Một
Tỉnh lỵ Hà Đông ở cách Hà Nội 11 cây số, không xa bằng quận lỵ Thủ Đức hoặc quận Đức Hoà xa cách thủ đô Saigon.
Hà Đông được gọi là tỉnh chớ không là thành phố, vì nó nhỏ quá.
Một lý do làm cho Tỉnh Hà Đông không có gì đáng kể, người Hà Đông không có ai đáng được nói tới là vì Hà Đông ở quá gần Hà Nội. Học trò Hà Đông học hết ban tiểu học ra học ở Hà Nội, có thể sáng đi tối về, đường tầu điện Hà Đông – Hà Nội chạy leng keng qua Thanh Xuân, Ngã Tư Sở, rồi Thái Hà Ấp và vào Cửa Nam Hà Nội. Dân Hà Đông muốn xem chiếu bóng cũng đi ra Hà Nội để tới những rạp Philharmonique, Majestic, ăn cao lâu cũng dắt vợ con ra Hà Nội ăn ở Đông Hưng Viên.
Thị xã Hà Đông có đủ màu sắc của một tỉnh lẻ chỉ thiếu đường xe hoả và một nhà ga xép để một thi sĩ như Vũ Hoàng Chương có thể đến làm xếp ga và làm thơ «Mai sau nếu có là ta. Làm gì cũng được làm ga thì đừng» và để một văn sĩ Thanh nam có thể đến ở ít lâu và viết «Buồn ga nhỏ». Bù lại, Hà Đông có đường tầu điện như đã kể. Cũng có rạp xi-nê, một rạp hát cải lương do ông Tư Thiêm làm chủ nhân. Nhân vật Tư Thiêm — (tác giả quen gọi ông là cậu Tư Thiêm và ông anh độc đáo của ông là cậu Ba Sớm, vì ông có đi lại giao thiệp với thân phụ của tác giả) — ở Hà Đông được coi như là một nhà kinh doanh gần lớn như ông Trần-văn-Chi thân phụ của nhà giáo – nhà thơ Nguyên Sa Trần Bích Lan và nữ ca sĩ Linh Đa. Ông Tư Thiêm còn có một thời mở đường xe buýt chở khách Hà Nội – Hà Đông, bến xe đậu ở Bờ Hồ Hoàn Kiếm và Đầu cầu Hà Đông.
Nhưng, vì Hà Đông quá gần Hà Nội — chỉ cách có 11 cây số, thanh nhiên Hà Đông đi xe đạp cũng có thể phây phân ra Hà Nội xem xi-nê, buổi Matinée và mát mẻ đạp về nhà ăn cơm vào buổi tối nên nhà xi-nê Hà Đông gần như vắng khách thường trực, chỉ vỏn vẹn khách có mỗi một xuất Matinée 2 giờ, 4 giờ trưa chủ nhật. Mà chỉ có chiếu phim Cao Bồi hoặc Tarzan mới đông.
Nhưng Hà Đông là một thành phố êm đềm. Thơ mộng thì chẳng có gì thơ mộng nhưng êm tĩnh thì thật là êm. Thị xã không có nhà máy, không có trại lính Tây, không có trại lính Khố đỏ, chỉ có một đồn lính Khố xanh, tiếng Pháp gọi là Garde Indigène.
Dòng Nhuệ Giang lặng lờ chẩy qua đầu tỉnh. Xuôi dòng sông đào này, người ta có thể đi thuyền xuống những làng Cự Đà, Khúc Thủy — Tỉnh Hà Đông có Chùa Hương, Chùa Trầm và có làng Cự Đà là nổi tiếng nhất — Dân Cự Đà không nổi tiếng về có đất văn học, nhiều người đỗ đạt, làm quan như các làng Thiện, Mọc Quan Nhân, mà nổi tiếng về khoản giầu tiền và có nhiều người có tay buôn bán, giỏi làm giầu. Dân Hà Đông nói rằng làng nằm ngay sông Nhuệ, đình làng nhìn ngay ra sông, mà dòng sông tới đó thì chạy vòng thành một khúc quanh, nước sông cứ vần vũ xoay tròn ở vũng sông trước cửa đình đó không đi.
Như thế là thủy tụ và thủy tụ thì dân giầu, song có cái hại là chỗ nào nước đọng thì bẩn. Do đó, trong làng Cự Đà có họ có máu phong hủi, tức là máu cùi. Ác liệt thay những cô gái có máu phong cùi này — khi nọc cùi chưa phát, khi chưa lấy chồng, chưa ân ái, chưa có hơi hướng đàn ông — lại vừa đẹp vừa giầu.
Thị xã Hà Đông cũng có một khu giải trí, đó là khu Cô đầu Bông Đỏ. Gọi là Bông Đỏ vì đó là một khu mà Ty Lục Lộ có trồng nhiều hàng cây me Tây — một thứ cây do các quan Đại Pháp mang giống sang gieo rắc trên đất xứ này — vào mùa hạ, me Tây nở hoa đỏ ối. Các nhà thơ trữ tình và bọn học trò mơ mộng gọi văn vẻ là hoa phượng, dân Hà Đông gọi ngay khu phố có nhiều bông đỏ là Bông Đỏ.
Xóm cô đầu Bông Đỏ cách căn nhà cuối cùng của thị xã Hà Đông chừng 1 cây số rưỡi. Từ xóm đó có đường rẽ đi vào làng La Khê, một làng chuyên dệt tơ — tơ La Khê để may áo – và quê ngoại nhà văn, nhà giáo Hiếu Chân Nguyễn Hoạt.
