt nghe nhé.
– Tướng công cũng biết La Hầu La là con của Bụt nữa à?
– Ai mà không biết…
– Ờ nhỉ, tướng công là người cõi âm, cái gì mà chẳng biết, nhưng coi chừng về sau La Hầu La cũng đi tu, cũng thành Bồ Tát rồi đấy, thôi xin tướng công cứ giữ lối xưng hô cũ.
– Các hạ yên lòng – tướng Mông Điềm nói xong mấy chữ thì ngừng, im lặng một lúc, chắc đang tìm lời mở đầu.
Tôi tinh nghịch nhắc, gợi ý:
– Phi long, phi ly, phi hùng, phi bi, sở hoạch Bá Vương chi phụ.
– Ô hay, sao các hạ đoán đúng ý của tôi thế.
– Đi với Bụt mà.
Ông tướng cười, vuốt hàm râu, bộ râu được trau chuốt kỹ càng hơn ngày trước.
– Ừ nhỉ, trước khi đi săn, ngày hôm ấy, Văn Vương gieo một quẻ bói thì ra như thế, hôm nay sẽ săn được một vật không phải rồng (long) không phải Ly, không phải gấu đực (hùng) cũng không phải bi, một loại gấu khác.
– Gấu cái chăng.
– Có thể, sở hoạch Bá Vương chi phụ.
– Mà sẽ được một người giúp cho để làm nên sự nghiệp Bá Vương, có phải đại khái là nghĩa như vậy không?
<– Tạm được, tôi thích nhất là cái tư chất của con người Tây Bá ấy, thuở ông còn là một chư hầu chưa mang tên Văn Vương, khi ông bỏ Trụ Vương trốn về xứ mình, bị quan quân của Trụ Vương đuổi theo. Thật là nguy hiểm, đúng với câu: “Ngưỡng diện cáo thiên, thiên bất ngữ. Đê đầu tố địa, địa vô ngôn”.
– Xin tướng công ngừng để cho tại hạ ghi câu nầy, có nghĩa là ngước mặt lên muốn nói với trời mà trời không đáp một lời, mà cúi đầu xuống than với đất, đất cũng im lặng. Hay thật. Nhưng cái tâm trạng nầy chắc hẳn những tù nhân của cộng sản đều gặp phải, thật đáng thương.
– Các hạ cũng lạ nhỉ, nghe câu gì, lúc nào cũng nhớ đến mấy người tù cộng sản. Hẳn các hạ còn nhiều gia đình bị kẹt lại lắm chăng?
– Tại hạ còn cả nước, tất cả dân tộc đều là thân ruột, mục đích tại hạ sang đây, tuy không có nhiều tham vọng cao quý như các bậc chính khách Việt Nam từ trước đến nay…
Nói đến đây, tôi thấy ông tướng nhếch mép cười, nụ cười bí hiểm, không hở răng, tôi cau mặt, không hiểu nổi nụ cười có ẩn ý gì, tôi tiếp tục nói hết ý mình.
– …Tại hạ xin lỗi đã cắt đứt câu chuyện, chắc rằng ngày về mà có viết lên thành bài, thì lúc đọc đến đây sẽ có một nghìn lẻ một người nôn nóng, mong muốn tại hạ đặt ngay một câu nói ngay một lời với tướng công…
– Lời gì? Câu gì? Sao chưa nghe các hạ nói.
– Còn cả tuần lễ, chuyện đâu còn có đó, tại hạ còn gặp tướng công. Xin cứ nói nốt về Tây Bá, dầu sao những buổi nói chuyện nầy cũng có những phần bổ ích khác. Tại hạ không phải là quân nhân trong kiếp nầy. Khí giới của tại hạ chỉ là một cán bút nhỏ bé, tuy vậy cách 13 năm trước ngày còn ở Paris, có một đêm tại hạ ngủ mơ thấy cây súng của mình sao bỗng biến thành cây đàn mà lại có chạm khắc vàng với ngọc, tại hạ viết thư kể cho một người bạn ở Việt Nam, sau đó quên bẵng đi và chính người ấy đã viết thư nhắc lại cho mới nhớ, mà bây giờ mỗi khi nhớ thì những hình ảnh lại thật rõ rệt… Nhưng thôi làm mất thì giờ, xin được nghe thêm về con người đệ nhất quân tử ấy.
– Tây Bá có rất nhiều tình cảm, khi ông phải lìa con ngựa, ông đã vỗ về, nói những lời xót xa: “Mã, phi Xương bất nhân, xá nhỉ xuất quan, nại khủng truy binh phục chí, ngã mệnh nan đào, ngã kim biệt nhỉ.” Vì con ngựa nầy đã theo ông trong suốt 7 năm hoạn nạn nên ông không muốn lìa, mà hoàn cảnh bắt buộc, đành phải thốt ra những lời giã thiết ấy, các hạ hiểu cả chứ?
– Ngựa ơi không phải Xương nầy bất nhân, bỏ mi ra khỏi quan ải một mình, nhưng truy binh sắp tới, mệnh ta sẽ khó thoát, hôm nay ta phải giã từ mi… Tạm dịch như tướng công nghe được không?
Tướng Mông Điềm nhếch mép hỏi lại.
– Các hạ có biết ngạn ngữ Anh quốc có nói “thả cần câu lời khen” không nhỉ?
– Fishing compliments, tướng công thật là thông kim bác cổ, nhưng tôi đâu có thả cần câu, chỉ sợ dịch sai vì…
– Traduttore… traditore.
– Đúng, dịch thế nào cũng khó tránh vài phần phản bội. Mà sao tướng công là người Á, chưa sang Âu mà biết về Âu nhiều quá vậy?
Tướng Mông Điềm chỉ mỉm cười, không trả lời, hẳn ông không muốn nhận lời khen. Tôi sợ phí thì giờ nên phải vội dục:
– Rồi sao tướng công, khi hai người quân tử gặp nhau, nói gì với nhau?
– Một người ngồi câu cá, biết là người kia đã đến gần nên ngâm lên mấy câu:
Tây phong khởi hề, bạch vân phi
Tuế dĩ mộ hề tương yên vi
Ngũ phượng minh hề chân chúa hiện
Thùy cán sâu hề tri ngã hy
Các hạ có giỏi thì dịch 4 câu nầy ra, bỉ nhân sẽ…
Tôi cắn môi, giá bố tôi còn sống, thì ngài sẽ đủ tài mà “gà” cho con gái ngay, khốn nổi, bố đã chết. Nhưng tôi cũng khấn thầm… ‘Bố ơi về giúp con…” À thì ra người xưa, từ thời Âu Cơ, Lạc Long Quân đã nghe câu gọi bố như tôi đang gọi. Đúng như lời ông đặn lại với bà Âu Cơ, trước khi ông về Thủy Cung.
Gió Tây chừ nổi, mây trắng bay.
Tháng năm chừ tàn, làm chi đây?
Bầy Phượng chừ ca, mừng chân Chúa.
Thả cần câu chừ, ai có hay.
Ông tướng dậm chân khen.
– Tạm được đấy, chưa quá một phút đã uốn ra thành vần, chưa sát nghĩa lắm nhưng giữ được ý thế cũng là đủ rồi, không đến nỗi phản bội.
Tôi mỉm cười, nghĩ đến bố tôi, ngày xưa ông già rất yêu thi văn, đã từng sáng tác rất nhiều bài thơ bài ca, bài văn tế nhưng lại không muốn để người ta biết mình là tác giả. Lạ nhất là có nhiều người đã biết sự thật là như thế, nhưng vẫn cố ý làm ngơ.
Thấy tôi im lặng đang mải suy tư về hành vi của một vài vị học giả.
– Các hạ đang nghĩ đến bài ca Nam Bình “Nước non ngàn dặm ra đi” đấy chứ gì?
Tôi cau mày nhìn ông tướng rồi mỉm cười hỏi lại, muốn đặt vấn đề với một người hoàn toàn đứng ngoài câu chuyện.
– Theo ý của tướng công thì sao? Tác giả có nên dấu diếm như thế không? Có người gọi đó là thái độ đánh lừa lịch sử. Ý của bố tôi thuở ấy thì ông muốn bắt mọi người tin rằng bài ca Nam Bình mang tên ‘Nước non ngàn dặm ra đi” ấy là của Huyền Trân công chúa viết ra.
– Các hạ cho tôi được đặt lại một câu hỏi, nếu Huyền Trân Công Chúa đã viết ra thì bà ấy viết bằng chữ gì? Chữ Nôm chăng, theo tôi biết thì thời ấy chữ Nôm chưa phổ biến đầy đủ. Chữ Hán chăng? Nếu có chữ Hán thì nguyên bản đâu? Chỉ một câu hỏi ấy thôi đủ cho chúng ta thấy rằng mọi người đã không suy nghĩ. Đến bài Hịch viết cho quân lính mà tướng Trần Hưng Đạo cũng phải viết bằng Hán Văn… Dư thường văn chi… để rồi có người dịch lại. Ngay cả Thạch Xuyên, tác giả bài ấy cũng nói dối thiếu kỹ thuật. Bố con nhà các hạ hơi coi nhẹ mọi người đấy, như thế là láo. Với những phường sân si, u mê, ganh tị, thì muốn láo xược thế nào cũng được nhưng với những người thật tâm suy nghĩ, sưu tầm thì đó là một sự lừa dối, xem người ta như con cháu mình, muốn nói gì thì nói, không được.
Tôi gật gù nhận thấy ông tướng nói cũng có lý, nhưng tôi đã có lần nghe bố tôi phân trần khi tôi đặt vấn đề với ông. Bố tôi bảo rằng, cứ để cho người ta tin như thế, cho người ta nghĩ rằng bà Công Chúa Huyền Trân ấy đã sáng tác ra, chứ nếu nói sự thật thì nó sẽ kém ý nghĩa.
Tướng Mông Điềm nói tiếp, chắc để bênh vực sự suy luận của mình.
– Các hạ cứ xem ngay bài thơ của Nguyễn Khuyến: “Rượu ngon không có bạn hiền, không mua, không phải không tiền không mua”, chính ông ta có viết bản chữ Hán mà hai câu ấy là:
Hữu tửu vi thùy mãi
Bất mãi phi vô tiền
Hữu tín vi thùy tả
Bất tả phi vô tiên.
Bây giờ hỏi lại các hạ, nếu mang ra thử một câu “Đắng cay vì, đang độ xuân thì…” Xin các hạ hãy dịch ra Hán văn cho bỉ nhân nghe chơi.
Tôi lắc đầu chịu thua, nhưng trong lòng thầm nghĩ, ông tướng nầy vừa cho ta một ý kiến khá hay. Tôi sẽ về lấy nguyên tác của Thạch Xuyên rồi dịch ra Hán văn, mang tung lên báo, để cho những ông học giả, học giả thật ấy, được một phen thi thố tài năng một lần nữa cho vui cửa vui nhà. Mặc dầu ông anh tôi thường phàn nàn rằng hình như bố không thích cho chúng ta nói lên, làm trái ý bố, mỗi lần anh viết những bài có liên quan đến bố, hoặc đến cái văn nghiệp của bố là bài ấy bị thất lạc, hoặc báo đóng cửa hay gì gì đó. Ông anh cho rằng người chết không muốn, tôi chẳng tin, tuy rằng đến các bản thảo của bố cũng bị người thân mang dấu đi, để thất lạc và bây giờ muốn tìm lại cũng không thể được, còn chăng chỉ là trong trí nhớ của mỗi anh em chúng tôi mà thôi, đây cũng là kết quả của những cuộc biến động, đảo loạn lòng người.
– Nhưng chúng ta đã đi ra ngoài đề tài câu chuyện quá xa, chúng ta đang nói đến cuộc gặp gỡ của hai bậc quân tử, xin tướng công nói tiếp.
– Ừ nhỉ chúng ta hay đi ra ngoài đề. Sau bài ca của Khương Thượng, Cơ Xương đến gần hỏi một câu rất tầm thường nhưng mang đầy ý nghĩa: “Hiền sĩ khoái nhạc hồ?” (người hiền thích nhạc chăng?)
– Tại sao lại hỏi câu ấy nhỉ, có một vài sử sách ghi khác cơ…
– Các hạ hãy chịu khó nghe cho hết, rồi chúng ta sẽ bàn cãi sau. Cơ Xương hỏi câu nầy vì trước đó ông đã từng nghe nhiều bài ca khác, cũng do những người đốn củi ca hát mà mỗi lần hỏi tác giả là ai, mọi người đều bảo là của Khương Thượng. Có những câu làm cho Cơ Xương phải chú ý chẳng hạn những câu như: “Tẩy nhĩ bất thính vong quốc âm” (rửa tai, không nghe những âm thanh vong quốc).