Trên con đường đất đi từ xóm Cô đầu Bông Đỏ vào làng La Khê dệt tơ quê ngoại của nhà văn Hiếu Chân đó đặc biệt đáng kể có một cái nhà chứa phân của dân thành phố. Ngay câu chuyện nầy mở đầu ở Hà Đông, ngày nhân vật chính của truyện này còn là một thiếu niên vừa ngoài mười tuổi — một teen-ager, nói theo ngôn ngữ Hoa kỳ du nhập — tức là vào những năm từ 1940: Nhật bắt đầu tới Đông dương, và năm 1946: Việt Minh cướp chính quyền, hệ thống giải quyết sự tiêu hóa của dân thị xã Hà Đông vẫn còn tổ chức đổ thùng của ô Năm Diệm phụ trách. Phân của dân thị xã được đem về chứa ở kho phân gần làng La khê đó để được phân loại, đóng thùng gửi đi các nơi. Bọn học trò vào làng La Khê chơi, vô phúc đi trúng vào cuối chiều gió thổi, vừa bịt mũi, vừa cười đùa, vừa chạy vừa hít hết mình.
Nhân dịp ngàn năm một thuở diễn tả cảnh sắc tỉnh cũ Hà Đông, tưởng cũng nên có vài dòng hoặc là một đoạn viết về Xóm Cô đầu Bông Đỏ. Cái xóm Cô Đầu này xoàng xĩnh và rẻ tiền có lẽ nhất nước An Nam ta hồi ấy. Đó có lẽ chỉ là nơi lui tới của các ông tổng lý, kỳ hào lên tỉnh kiện cáo, hầu việc quan, hoặc của mấy ông lính lệ, lính khố xanh. Chị em ở đó không đẹp bằng bọn các em con sen ở trong tỉnh.
Nhưng dòng sông Nhuệ thật hiền từ. Nhưng những đêm trăng thả một con thuyền xuôi dòng sông đi về phía Cự Đà, Khúc Thủy thì cũng đẹp và nên thơ lắm. Khái Hưng đã có đêm đi thuyền trên sông Nhuệ, thấy làm mê đắm và viết thành truyện ngắn.
Nhưng Hà Đông có chùa Hương thì đẹp không đâu bằng. Nhưng Hà đông có Quản Dương ra lệnh cho lính nổ súng bắn một buổi chiều chết cả trăm thanh thiếu niên tỉnh dại dột theo bọn cán bộ Việt Minh biểu tình ào vào trại lính định cướp súng, và ven con đường tầu điện Hà đông – Hà Nội ở khoảng Thanh Xuân – Ngã Tư sở – Thái Hà ấp còn có hai hàng cây thấp, mùa xuân tôi thấy trên lá cây xanh nõn hai hàng cây thấp ấy vương vất những sợi tơ vàng tươi mởn trong mưa xuân. Chỉ mùa xuân tôi mới thấy những dây tơ vàng đó, tôi hỏi và được một người con gái nhiều tuổi hơn tôi, đáng tuổi chị tôi, bảo cho biết rằng đó là những sợi tơ hồng.
– Tơ hồng gì mà lại vàng?
Trên chuyến tầu điện đi giữa mưa xuân nhẹ bay ấy, tôi đi học ở Hà Nội về và nàng đi học ở Hà Nội về, nàng hơn tôi hai lớp, tôi ngây thơ tôi hỏi lại nàng như thế. Tôi ngây thơ tôi tưởng đã gọi là hồng thì phải có mầu hồng, tôi ngây thơ tôi chưa biết rằng sung sướng có thể là đau đớn và hạnh phúc có thể oan trái.
Chiều xuân đó tôi chưa hiểu nhưng mai sau, nhưng bây giờ tôi hiểu. Bây giờ tôi biết những người yêu nhau xa nhau vẫn có thể thấy gần nhau, và Tình Yêu của loài người có thể chết — người ta có thể đánh thuốc độc cho Tình Yêu chết dần và đem Tình Yêu đi chôn như chôn một người chết — song một phần nào đó trong tâm hồn tôi vẫn còn nguyên ngây thơ, trong trắng như ngày hôm xưa, tôi vẫn nghĩ rằng, tin rằng Tình Yêu của loài người, Tình Yêu của các bạn, có thể chết, có thể đem chôn, còn Tình Yêu của tôi và nàng thì không bao giờ chết.
★
Người bạn-gái-chị-gái không nhìn tôi khi tôi hỏi nàng:
– Tơ hồng gì mà lại vàng?
Nàng nhìn qua khung cửa sổ tầu điện xuống hàng cây xanh có những sợi tơ vàng đang lùi lại vun vút bên thành tầu vì lúc đó con tầu đang chạy. Đôi mắt nàng, tôi còn nhớ, mơ màng như nhìn tới một nơi nào thật xa. Đó là lần đầu tiên tôi nhìn thấy một đôi mắt gái đẹp mơ màng và nàng đáp mơ hồ:
– Tơ hồng phải vàng chứ.
Nghe nàng nói thế, từ giây phút đó, tôi yên trí những dây tơ vàng đỏ là dây Tơ Hồng, loài dây có thể ràng buộc đôi người nam nữ yêu nhau thành vợ chồng, loài dây có thể giữ cho những cặp vợ chồng gần nhau. Từ đó, tôi không có dịp nào hỏi lại ai rằng những dây tơ vàng đó có thật là dây Tơ Hồng hay không. Nhưng đêm nay, sau bao nhiêu tàn nhẫn, giả dối của người và cuộc đời, đêm nay hồi tưởng lại mùa xuân cũ, giây phút qua, chuyến tầu xưa, người đã xa, tuổi trẻ đã mất, tôi muốn hỏi nàng:
– Em… Em… — người năm xưa đã dạy anh những dây tơ vàng đó là dây Tơ Hồng trong một ngày mùa xuân chúng ta cùng đi học về trên chuyển tàu điện Hà nội – Hà Đông. Bây giờ em còn sống hay em đã chết?? Nếu em còn sổng em hãy trả lời anh: có thật đó là những dây Tơ Hồng không hay là chiều đó, em nhìn trời xuân, em nghĩ đến chuyện lấy chồng và em nói nhằng với anh như thế? Em thấy không? Một lời nói của đàn bà quan trọng đến là chừng nào với một thằng con trai mới lớn. Vì em nói đó là dây Tơ Hồng nên dù không phải, suốt đời anh vẫn tưởng, vẫn yên trí những sợi vàng đó là dây Tơ Hồng. Năm xưa, khi chúng ta cùng chưa ngoài 20 tuổi mà anh kém em tới hai, ba tuổi, sự hơn kém ấy xa cách lắm — Nhưng bây giờ khi chúng ta đã ngoài ba mươi tuổi, sự hơn kém vài ba tuổi đó không còn là xa cách nữa. Dù anh có kém tuổi em, em vẫn phải gọi anh là anh và xưng em với anh. Bây giờ anh trải đời rồi anh không còn dễ tin, dễ nghe lời em như năm xưa nữa đâu.