– Thế nào là Vong Quốc âm, tướng công có thể giảng thêm.
Ông tướng nhìn tôi hơi có chút ngạc nhiên, tôi không hiểu ý nên cũng nhìn lại, âm và dương đã dùng mục ngữ để đối thoại, nhưng phận người cõi trần đâu có đủ sức hiểu biết mà dám láo.
– Tưởng các hạ có bỏ thời gian nghiên cứu về âm nhạc, thỉnh thoảng nghe bảo có đi nói chuyện nơi nầy nơi khác, ăn tiền của các đại học nầy đại học kia sao còn hỏi.
– Hỏi là vì sợ rằng sự hiểu biết của mình chưa đến đâu, cao nhân tắc hữu…
– …cao nhân trị, biết câu ấy rồi, những ai biết được câu ấy mà có suy nghĩ sâu xa thì cũng đã khá, lắm người bao giờ cũng cho mình là đệ nhất trong cõi trần nầy mới là nguy.
– Tại hạ không phải chỉ biết câu ấy mà hôm nay gặp được một vị đại sư chi sư, nên cái gì cũng phải hỏi cho tỏ ngọn nguồn chứ.
Tướng Mông Điềm thấy tôi có vẻ biết phục thiện, bớt cái giọng cao ngạo, hàm hồ của kẻ phàm phu nên có vẻ cũng vui lòng, bỏ thì giờ giảng giải. Mà hẳn đây cũng thuộc lĩnh vực của ngài nên trông mặt mày có vẻ hào hứng, râu cằm, râu mép đều vênh lên một cách hiên ngang.
<– Nhạc là lạc, mà lạc tức là vui, đó là định nghĩa từ nguyên thủy, con người ta lúc cảm thấy vui trong lòng mới phát ra những âm thanh, ngâm nga ca lý, để chứng tỏ niềm vui của mình. Chim muông cầm thú cũng đều như thế, bi thanh và hỷ lạc thanh khác hẳn nhau, tuy lắm khi nghe giọng cười và giọng khóc cùng một điệu. Tuy phải nhắc lại một lần nữa rằng đây chỉ là ở vào lúc phôi thai của con người. Về sau nầy khi đã vượt đến trình độ hiểu biết khôn ngoan thì định nghĩa của nhạc trở nên cầu kỳ phức tạp hơn. Nhạc phải gồm đủ lục luật, ngũ thanh, bát âm mới được gọi là nhạc. Các hạ về mở sách Lễ Ký nhìn vào chương Nhạc Ký còn có một định nghĩa cũng khá hay, đó là:“Ứng luật nãi vi nhạc, cố duy quân tử vi năng tri nhạc.”
– Có nghĩa là…
Lần nầy thì quả là tôi không dám dịch đại, dịch bừa như những lần trước và tướng Mông Điềm cũng hiểu như thế.
– Có nghĩa là: Phải ứng hợp với cung luật mới được gọi là nhạc, cho nên chỉ có bậc quân tử mới biết nhạc, sáng chế nhạc, và phải loại nhạc ấy mới là thứ nhạc không làm vong quốc vong gia.
Sau khi nghe ông nói thêm, thế là hết dám nghịch, vả lại còn sợ ông chê không được nghiêm chỉnh. Ngày xưa Cụ Khổng đang nói chuyện với một vị vua, trong lúc ấy, bỗng có một đàn chim bay qua, nhà vua ngẩng đầu nhìn theo, bỏ lững câu chuyện. Cụ Khổng giận lắm, ra về bảo với học trò rằng ông vua nầy không xứng đáng, ta không thể mang cái đạo của ta ra giúp một xứ mà vị quân vương chỉ là một ” Dong Nhân”. Từ ngày đọc câu chuyện ấy tôi đã bỏ bớt cái tính hay phá hay nghịch. Tuy rằng, nếu cụ Khổng có đọc sách Mai Hoa độn của Thiệu Khang Tiết thì sẽ dùng đàn chim bay ấy tính lấy ngày giờ mà bấm độn thì chắc đã biết sẽ có một điềm gì, lành hay chẳng lành sẽ xảy ra. Mà hôm ấy, là đàn chim báo cho biết một điềm không có gì hay, đáng vui, trái lại, là điềm không lành, vì xứ ấy, vị vua ấy không được bậc Thánh Nhân ấy dừng chân ở lại trên nước mình để giúp nước giúp dân mình. Tôi cũng sợ bị tướng Mông Điềm chê là dong nhân nên phải giữ thái độ nghiêm trang.
– Lục Luật, xin được nghe thêm về Lục Luật.
– Gọi là Lục Luật để nói đến sáu dương luật và sáu âm luật, nói kỹ hơn thì phải định rõ dương là Luật mà âm là Cung, lục luật là dương thanh chi luật, gồm có: Hoàng Chung, Thái Thốc, Cô Tẩy, Nhuy Tân, Di Tắc và Vô Xạ.
-Còn Lục Cung, xin được nghe cho hết, nếu không phiền Tướng Công.
– Có gì gọi là phiền, đã biết thì phải biết cho đầy đủ, sau nầy còn nói lại cho con cháu nó nghe, tối kỵ là sự nửa chừng. Lục Cung đây là Âm Thanh, sánh với Lục Luật là Dương Thanh. Lục Cung gồm có Lâm Chung, Nam Cung, Ứng Chung, Đại Cung, Giáp Chung và Trung Cung. Mười hai Luật và Cung nầy là căn bản của vạn vật.
Thấy con người nầy (gọi là con người chẳng biết có đúng) biết quá đầy đủ, tôi yên chí, để gác cái vấn đề cung luật nầy lại đây, vài hôm nữa còn thì giờ tôi sẽ phanh phui thêm nó ra, cho mọi người cùng hiểu, bây giờ để nhảy sang hỏi về Ngũ Thanh đã.