Thị xã Hà Đông có hai cầu qua sông Nhuệ và chỉ có một con phố chính. Phố chính ấy có cái tên trang trọng và lớn là Boulevard de la République. Cái tên A-Nam của nó lại rất khiêm nhượng, nặng những địa phương tính và có thể liệt vào nhà quê nữa là khác. Tên A-Nam của Boulevard de la République ở thị xã Hà Đông là Phố Bóp Kèn.
Boulevard de la République kể đã là lạ tồi. Đại lộ Cộng Hòa? Nghĩa như thế đấy nhưng mà là Cộng Hòa nào? Thời đó nước A-Nam bảo hộ và thuộc địa vẫn chia ra làm 3 kỳ, vẫn có vua Bảo Đại thì Cộng Hòa nỗi gì? Chắc đó là Cộng Hòa Pháp quốc. Cái tên Phố Bóp Kèn mới quả là kỳ cục. Bóp Kèn là cái gì? Vì sao lại có cái tên đó? Tuổi trẻ của tôi sẵn sàng chấp nhận cái tên phố Bóp Kèn. Nhà tôi ở phố đó.
Tôi sinh trưởng trong một căn nhà có gác cuối phố Bóp Kèn thị xã Hà Đông. Tôi chưa bao giờ hỏi tại sao người ta lai gọi phố nhà tôi là phố Bóp Kèn. Tôi không thấy cái tên đó là lạ. Tỏi chỉ hơi bất mãn vì tên nó không được đẹp như những tên phố khác. Song ở thị xã Hà Đông chẳng có tên phố nào đẹp. Người ta quen gọi theo các khu như Đầu Cầu, phố Chợ, cửa Dinh, khu Chợ Trâu v.v…
Phố Bóp Kèn, con phố chính của Thị Xã, dài đúng một cây số. Dinh Công sứ, Tòa sứ, Dinh Tổng Đốc, Sở Cẩm đều nằm trên phố Bóp Kèn. Và nhà tôi ở cuối phố.
Tôi ra đời thì thầy tôi bắt đầu xây cất tòa nhà này. Trước đó, ông ở thuê nhà người khác — Quê quán tôi ở làng Linh Qui, Tổng Kim Sơn, Phủ Gia Lâm — vào năm 1950, Phủ này đổi thành Tỉnh — Tỉnh Bắc Ninh. Làng tôi tên chữ là Linh Qui, song có cái tên tục nghe rất hay là làng Bụi, có người phát âm là làng Vui.
Những làng quanh làng tôi đều có những tên chữ hay và những tên tục thât quê như làng Kim Sơn là làng Then, làng Trân Tảo là làng Táo. Rồi những làng Keo, làng Đề, làng Bụi hoặc Vui, hoặc Linh Qui ở Bắc Ninh là một làng ở gần sông Đuống và gần đường số 5. Làng tôi nằm giữa hữu ngạn sông Đuống và đường số 5, vì vậy trong cuộc chiến tranh Việt Pháp 1946-1954, làng tôi bị tàn phá và dân làng tôi bị tàn sát nặng nề. Làng tôi cũng không phải là một làng lớn, cũng không giàu không nghèo, nhàng nhàng nhỡ nhỡ không ra làm sao cả. Làng tôi không có cảnh đẹp. Nói là gần sông Đuống, nhưng không phải là ngay trên bờ sông. Dân làng không có ai hách. Người làng tôi chỉ có một người tương đối nổi tiếng. Người đó là Dương Đức Hiền — Dân chủ Đảng. Dương Đức Hiền là anh em con chú, con bác với tôi, và anh đã chết.
Làng tôi ở gần một làng có tên trong văn học sử — Làng Phú Thụy của ông Cao Bá Quát. làng Phú Thụy, có khi gọi là Phú Thị, ở gần đường số 5 hơn làng tôi. Làng Phú Thị cách làng tôi chừng 5 cây số. Làng Phú Thị có vẻ giầu, vững chãi và khang trang hơn làng tôi. Ở miền quê Bắc Việt chỉ cần trông qua lũy tre bao quanh một làng là có thể biết ngay làng đó giàu hay nghèo. Lũy tre làng Phú Thị dầy, có đất cao và cổng gỗ lim lớn, chắc hơn lũy tre, bờ đất, cổng làng của làng tôi.
Trong những ngày đầu của cuộc chiến tranh Việt-Pháp ở Bắc Việt. Thầy tôi từ Hà Đông mang mẹ tôi và anh em tôi tản cư về làng Hòa Xá, Phủ Vân Đình, quê ngoại tôi, rồi thấy ở đó không ôn, lại đưa chúng tôi về thị xã Hà Đông để đi xuống đường Văn Điển, qua sông Cái, sang khu Bát Tràng, Thủ Khối —Thủ Khối là quê ngoại của Thầy tôi, nơi quê nội của Mai Thảo và anh Nguyễn Đăng Thục — để rồi đi qua đường số 5 về Linh Qui trong khi Spitfire của Pháp đã bắn phá tơi bời những làng quanh phi trường Gia Lâm và khói lửa đà bốc ngút trời ở những nơi bị bắn phá đó. Chúng tôi về làng Bụi sống trong căn nhà năm gian xưa cổ, xưa cổ đến nỗi không còn căn nhà nào cổ xưa hơn được nữa.
Thời đó trước mắt tôi, ở làng Phú Thụy của cụ Cao Bá Quát có một nhân vật nổi tiếng — Người đó là anh Cao Bá Thao, con cháu của cụ Cao Bá Quát. Anh là một trong số những thi sĩ hạng nhì thời tiền chiến ở BV. Tôi nhớ thơ anh không nổi như thơ Xuân Diệu, không trữ tình, lãng mạn. Dường như thơ anh có âm điệu hùng hồn, kêu gọi hơn là than thở. Tôi đã quên hết cả thơ Cao Bá Thao, chỉ còn nhớ mấy câu anh làm ở làng Phủ Thụy hòi đầu chiến tranh, để riễu một anh cán bộ Việt cộng.
Anh cán này là người làng Phú Thụy tên là Dinh, họ hàng gì đó với anh Cao Bá Thao. Dinh là Uỷ viên kháng chiến Xã. Lẽ tự nhiên, như 2.781.913 anh Uỷ viên kháng chiến Xã ở Bắc Việt, Bố cu Dinh mang súng lục, dao găm, bận y phục nâu, sống bí mật ẩn hiện bất ngờ, đi lại vi vút và ba hoa sống với Xã, chết với Xã.
Nhưng, đúng theo thông lệ, ngày Quân đội Liên hiệp Pháp mở cuộc hành quân trên đường số 5 — từ Hải Phòng đi lên, từ Gia Lâm đi xuống — những người chạy trước nhất, nhanh nhất, là Cán Bộ Việt Minh và bọn Uỷ viên kháng chiến xã. Trong số những người lẹ chân nhất có Bố cu Dinh. Cao Bá Thao làm thơ riễu:
Tiếng súng Cầu Bây nổ đánh ình
Nhìn quanh thấy mất Bố Cu Dinh.
Hỏi ra mới biết vừa quăng súng
Lõm bõm qua sông lội một mình…
Trên đường số 5, khoảng gần ga Phú Thụy, có một cái cầu sắt gọi là Cầu Bây, đằng sau làng Phú Thụy có một con sông đào, nước nông đàn bà xắn váy lội qua phăng phăng. Qua con sông đỏ là tới cánh đồng làng Táo rồi làng Bụi.
Làng Bụi chỉ cỏ một người xuất sắc với đời là Dương Đức Hiền. Song họ Dương là họ lớn nhất làng. Con gái họ Dương. Các chị, các em gái tôi ở làng, phải một là đi lấy chồng xa, hai là ế chồng ở nhà nuôi bố, nuôi anh nuôi em. Trong, làng, ông bác tôi là Tiên chỉ. Chánh Tổng, Lý Trưởng, Phó Lý, Trương Tuần đều là chú bác tôi. Số thanh niên ở tỉnh thật hiếm. Hách nhất làng là anh Hiền, anh Lợi, rồi đến anh em tôi.
Thầy tôi nói rằng xuất xứ của họ Dương chúng tôi ở làng Linh Qui đã từ một làng ở phủ Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh giáp Hưng Yên. Tức là cũng nằm gần đường số 5. Ngày xưa, các cụ, các kỵ tôi thi trượt, không ra làm quan được, bèn đi giang hồ lang thang tìm chỗ ngồi dạy học — «Tiến vi quan, thoái vi sư» — các cụ xách gói tới đâu đất lành thì chim các cụ đậu lại, lấy vợ, đẻ con, rồi lập nghiệp luôn ở đấy. Vì vậy cụ tổ tôi mới lập họ Dương ỏ làng Linh Qui, rồi sau họ Dương hóa ra quan trọng, đông đinh nhất làng. Mỗi mùa hè về làng chơi, tôi mê đi chăn bò và được các hà Thím, bà Cô, các Anh các Chị chiều ra rít.
Thầy tôi còn nói Nhà Thờ Tổ cao cấp nhất của họ tôi là ở một làng ở huyện Đông Anh tỉnh Phúc Yên. Những năm cúng tổ, các bác tôi phải mang đồ lễ về Thuận Thành, họp các tông chi ở đấy rồi mới đi lên Đông Anh.
Thầy tôi ra làm việc ở Toà Tổng Đốc Hà Đông và về hưu cũng ở Hà Đông. Thầy tôi làm Thông Phán, người rất được cụ Tổng Đốc Hoàng Trọng Phu tín cần. Với gia đình cụ Thiếu Hoàng, thầy tôi thân như người nhà. Thầy tôi dạy các cô con gái cụ Thiếu học ở trong dinh. Thầy tôi là người ưa nhàn, không thích bon chen xoay xỏa, làm đủ nuôi vợ con thì thôi. Thầy tôi được cử đi Tri Châu nhưng ông không đi. Với chức Thông Phán đầu tòa, tôi đã được nghe các vị Tổng Lý đến nhà tôi, vái thầy tôi rạp đến tận đất và xưng hô chúng con, quan lớn, cụ lớn nghe thật long trọng.
Từ Linh Qui, Bắc Ninh, Thầy tôi sang làm việc và lập nghiệp ở Hà Đông đề rồi tôi sinh trưởng ở đó. Nguyên nhân là ông nội tôi làm việc với Quận Công Hoàng Cao Khải. Dường như có một thời, Cụ Quận trị nhậm ở Kinh Bắc, tức là ở tỉnh Bắc Ninh. Bố làm với Bố, con làm với con. Cuộc phục vụ diễn ra trong gần một trăm năm trời bị trị.