– Ngũ Thanh à, ai chẳng biết nó là Cung, Thương, Giác, Trưng, Vũ. Cung mang sắc vàng gọi là Hoàng Thanh. Thương mang sắc trắng gọi là Bạch Thanh. Giác mầu xanh nên gọi cung nầy là Thanh Thanh. Trưng có người đọc là Chùy, cung nầy mầu đỏ gọi là Xích Thanh, và cung Vũ mầu đen gọi là Hắc Thanh.
– Tại sao cung Thương mang mầu trắng mà cung Giác lại là mầu xanh, lấy tiêu chuẩn nào, căn cứ vào đâu.
-Lại chớm cái tinh thần Cartésien phải không? cái gì cũng phải hỏi, xin thưa với các hạ rằng người xưa đã lấy ngũ hành để phân chia, hành Kim là Thương, hành Thổ là Cung, hành Mộc là Giác, hành Hỏa là Trưng và hành Thủy là Vũ có thế thôi. Như các hạ đã rõ, Kim là mầu trắng, cung Thương thuộc hành Kim nên Thương Cung mang sắc trắng. Thổ mầu vàng thì Cung mang hành Thổ tức phải mang luôn sắc vàng… Các hạ đã hiểu cả chứ.
– Tạm hiểu, nhưng ban nãy chúng ta có nói đến cái gọi là Vong Quốc Chi Âm.
– Có hai thứ, Vong Quốc Chi Âm và Vong Quốc Chi Thanh, các hạ muốn nghe cái nào trước?
Tôi nghĩ thầm, đúng là buồn ngủ gặp được chiếu manh, tính tôi hay tò mò hôm nay gặp được cơ hội, đã vậy ta vặn vẹo cho kỹ mới thỏa chí bình sinh.
– Thưa tướng công thế thì Âm và Thanh khác gì nhau?
<– Với người Âu Mỹ thì chẳng có sự khác biệt, nếu các hạ mở từ điển sẽ tìm thấy có mấy chữ để nói đến âm và thanh Sound, Voice, Music, Tune, nhưng với người Á đông chúng ta thì: “Tri Thanh nhi bất tri Âm, cầm thú dã”
– Có nghĩa là biết thanh mà không biết âm thì chẳng khác gì loài chim loài thú, có phải thế không ạ, xin tướng công nói rõ hơn nữa về âm và thanh, sự khác biệt giữa hai thứ.
– Sao nghe bảo cũng nghiên cứu về âm nhạc?
– Thì có nghiên cứu mới hỏi kỹ nếu không…
– …nếu không thì ai mà thèm hỏi chi cho mất thì giờ, đúng thế chứ gì? Vậy thì xin nói: Thanh là Cung, Thương Giác Trưng Vũ, mà Âm là âm của các thứ như Ty, Trúc, Thạch, Thổ, Biêu, Cách, Mộc.
– Cũng như một bên là các nốt nhạc do ré mi fa sol và một bên là tiếng trống da, tiếng trống đất, tiếng giây tơ, tiếng sáo tre… Phải vậy không thưa tướng công. Thế thì Vong Quốc Chi Âm là gì?
– Các hạ có nghe câu chuyện Hứa Do rửa tai vì nghe Đế Nghiêu đòi nhường ngôi báu cho mình không?
– Có nghe, thế thì còn Vong Quốc Chi Thanh là sao?
– Vong Quốc Chi Âm thì nghe buồn não, bắt con người phải trầm tư, Vong Quốc Chi Thanh là những âm thanh dâm loạn sa đọa, vua quan nghe, thì quên việc triều chính, dân gian nghe, thì quên chuyện làm ăn.
– Thế còn Vong Quốc Chi Vật là gì?
– Là người đàn bà đẹp.
Tôi lắc đầu không đồng ý một lần nữa, ngày nay người đẹp có khi còn lợi quốc, cứ xem như bà Brigitte Bardot thuở ấy đã mang về bao nhiêu là ngoại tệ vào cho nước Pháp còn hơn tất cả các hiệu xe hơi khác. Sợ ông tướng không nắm vững chi tiết, tôi phải mang chuyện xưa ra cãi.
– Tướng công nói hệt như bà vợ của Việt Vương Câu Tiễn khi chê Tây Thi “Thử vong quốc chi vật, lưu nhi hà vi” (cái vật vong quốc đó giữ lại mà làm gì?), nhưng đó là ý kiến của phụ nhân, đàn bà hay ghen. Nhìn về phía Ngô quốc thì Tây Thi làm cho mất nước Ngô nhưng đứng về phía Việt quốc, thì mỹ nhân đã tiếp tay quá đắc lực cho Việt quốc, sao không mang ơn, có sách còn ghi rằng trước khi ra đi cô ta được trao cho cái sứ mệnh cứu quốc mà, tại cái nhà bà vợ ông Câu Tiễn không được biết những bí mật quốc gia đấy thôi, Tướng Công có đồng ý là thiếu sự công bình đối với nàng Tây Thi chăng?
– Thì đồng ý vậy, các hạ vạch ra cũng đúng, lần này chịu thua các hạ.
– Còn Vong Quốc Chi Khí là gì?
– Là cái mà các hạ vẫn dùng hằng ngày, mỗi ngày ba bữa đó.
Tôi cau mặt suy nghĩ, thật vô lý, tôi có dùng cái gì đáng để gọi là Vong Quốc Chi Khí đâu.
– Xin tướng công nói rõ, tôi vẫn thấy mình là “Thiên hạ đệ nhất không giàu” mà, có gì đáng để mang cái tên ấy nhà chỉ có vài tủ sách với mấy cây đàn thôi.
– Vong Quốc Chi Khí là chén ngọc đũa ngà, các hạ đã dùng đũa ngà từ bao nhiêu năm nay,
Tôi giật mình, quả thật có như thế, nhưng tại đũa ngà rất bền và nhẹ, thanh, cầm không đau tay, chẳng có lý do gì khác, chẳng lẽ lại vứt nó đi, vô lý. Nhưng thôi chuyện đâu còn có đó, về nhà sẽ tính, ngày xưa bố tôi cũng ăn đũa ngà đâu có phải vì thế mà mất nước, điểm nầy sẽ phải mang ra mà mổ xẻ lại, tôi không đồng ý lắm, nhất là khi lũ voi già nó chết đi, tức thị nó phải trút đôi ngà để lại cho đời chứ, tôi chắc lưỡi nói cho qua vấn đề.