Cuộc phục vụ ấy không kéo dài tới ba đời. Đến tôi là dứt. Tôi có muốn tiếp tục việc phục vụ cho gia đình họ Hoàng cũng không được vì cụ Hoàng Trọng Phu không có con trai. Cụ chỉ có mỗi một Cậu Ấm, mà cậu lại chết bất đắc.
Người ta sống ở đời này, chắc phải có số mạng, chắc phải có một sức mạnh vô hình điều khiển cuộc sống của con người, làm cho người này sung sướng, sống lâu, giàu có, đông con cháu, vợ đẹp chung thủy, làm cho người kia khổ sở, chết non, hoặc sống cũng như chết, nghèo nàn, con cháu chết trước, vợ cho mọc sừng. Ngày xưa, khi mới bước chân ra khỏi cửa gia đình để đi vào cuộc đời, tôi tương đối gặp nhiều may mắn, tôi không nể sợ gì hết, tôi báng bổ, tôi không tin là đời có số. Với thần linh và những đấng mà người chung quanh tin lưỏng, thờ phượng không những tôi không tin, mà tôi còn nhạo báng.
Người ta phải đi nửa đời — có người đi hết cả đời vẫn không biết — mới có thể hiểu, biết đời là gì, đời có những gì. Nếu chúng ta chỉ sung sướng, chỉ gặp toàn thành công không mà thôi, cuộc đời chúng ta vẫn chưa đầy đủ, vẫn thiếu. Phải có thất bại, phải khổ đau mới là sống, có những đau khổ bẩn thỉu và có những đau khổ đẹp. Những đau khổ đẹp làm đẹp đời sống. Nhưng với một điều kiện là đau khổ vừa thôi, đừng đau khổ quá. Đau khổ quá làm cho tâm hồn chúng ta trơ cằn, trở thành chai đá. Đau khổ quá làm cho tâm hồn chúng ta tê dại, không còn rung cảm và thông cảm được những nỗi đau khổ của người khác. Đau khổ vừa, trái lại, làm cho chúng ta thương người và thêm bao dung.
«Không ai giàu ba họ. Không ai khó ba đời..» Những câu nói thông thằng của cổ nhân vậy mà đúng không thể tả. Như gia đình cụ Thiếu Hoàng ở Hà Đông chẳng hạn. Quận công Hoàng Cao Khải rồi đến Thiếu bảo Hoàng Trọng Phu quyền uy như hai vị Phó Vương đất Bắc. Quận công họ Hoàng hét ra lửa làm thơ vịnh Hai Bà Trưng với những câu đặt Hai Bà ngồi vào hàng ghế khiêm nhượng, khuất lánh mà xã hội Á Đông vẫn dành cho đàn bà… «Oanh liệt khen cho gái dị thường….».
Nhưng gia đình ấy dòng họ ấy không hiển hách được ở BV đến ba đời. Những ngày cuối cùng của cụ Thiếu Hoàng trời buồn và tắt dần trong thời buổi nhiễu nhương hồi Việt Minh mới lên nắm chính quyền. Trước năm 1946 chừng 4 năm cụ Thiếu đã về nghỉ, nhường ghế Tống Đốc Hà Đông lại cho ông Vi Văn Định rồi ông Hồ Đắc Điềm. Nhưng tuy về nghỉ cụ vẫn còn là một nhân vật quan lại mà chính quyền Việt Minh thấy cần phải bôi lọ và làm cho mất uy tín. Ông cụ mất trong tòa nhà ở đường Cột Cờ Hà Nội. Đám ma về Thái Hà Ấp tẻ nhạt. Người ta còn đồn rằng cụ Thiếu tự tử chết vì sợ Việt Minh đem ra làm xấu, và cụ chết giả? Nếu là sau năm 1954, cụ Thiếu Hoàng chắc chắn bị đấu tố ra gì.
Chuyện quả báo ở đời này chắc rằng cũng có. Có thể vì Quận công Hoàng Cao Khải đã chém giết nhiều người — tôi nghiệm thấy chỉ cần giết oan một người thôi cả cuộc đời mình cũng đã bị hồn oan theo, phá hoại, làm hại — tới đời con cháu cự gặp nhiều tai họa. Cụ Thiếu Hoàng chỉ có một cậu con trai nay lại chết sớm.
Bây giờ là tháng mấy nhỉ?? Tôi nhớ đò là một buổi chiều một tháng gần mùa hạ nắng. Mùa hạ Bắc Việt nắng và nóng khủng khiếp. Giường chiếu vào khoảng hai, ba giờ trưa khi có lửa đốt, như khô cong và sắp nứt nẻ. Tôi học ở trường Tự Đức của ông Giáo Kiên. Năm giờ chiều tôi có xe tay nhà đến trường đón, nhà nào có xe tay nhà Omic sơn đen, gọng đồng vàng ngời, đã sang như bây giờ có xe hơi HK. Thằng Hướng, thằng xe nhà tôi, đón tôi từ trường về ghé vào dinh Tổng đốc chờ đón Thầy tôi về. Tôi vào dinh chạy chơi. Thềm nhà cao, những dẫy hành lang dài và sạch. Phòng làm việc của thầy tôi có cái quạt trần bằng vải, ngoài cửa có một anh bé con bằng tuổi tôi vừa ngồi kéo quạt vừa ngủ gật. Trên bàn thầy tôi có cái máy đánh chữ Remington, một thứ cơ khí hoàn toàn mới lạ với tôi. Tôi tò mò hỏi máy đó là máy gì? Thầy tôi nói đó là máy chữ. Ông cho tôi ngồi lên bàn, cho một phong bì vào máy, gõ lách tách mấy cái. Phong bì màu xanh di chuyển trên trục máy đen sì. Nhưng chữ in mầu xanh đậm hiện ra trên nền giấy mầu xanh nhạt. Từng chữ, từng chữ theo nhau:
Monsieur DƯƠNG TRỌNG HẢI
No 116 Boulevard de lu République
HÀ ĐÔNG — TONKIN
Phong bì thư đầu tiên mang tên tôi trong đời tôi là một phong bì do người sinh ra tôi đánh bằng máy chữ. Trong phong bì không có thư, không có một chữ nào khác ngoài tên tôi, không có những lời âu yếm như — « Bố yêu thương con lắm – Bố thương con nhất đời – Với bố, con là nhất» — cũng không có những lời mong ước — « Bố mong mai sau con sẽ đỗ đạt cao, con sẽ làm quan, con sẽ hách, con sẽ làm họ ta mở mày, mở mặt với thiên hạ..» — cũng chẳng có những lời yêu cầu — « Hải, con phải có hiếu với thầy…»
Nhưng… trong phong bì thư đó, có chứa đựng tất cả những nỗi yêu thương, trìu mến mà vũ trụ này có thể có. Tôi có thể tả vi vút về mọi thứ tình yêu, nhưng tôi tự thú: tôi không thể tả được một phần nghìn của thứ tình yêu đã dành đã gởi cho tôi trong bức thư không lời trong một buổi chicu mùa hạ trong Dinh Tổng đốc Hà Đông.
Có những tình yêu không thể tả bằng lời, không thể không nên và không được. Như tình yêu cha con, như tình yêu vợ chồng, nói tóm lại là tình yêu thuần túy. Tình yêu không còn gì khác. Tình yêu chỉ có thể nói được trong ba tiếng «Bố yêu con», «Anh yêu em», rồi thôi đừng nói gì hơn nữa. Bởi vì thế đã là đủ quá rồi. Bởi vì nếu khi người bố nói với con rằng «Bố yêu con» mà đứa con không hiểu, đứa con đó mai sau chắc chắn sẽ ăn mày, ăn nhặt. Khi người đàn ông nói « Anh yêu em » mà người đàn bà chưa thấy tình yêu, chưa cho là đủ, thì cũng chẳng còn có gì để mà nói thêm với nhau nữa.
★
Tôi chạy chơi trong Dinh — Những văn phòng lúc đó còn có người, những ông Thừa, ông Lục lạ mặt — Tôi đi ra vườn cây. Tuổi trẻ, mỗi khu vườn không phải là vườn nhà mình, là một khu rừng cấm tràn đầy bí mật và cần thám hiểm. Với một đứa bé vừa qua mười tuổi, mỗi căn nhà lạ không phải nhà mình là một thế giới khác.
Và tôi tha thẩn đi chơi một mình trong vườn cây dinh Tổng đốc Hà Đông. Những lối sỏi có nhiều hòn sỏi nhỏ, vân đỏ, đen, tím lượm cầm chơi một lúc, bỏ túi đề rồi lại vứt đi. Những bồn cỏ được những chú lính lệ chăm tưới mỗi chiều, tuy mùa hạ vẫn xanh tốt. Những chậu trồng cây hoa mà tôi không biết tên.
Một buổi chiều tháng hạ đó, đang đi thơ thẩn trong khu vườn vắng trong dinh tôi bỗng gặp một cụ già — Một cụ già mặc áo gấm lam —Người dong dỏng cao, hai tay dài, tóc bạc, da trắng trông thật sang và hiền từ. Ông cụ cũng đi thơ thẩn trong vườn như tôi. Thoắt thấy tôi biết ngay ông cụ là cụ Thiếu Hoàng, là người đang làm chủ tòa dinh thự này, là người chỉ huy cao cấp nhất ở đây. Tự nhiên, tôi có một thái độ ngoan ngoãn, hiền lành.
Chắc ông cụ nhận thấy vẻ ngoan hiền ấy của tôi, nên khi trẻ già gặp nhau trên lối sỏi của buổi chiều mùa hạ, ông cụ hỏi tôi:
– Cháu là con nhà ai?
Tôi xưng tên tôi và tên thầy tôi, và nói thêm rằng tôi đi học về, vào đón thầy tôi cùng về.
Ồng cụ khen ngoan, và chúng tôi chia tay nhau. Đó là lần đầu tôi gặp cụ Thiếu Hoàng và là lần duy nhất tôi với cụ trao đổi vài lời hỏi đáp. Sau đó còn một vài lần nữa tôi nhìn thấy ông cụ ngồi trong xe hơi đi ra Hà Nội hoặc từ Hà Nội về. Vài năm sau, cụ Thiếu mất. Cảm nghĩ của tôi về cụ Thiếu Hà Đông là ông cụ trông người đẹp, sang, hiền từ và bây giờ khi nhớ lại hình ảnh cũ, tôi thấy thêm là buổi chiều đó, ông cụ buồn, cô đơn.
★
Đối với tôi, thầy tôi là một người cha hoàn loàn về tất cả mọi mặt tình cảm.
Trái hẳn với tánh tôi: bừa bãi, tham lam, mê đắm, dễ sa đọa, lười biếng, thầy tôi sống hoàn toàn trong sạch, ông không có một tật xấu nào, ông không cờ bạc, không uống rượu. Năm tôi 20 tuổi, tôi đã hút cặn thuốc phiện đầu tiên trong đời, hai mươi mốt tuổi, tôi đã ra vào các tiệm hút như người cặp sách đi học «cours particulier» buổi tối. Nhưng suốt đời thầy tôi, chắc ông không hề hút thử lấy nửa điếu thuốc phiện.
Thầy tôi có số sát thê kinh khủng.