– Rằng quen mất nết đi rồi…
Biết tôi muốn đổi vấn đề, sang đây đâu phải để nói đến đũa ngà, với chén ngọc. Ông tướng Mông Điềm nhận thấy, nói ngay.
– Các hạ muốn đổi vấn đề, người nầy không biết phục thiện.
Tôi hơi tức, đã thế thì phải cãi mới được, không thể để cho bị hiểu lầm.
– Vong quốc có một nghìn lẻ một lý do, nhất là ở hoàn cảnh nước Việt Nam chúng tôi, trước hết là bị đô hộ, hết người Trung Hoa của tướng công thì đến người Pháp, dân tình mệt mỏi, thêm vào còn cái họa cộng sản gây nên trận chiến…
– Thì đúng rồi, huynh đệ tương tàn, nồi da xáo thịt. Tôi đồng ý với các hạ, đa số những vị lãnh đạo có được bao nhiêu ông thật tình vì dân, vì nước, hay là họ có, mà dấu cái thật tình ấy quá kỹ nên chúng ta không thấy đó chăng?
Tôi nghĩ thầm, nếu bây giờ mà để cho cái nhà ông tướng nầy moi xấu chuyện của nước ta thì chắc đến mười ngày chưa hết, tôi phải đổi vấn đề mới được.
– Thôi tướng công ơi, chúng ta đổi sang nói chuyện khác đi.
Tướng Mông Điềm lắc đầu nhìn tôi, tỏ vẻ thương hại nhưng không dám nói ra, biết là tôi không chịu nổi sự thương hại của bất cứ ai.
– Hỏi tướng công một câu, tại sao lịch sử ít khi đến người đàn bà. Xứ tôi lại còn có câu: “con hư tại mẹ”. Chỉ có những bà Nhan Thị, mẹ của Khổng Phu Tử, bà Thái Khương, mẹ của Văn Vương, một vài khi còn nghe nói đến vì các ông ấy mồ côi sớm, còn các bà mẹ khác rất ít khi nghe nói đến, là tại làm sao?
– Nói thì cũng phải có gì mới nói, bà nào thật hay thật giỏi mới nói chứ không thì nói có ích gì. Cũng có một phần là ngày xưa các vị sử gia rất nghiêm khắc, thà bị cắt đầu chứ không muốn viết những điều sai sự thật, ngày xưa với ngày nay thật khác nhau. Ngày xưa, ai làm điều gì trái với lương tâm thì xấu hổ, sám hối. Ngày nay, hai chữ Sám Hối hình như không còn nữa, Kinh Sám Hối là quyển kinh ít được tới. Ngay cả trong các chùa chiền mà lắm chùa cũng hơi lãng quên.
Tôi đưa tay chặn ngang, ngắt lời ngay.
– Xin đừng vơ đũa cả nắm, đổ thùng nước tắm thì đừng đổ luôn cả đứa bé…
Tướng Mông Điềm nghe tôi nhắc lại câu châm ngôn Anh Quốc, biết ngay là tôi muốn phá ông ta nên chỉ mỉm cười.
– Các hạ lúc nào cũng nóng nảy, tôi muốn nói là nói đến một số nhân vật làm chính trị ngày nay. Các hạ thử nhìn lại xem, mỗi ông lên nắm quyền là để cho bà con anh em tha hồ lộng. Giết bao nhiêu mạng người mà đến lúc gần chết cũng không chút ân hận, toàn những tên đại… dùng chữ gì cho đúng nghĩa đây, thôi thì bỏ trống vậy, ai muốn hiểu sao thì hiểu. Ở đời phải nên bớt thù thêm bạn… chỉ những tên dại như thế mới được nhắc đến, càng được sùng bái.
– Đến bao giờ…?
– Đến bao giờ loài người thức tỉnh, mở to đôi mắt. Nhưng để nói thêm về câu hỏi của các hạ, tại sao ít nghe nhắc đến các bà?
– Vâng như phu nhân của tướng công chẳng hạn, có bao giờ ai nghe nói bà Mông Điềm đâu, chính Tướng công cũng chưa hề nhắc đến.
– Thê tróc tử phọc.
Tướng Mông Điềm nói ra đúng bốn chữ rồi ngừng.
– Tướng công cũng cho là vợ rượt con trói, sao mà nói bốn chữ ấy. Thế thì tướng công nghĩ gì về vị Tổng Thống xứ Hoa kỳ Reagan, lúc nào cũng không quên nhắc đến trong mỗi câu chuyện…
Tướng Mông Điềm cướp lời, nói ngay:
– Nancy and I…
Tôi bật lên cười vì thấy ông tướng cõi âm nầy mà cũng bắt chước được đúng cái giọng của cựu Tổng Thống Reagan.
– Tướng công nghĩ sao về ông Tổng thống nầy.
– Sau một ông ba phải, thì chỉ cần một chút cố gắng hay một chút ý khí, tôi muốn dùng chữ “caractère” của tiếng Pháp, chỉ cần có ý khí hơn một chút là nổi ngay. Dầu sao cái truyền thống dân chủ cũng không cho phép người ta tung hoành, như ở những quốc gia phong kiến cộng sản hủ lậu, duy đảng độc tôn, ở nhiều nơi khác.
– A, nhớ ra rồi, bắt tướng công nói về bà Võ Tắc Thiên nghe chơi.
– Nghe là phải nghe thật, nghe để mà ghi nhớ điều hay lẽ phải chứ tôi không nói cho người nghe chơi. Các hạ phải tập đứng đắn cho quen, già đầu rồi đừng ăn nói xô bồ, nhất là khi đối ngoại. Người ta xét đoán mình từng chữ, từng câu. Chính các hạ đã từng bắt mỗi người dân đi ra khỏi nước phải là những cán bộ…
Ông tướng làm tôi nhớ đến vị thầy cũ của tôi, ông Đặng Thái Mai, ngày ấy chắc ông nhận thấy tôi quá trẻ con nên trong câu chuyện ông thường nhắc mỗi một câu: ‘La vie est une chose sérieuse” (Đời là một chuyện nghiêm trang đứng đắn). Câu ấy đã theo tôi mãi đến ngày giờ nầy. Vừa ngước lên nhìn, bị tướng Mông Điềm đọc ngay trong ánh mắt.
– Các hạ có cái tội và cái nợ đó. Mấy chục năm không viết thư về thăm thầy.
Tôi cúi mặt suy nghĩ, xấu hổ nhận tội, quả thật như thế nhưng ở đời có những lý do khó nói lên được thành lời.
– Tướng công nói đúng, tại hạ có mang ơn ông ấy rất nhiều, nhưng tại cứ băn khoăn, nhất là về sau nầy, thấy không đi chung một đường. Đọc những tác phẩm của ông về sau, tại hạ càng bức rức...
– Chẳng hạn…
– Chẳng hạn như khi ông trách rằng Hồ Thích đã đưa văn hóa ngoại bang tức là văn hóa Âu Mỹ vào, thì người cộng sản mỗi lúc mở miệng là nói đến chủ nghĩa Mác Lê, cái nầy không là ngoại bang sao. Một tên cán bộ nào nói thì được, chứ một người như ông ta, mà ngày bé tại hạ rất kính phục, ông là đảng viên cao cấp của đảng cộng sản, là bố vợ của đại tướng Võ Nguyên Giáp. Trong khi ấy thì suốt cả đời tại hạ chẳng bao giờ làm nên cơm cháo gì. Mặc dầu khi chia tay ông đã viết mấy giòng lưu bút mà tại hạ còn nhớ rõ mấy chữ cuối là “Minh Đức phải cố lên, cố mãi lên…” Nghĩ rằng có viết thư về, chắc lá thư cũng chỉ được vào thùng rác.
– Cũng chưa chắc, không bao giờ nên dự đoán, biết đâu…
Ông tướng đã mím môi lắc đầu tỏ ý không chấp nhận những lời biện hộ của tôi.
– Các hạ vẫn có lỗi, một kiếp nào đó cũng phải trả những gì đã nhận được từ người thầy ấy.
– Tại hạ xin nhận lỗi, hy vọng có một dịp nào sẽ giải thích đền đáp. Ngày ấy có thể nói rằng Đặng tiên sinh đã cho tại hạ một cây gậy để chống bước trên con đường đầy chông gai, đầy vực sâu núi thẳm với cạm bẫy của cuộc đời.
– Được, các hạ đã biết nhớ ơn, có thể là ngày hôm nay của các hạ cũng đã do một phần nào, những giờ học hỏi của thời xa xưa ấy.
Tôi đổi giọng năn nỉ, muốn bắt ông tướng thay đề tài nói về bà vua của thời thịnh Đường Võ Tắc Thiên ấy.
– Người đàn bà ấy rất có tài, đầy trượng phu khí, chỉ tiếc rằng bị đày đọa vào cái thân xác phụ nhân. Bà ấy là người đàn bà đầu tiên được viết chữ khắc lên bia, các hạ biết chứ.
Tôi gật đầu, điều nầy tôi đã từng nghe, cũng đã từng nhìn những phúc bản các bài do bà ấy viết.
– Nét chữ của Đường Vũ Hậu rất vững, nhiều khí chất trượng phu, có tài nhìn người, biết phẩm định ai tài ai không. Nhờ vậy nên dầu ghét hay thương, mọi người đều phải công nhận rằng thời bà được gọi là Thịnh Đường không phải ngoa, từ văn hóa đến chính trị, ngoại giao đều phát triển vững vàng.
– Mà sao người ta nói xấu bà ta quá vậy.
– Các hạ cũng biết rằng đã là con người ai chẳng có lỗi lầm, các sử gia thì nghiêm khắc. Vả lại càng có tài càng bị người đời ganh ghét. Trước kia bà là Tài nhân của Đường Thái Tông.
– Sao lại gọi là Tài Nhân?
– Tài nhân là hữu tài chi nhân, vào đời Hán, Đường để gọi chức nữ quan, được mời vào cung để dạy các phi tần học.
– Dầu sao bà ta cũng hơi quá thẳng tay với Trung Tông, Duệ Tông, tướng công cũng nhận điều ấy chứ.
– Cứu cánh biện minh cho hành động.
– Ồ, tướng công cũng nói vậy sao “la fin justifie le moyen”, tại hạ không đồng ý.
– Đến đời Duệ Tông lên có làm được gì, nhưng thôi về sau bà ta cũng già quá, rồi lại bệnh hoạn. Con người một khi đã bệnh hoạn thì còn ích lợi gì nữa.
– Sử ghi bà bị tẩm tật, là bệnh phải nằm hoài chăng? Tại sao?
– Sau những tháng năm tranh đấu từ vật chất đến tinh thần, làm sao không bị bệnh. Bà ta đã có công rất lớn trong sự phát triển về văn hóa. Nhưng sao các hạ cứ chạy đi kiếm đi tìm đâu cho xa, hãy nhìn lại lịch sử nước nhà của các hạ, chẳng hạn như đời nhà Trần, có những vị minh quân, lại có những nhân vật đặc biệt như Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi, Chu Văn An, Nguyễn Công Trứ… Các hạ đi tìm xa xôi làm gì.
– Tướng công nói đúng, bài Hịch của Trần Hưng Đạo, đến ngày nay chúng tôi vẫn thấy cần phải học, phải nghiền ngẫm.
– Các hạ nên đi tìm quyển sách mang tên là “Vạn Kiếp Tông, bí truyền thư” mà đọc, cố nhiên đây không phải là sáng tác mà là một sự góp nhặt binh pháp của các binh gia xưa, rất đáng hâm mộ.
Nghe tướng Mông Điềm nói đến danh nhân của mình tôi thật cảm kích, kỳ nầy về, nếu có viết lách gì, chắc phải gào to, nhắc lại. Hầu như đa số con người đều có cái trí nhớ ngắn ngủi.
– Đố các hạ, Nguyễn Trãi của các hạ gặp Lê Lợi của các hạ vào năm nào.
Tôi bật cười vì sự phân chia rõ rệt Nguyễn Trãi của các hạ, Lê Lợi của các hạ, cũng hay như thế để khỏi ai mượn nhầm của ai, nhưng quả thật là xấu hổ cho tôi vì không bao giờ để ý nhớ cho kỹ những con số.
– Tại hạ xin chịu thua, tướng công thật phi phàm, chắc đa số anh em đồng hương và đồng nghiệp của tại hạ ở nhà hay ở hải ngoại cũng sẽ ngập ngừng, chẳng biết mấy ai có thể trả lời được.