Nếu tôi giống người về cung thê tử, chắc là tôi sẽ đau khổ lắm. Thầy tôi đã có 4 bà vợ trước khi gặp mẹ tôi. Cả 4 bà cùng theo nhau lấy vé tàu suốt đi về suối vàng sau một vài năm chung sống với thầy tôi.
Thầy tôi phải chôn 4 bà vợ, nhưng không có thời gian nào ông có vợ bé — chỉ một bà, một bà rồi lại một bà — Bà này tịch đi ông mới cưới bà khác. Anh em chúng tôi không bao giờ bị khổ vì nạn vợ nọ, con kia của bố.
Một địa danh nữa về tỉnh lỵ Hà Đông cân phäi kể: Hà Đông còn được gọi là Tỉnh Đơ.
Vì thị xã nằm trên đất của làng Cầu Đơ. Làng này bao quanh thị xã Hà Đông cũng như tỉnh Gia Định bao quanh thủ đô Saigon.
Vì vậy, thị xã Hà Đông còn được, nọi là tỉnh Đơ. Chợ Hà Đông còn được gọi là Chợ Đơ.
Bây giờ là tháng mấy nhỉ? Có lẽ cũng là một buổi chiều mùa xuân, trời ấm mát, không có mưa, không có nắng. Hai cha con tôi dắt tay nhau đi chơi trong cánh đồng làng Đơ. Khoảng cuối phố Bóp Kèn, gần nhà tôi, có một con đường đất khá lớn, xe hơi có thể chạy được, đi qua cánh đồng vào trung tâm làng đơ. Đầu kia của con đường là Chợ Đơ. Ven con đường này có một truông lớn. Mùa thu, tôi và các bạn vẫn đem cần ra đây ngồi câu cá.
Thầy tôi mặc quốc phục, gọi nôm ra là mặc quần áo ta: chít khăn, áo dài, quần vải trắng. Thầy tôi nhuộm khăn đen. Với thê hệ bây giờ ông là người cổ, ông được gọi là «người của thế hệ trước ». Ngày thầy tôi đổi vào Nam làm việc, người ở xóm Hòa Hưng có người tưởng ông cụ làm nghề thầy cúng. Ở Saigon, chỉ có những ông làm nghề thầy cúng mới bận áo dài thâm, chít khăn đen.
Thầy tôi không chơi tennis như một số các ông Tham, ông Phán khác. Ông hút thuốc lào đánh tổ tôm, tài bàn. Thú tiêu khiển theo Âu Tây của thầy tôi là thú đi bắn chim gáy ở những làng quanh thị xã vào mùa lúa chín. Ông có khẩu súng săn hai nòng rất đẹp. Tôi còn nhớ khẩu súng đó Calibre 16, được gác ngay trên hai trạc sừng hươu giữa phòng khách nhà tôi. Trạc dưới của sừng hươu gác một thanh kiếm cổ. Khẩu súng săn bị Tự vệ Hà Đông mượn mất,
thanh kiếm về sau được mang theo đồ tản cư về nhà quê, và bị thầy tôi ném xuống ao mất tiêu.
Tôi vẫn đi theo thầy tôi trong các cuộc đi bắn chim. Tôi cầm chùm dây do nhà Chaffanjon Hà Nội bán, dùng để choàng cổ những con chim bị bắn mang về. Trong túi tôi có một số tiền cắc, dùng để chi cho những anh bé con đi nhặt chim. Những con chim gáy bị bắn trúng thằng rớt vào vườn sau bụi tre, hoặc vào giữa bụi tre. Những anh bé con may tay tìm thấy chim mang ra nộp là được tôi chi cho một khoản tiền công nhỏ.
Nhưng buổi chiều mùa xuân ấy, chúng tôi không đi bắn chim. Thầy tôi đi ra đồng chơi, dắt tôi đi theo. Ở cánh đồng này nhà tôi có vài thửa ruộng cho lấy rẽ. Một bà vợ đã chết của thầy tôi là người Làng La Khê – mẹ tôi vẫn gọi bà nầy là bà La Khê – được mang về chôn ở đồng làng La Khê, còn ba bà kia được chôn ở thửa ruộng của thầy tôi ở đồng làng Đơ. Một năm đôi kỳ, thầy tôi đi qua thăm mộ. Và gần như lần nào cũng có tôi đi theo. Song, chẳng thấy ông thắp hương hay ngồi suy tưởng bên ngôi mộ nào lấy nửa phút.
Năm ấy tôi mười hai tuổi. Cái khiếu về âm nhạc duy nhất của tôi mới là tài thổi harmonica. Tôi còn nhớ những cây kèn Nhật thổi nặng đến nổi xong một bài One Day hoặc Biệt Ly, Buồn Tàn Thu – bắt chước tây Le, cây kèn Harmonica vẫn thường biểu diễn tại các trường tiểu học khắp các tỉnh Bắc Viêt – tôi mệt vì hết hơi đến hoa cả mắt, bủn rủn cả chân tay.
Tôi chưa hề mó tay đến cây đàn banjo, cũng chưa thuộc một «nốt» nhạc nào, không hiểu vì lý do nào, tôi nghĩ rằng mai sau tôi có thể làm một nhạc sĩ nổi tiếng và tôi sẽ làm nhạc sĩ. Vì vậy, buổi chiều xuân ấy, khi thầy tôi hỏi:
– Mai sau con lớn, con muốn làm nghề gì?
Tuy còn nhỏ, tôi cũng biết đó là giây phút thật quý báu trong đời người làm con. Tôi cảm thấy tôi cần phải nói thật, dù lời nói thật của tôi có làm cho ông cụ tôi buồn, lo hoặc thất vọng. Vì không nói thật với bố trong những giây phút này, người con sẽ chẳng còn mấy dịp để mà nói thật nữa.
Trong suốt cuộc giao thiệp bố con, có thể là dài năm mươi năm, sáu mươi năm, chỉ có nhiều nhất là ba dịp bố con tâm sự với nhau là cùng.