– Họ gặp nhau ở Lỗi Giang, thượng lưu sông Mã, năm ấy là năm 1421 dương lịch và âm lịch là vào năm Tân Sửu.
Tôi lẩm nhẩm nhắc lại để khỏi quên, ngày về sẽ nói cho các bạn liệu mà chuẩn bị, nếu có cơ hội đi chơi đâu mà gặp cái loại người thông thái cổ kim nầy, thì đừng để cho phải có những lúc lúng túng như tôi hôm nay. Nhưng tôi cũng muốn thử xem ông tướng nầy có thật là thông thái cổ kim không, hay chỉ giỏi về chuyện cổ mà thôi. Tôi phải đặt một câu hỏi gì thật hợp thời đại mới được.
– Tướng Công có quan tâm đến cái hiệp ước….
Mới nói chưa dứt câu, ông tướng đã mỉm cười, hình như ông ta đoán được cái ý nghĩ hơi láo xược của tôi là có ý muốn bẫy, thử tài, ông ta nói ngay.
– Các hạ muốn nói đến cái hiệp ước ABM phải không? Hạn chế, ở đó mà hạn chế với người cộng sản. Các hạ và mọi người đều biết rằng không cái hiệp ước nào có thể cấm hẳn sự nghiên cứu về ABM. Mỗi một vấn đề là không thể phân định giữa hai cái Anti Ballistic-Missile và Non Anti Ballistic-Missile. Điểm thứ hai là ai dám nói đã biết rõ rằng trong các viện thí nghiệm của Nga quốc đã thí nghiệm những gì. Các hạ về xem lại cái điều khoản số 1 của bản ABM Treaty 1972. Bắt buộc đôi bên không phải chỉ có triển khai khắp toàn quốc cái sự phòng ngự ABM mà còn phải cấm chỉ cả sự cung ứng một căn cứ…
– For such a defense? (cho loại phòng ngự ấy)
Tôi ngắt lời hỏi, biết đây là sở trường của ngài. Nếu tôi không ngắt đi thì chắc suốt buổi hôm nay chỉ nói toàn cái vấn đề nầy. Ngày về mà viết ra thì độc giả sẽ la lối. Tướng Mông Điềm có vẻ chưa thỏa chí nên cứ tiếp tục nói.
– Điều khoản VI cấm để cho cái gọi là Non ABM systems…
Tôi lắc đầu mạnh hơn, đưa tay cắt ngang một lần nữa, biết rằng sẽ bị khinh là phụ nhân nan hóa, là văn dốt vũ dát, là không chịu học hỏi thêm v..v… Mặc chứ, những điều nầy chỉ cần về nhà mở một tờ báo chính trị, quân sự ra là biết hết, cần gì phải đi cả vạn dặm đến đây để nghe nhắc lại. Tướng Mông Điềm có vẻ thất vọng, ông hỏi tôi.
– Chắc các hạ muốn nghe nói về cách nấu món ăn Hùng Chưởng, tức là món bàn tay gấu chăng.
Biết ngài bị chạm tự ái, ngài có ý giận, không thèm nói chuyện ABM, tôi phải xin hòa giải.
– Xin tướng công để cho tôi về học hỏi thêm và nếu có thể, sẽ xin được giới thiệu với tướng công một vài cấp tướng lĩnh của Việt Nam chúng tôi. Chắc họ sẽ thích thú lắm, được nghe tướng công nói đến những vấn đề thuộc về quân sự. Còn phần tôi thì… thôi xin tướng công cứ nói về cách thức để nấu món bàn tay gấu ấy đi. Tôi chỉ là một viết sĩ tầm thường…
– Các hạ đã muốn thì bỉ nhân cũng đành phải chiều lòng vậy, một lần nữa lại phải nhắc câu ngạn ngữ Pháp:”Ce que femme veut, Dieu le veut”.
Tôi cắn môi để khỏi bật thành tiếng cười, ông tướng này lắm khi cũng hơi quê, những câu nầy bây giờ chỉ có các cụ già mới nói, đời bây giờ là unisex, làm gì có sự nịnh đầm ấy nữa. Ông tướng tiếp lời, không thèm đọc ý tôi.
– Thú thực với các hạ, món hùng chưởng nầy một độ tôi cũng mê lắm, có tên hỏa đầu quân rất khéo nấu. Hùng chưởng là một trong bát trân đấy. Bàn tay gấu ngon là vì khi ngủ, suốt cả mấy tháng đông miên, con gấu vẫn tiếp tục liếm bàn tay, nên bao nhiêu tinh khí dồn vào đấy. Gấu thích nhất là bắp nên đến mùa bắp nhà nông giận chúng lắm. Gấu có nhiều giống, gấu người gọi là nhân hùng, gấu chó là cẩu hùng, gấu trắng là bạch hùng, gấu lông vàng là hoàng mao hùng. Mọi người đều biết món hùng chưởng nầy là vừa ngon vừa bổ nhưng chẳng mấy ai biết cách nấu.
– Học được cách nấu món hùng chưởng chắc tôi sẽ về phổ biến ở Alaska, nơi ấy có nhiều gấu trắng, gấu đen.
– Muốn học thì mang giấy bút ra tôi đọc cho mà ghi lấy để mang về dạy lại cho học trò, chắc sẽ thành công.
Tôi bật cười, nghĩ bụng, học môn gì còn dễ kiếm chứ cái món bàn tay gấu nầy, tìm đâu ra gấu mà nấu. Thêm cái hội bảo trợ súc vật, đến các khoa học gia, nuôi khỉ để thử thuốc là điều có ích cho nhân loại, mà họ còn biểu tình đập phá ầm cả lên, nếu biết tôi về mở lớp dạy nấu món hùng chưởng nầy chắc họ sẽ không tha. Nhưng đã gặp được một cơ hội may mắn kỳ diệu như thế nầy sao lại không lợi dụng. Tôi tự hẹn sẽ moi móc ruột gan ông tướng nầy ra mà học hỏi cho hết. Ngày về sẽ có một thiên phóng sự độc đáo.
Bao nhiêu người đã sang Trung Quốc về mang rất nhiều vàng bạc, châu báu đồ cổ… nhưng họ chỉ đưa về chưng tủ kính, khóa kỹ, nếu có chết để lại cho con cháu thì cũng lại khóa kỹ dấu kín mà thôi, chẳng thấy ai mang về được cái gì để có thể gọi là lợi ích chung hay là chia sẻ với anh em đâu. Hẳn tôi đã may mắn hơn nhiều người nên mới gặp được ông tướng cõi âm nầy.
Tôi mở ví, lấy quyển sổ tay và cây bút sẵn sàng ghi bài học cách nấu món Hùng Chưởng, tức là bàn tay gấu nầy.
– Xin được chỉ giáo.
– Đây là dạy cho các hạ nấu theo lối cổ truyền đấy, ngày nay thì dễ dàng hơn, cứ barbecue hoặc low cook là xong cả. Người thời nầy chỉ thèm món hot dog và món Mac Donald, cho ăn suốt đời cũng cảm tạ.
– Thôi mà, ngày giờ ít ỏi xin tướng công nhập đề đi.
– Các hạ vẫn tính nào tật ấy, thì thôi nhập đề đây. Trước hết phải tìm cho được thứ đất bùn vàng, chúng tôi gọi là hoàng sắc nê thổ, mà phải chọn thứ nào từa tựa đất sét, cứ mười cân đất lại thêm một bát muối mặn, đổ nước vào nhồi hai thứ như tương, trộn với rơm hoặc cỏ khô mang bọc lấy bàn tay gấu ấy. Làm sao cho cỏ với bùn bọc thật kín. Dùng một tấm thiếc đặt trên lửa, mang bàn tay bọc bùn ấy nướng lối một giờ. Khi thấy bùn khô và rơm đã cháy hết, thì mang đập xuống đất cho rơi bùn khô ấy ra. Bao nhiêu lông lá cũng sẽ theo bùn mà rơi rụng hết. Dùng nước sạch, trong mà rửa cái bàn tay ấy, lớp da đen cũng phải lột ra, lúc ấy sẽ chỉ còn lại bàn tay trắng nõn tựa như bàn chân của người. Bấy giờ mới mang đun lên, thêm nước dùng gà, thịt nạc muối, chất nước sẽ trắng như sữa. Ngon tuyệt trần, các hạ về làm mà xem, ăn như mỡ mà không có chất mỡ, món nầy đại bổ.
– Nghe tướng công tả, mê quá, chắc kỳ nầy về sẽ đi lùng một con gấu mà thử nấu.
– Có mấy con Pandare của Trung Quốc biếu xứ Hoa Kỳ Xing Xing, Ling Ling gì đó, các hạ đi bắt lấy một con nấu thử.
– Thôi xin ngài đừng xúi dại, đúng là xúi trẻ ăn…
– Ồ, còn quên một điều, đã nói thì nói cho hết, các hạ nên nhớ rằng bàn tay trước gọi là chưởng, hai chân sau gọi là cước, và bàn tay trước ngon hơn hai chân sau, và chưởng bên trái lại quý hơn chưởng bên phải.
– Tại sao vậy, cầu kỳ nhỉ.
– Bản quốc cầu kỳ vậy đó, tại lúc ngủ nó ưa liếm tay trái, mỗi giờ người ta tính ra thấy nó liếm cả 100 lần, tinh hoa tụ hết vào đấy. Ai ăn được nhiều bàn tay gấu thì khỏi sợ lạnh, dầu có không mặc áo quần dưới trời tuyết, nhưng cũng không nên lạm dụng sẽ bị hỏa thượng xung. Người ta còn biết dùng mỡ gấu để làm thuốc, nhất là để chữa chứng phong thấp không có gì hay bằng hổ cốt với hùng du.
– Thỉnh vấn.. còn thứ mật gấu thì sao?
– Ừ nhỉ, khen mỡ gấu mà bỏ quên mật gấu. Mỡ gấu mà ăn được đều, mỗi ngày thay chất dầu thì sẽ không cần sưởi, cơ thể vẫn luôn luôn ấm áp. Còn mật gấu tốt là vì con gấu ăn hằng trăm thứ rễ cây, mà trong số rễ cây ấy, lại có rất nhiều cây thuốc. Thú vật lắm khi còn khôn ngoan hơn cả loài người, vì thiên nhiên cũng đã cho chúng một linh giác để tự vệ và tự tồn. Tinh hoa bao giờ cũng tích tụ nơi túi mật. Nơi đó có nhiều thành phần khoáng vật. Có những con người suốt cả đời không gặp được một thứ rễ cây thuốc nào. Nhưng dầu sao thì loài người vẫn khôn ngoan điêu xảo, biết đó là thứ thuốc quý nên đã lấy mật con lợn để giả mật gấu, cố nhiên là chẳng có chút hiệu nghiệm nào. Mà các hạ có biết rằng mật gấu còn chữa được chứng lười biếng không?
Tôi nghe mà mừng, từ nay mỗi lúc cảm thấy lười biếng, không muốn làm việc thì sẽ đi tìm mật gấu để uống cho siêng hơn.
– Ban nãy tướng công vừa bảo có nhiều loại gấu. Loại nào ngon nhất?
Nhìn tôi tinh nghịch, chắc ông đang thầm nghĩ, cứ nói chuyện tu hành mà hỏi lắm câu độc địa. Phạm giới sát sanh, tạo ý nghiệp đấy. Tôi sợ bị hiểu lầm, giải thích ngay.
-Tại tính tôi hơi bị méo mó nghề nghiệp, xin tướng công đừng chấp trách những câu hỏi tỉ mỉ và tò mò nầy.
– Loại gấu lông trắng, ban nãy tôi có nói với các hạ là bàn tay trái ngon nhất, cũng như chén trà thứ nhất, sau khi đã biết cách pha chế đúng phương pháp, vẫn được gọi là Hoàng Đế trà, các hạ nhớ chứ. Sau đó là bàn tay phải, thú ba là đôi chân, nhưng với lũ gấu trắng còn có miếng mỡ ở ngực, ngon thơm và rất bổ.
– Tại hạ thử dịch nhé, “Thấy nó sống không nỡ nhìn nó chết, nghe tiếng nó kêu la không nở ăn thịt nó, cho nên người quân tử tránh xa nhà bếp” Phải vậy không thưa tướng công? – Tạm được, các hạ cũng chịu khó học hành đấy nhỉ, theo thuyết nhà Phật, nếu kiếp nầy chịu khó học hành thì kiếp sau bớt u mê, đỡ vất vả.