Không do dự, không dấu diếm, tôi trả lời ngay:
– Mai sau con muốn làm nhạc sĩ.
– Nhạc sĩ? – Thầy tôi có vẻ ngạc nhiên. Đây là lần đầu tiên ông nghe tôi thổ lộ tâm sự và thốt ra một ý muốn khác thường: muốn làm nhạc sĩ. Ông chờ đợi tôi nói những câu như: con muốn làm quan, làm bác sĩ v.v… Nếu tôi nói thế, chắc ông cụ khoái lắm.
Tôi cũng có lẽ là anh họ Dương thứ nhất tuyên bố muốn trở thành nhạc sĩ.
Sự ngạc nhiên làm thầy tôi đang đi phây phây phải đứng dừng lại. Ông nhìn tôi. Ông đang cầm tay trái tôi bằng bàn tay phải của ông, lúc đó ông cầm bàn tay trái tôi bằng cả hai bàn tay ông.
– Con muốn đánh đàn? Nhưng… đánh đàn đâu có phải là một nghề? Cái đó chỉ để chơi thôi đâu có thể nuôi sống được con? Con còn có vợ con, con phải nuôi nữa chứ. Con phải học để đi làm lấy tiền nuôi thân, nuôi gia đình, con chỉ đánh đàn để mà chơi được thôi.
Con người ta ở cõi đời này không phải cứ muốn cái gì là được cái đó, là vừa ý. 2475 năm trước năm trước năm nay có một nhà hiền triết suốt một đời vất vả đi giang hồ quanh năm mà không làm nên cơm cháo gì, tên là Khổng Khâu – ông này mải đi liệt quốc để lập danh đến nỗi bị vợ ở nhà cho mọc sừng đau như hoạn – đã đau đớn nói ra một câu để đời «Người ta ở đời này cứ mười việc ước muốn thì có đến tám, chín việc không được như ý ».
1102 năm sau ngày Khổng Khâu nói câu đó, vị chưởng môn của Phái Tiêu Diêu ngồi lơ lửng cả 30 năm ở giữa không khí bằng cách buộc mái tóc vào sà nhà trong căn nhà gỗ thông không có cửa ra vào, chờ đợi một anh thiếu niên đẹp trai, con nhà quí phái như Mộ Dung, như Đoàn Dự bước vào để truyền thụ thần công 70 năm tu luyện, khi thấy anh nhà chùa Hư Trúc xấu trai, mũi huếch, tai vểnh, mắt trố sau khi tình cờ phá giải được thế cờ thử thách ngoài sân phom phom bước vào, lại nói – «Người ta ở đời này mười việc có tới tám, chín việc không được như ý».
Ngày xưa tôi muốn làm nhạc sĩ nhưng vì không phải con người ta ở đời này muốn cái gì cũng được. Nên dù muốn, tôi vẫn không trở thành nhạc sĩ. Đó là một ân hận trong vài cái ân hận của tôi. Đáng lẽ ra, tôi phải có điều kiện để diễn tả những tình cảm yêu thương, sung sướng, đau đớn của tôi bằng âm thanh. Những dòng chữ ghép bằng 24 chữ cái và có 5 dấu chỉ âm cao thấp này, theo tôi, yếu và giống nhau quá. Khi ta sung sướng, ta cười lên ha bả, ta kêu ầm lên. Khi ta đau đớn, ta khóc rú lên. Những âm thanh đó khác nhau biết chừng nào. Còn chữ viết không có âm thanh. Chữ viết không truyền được cho người khác những cảm giác một cách mau lẹ như người viết muốn. Chỉ ba tiếng kèn trompette, chỉ một đường tay lướt trên phím ngà piano, những âm thanh phát ra có thể làm cho các em đẹp nhất ở cõi đời này xúc động đến da thịt nổi da gà, sởn gai ốc, người co rúm lại và tâm hồn tê tái đến són đái ra slip Scandal. Tiểu thuyết với chữ viết muốn đạt được thành quả ấy, còn mệt.
«Em yêu dấu, lẽ ra anh phải là nhạc sĩ. Thế kỷ này là thế kỷ của âm Thanh. Lòng người không đủ tĩnh để cảm thông với chữ viết. Chỉ có âm nhạc với hàng trăm âm cao thấp của nó, mới đủ để diễn tả những yêu thương, sung sướng, đau đớn của anh, của loài người và những gì chất chứa, sống và chết trong tình yêu đôi ta.
Nỗi ân hận vì mình không trở thành nhạc sĩ của anh càng tăng khi ngoài ba mươi tuổi, khi thấy mình không còn đủ thì giờ và điều kiện để trở thành bất cứ một con người nào khác con người mà mình đang là, anh đi xem cuốn phim Jazz à Newport, để thấy những người chơi nhạc tụ về bờ biển Newport làm một cuộc trình diễn chung. Những người nhạc sĩ ra sân khấu trông đẹp như những thiên thần. Người ca hát chỉ cốt để làm vui cho đồng loại. Người ca hát, trừ một thiểu số hạ cấp, rẻ tiền, không bao giờ làm cho đồng loại phải đau đớn hoặc buồn rầu. Đó là một việc làm xứng đáng với những tâm hồn đẹp. Một việc làm xứng đáng với anh.
Song, hôm nay, tháng này, anh đã không là nhạc sĩ, mặc dầu ngày xưa, ngay từ ngày mới lớn, chưa đến tuổi mười lăm, mười bẩy, anh đã ước mơ làm nhạc sĩ. Bởi vậy, anh không thể diễn tả được tình ta bằng âm thanh, anh không thể gọi em bằng trompette, anh không thể vuốt tóc em bằng violon, anh không thể để những ngón tay anh đi lại tung tăng trên da thịt em hằng những nốt piano, anh không thể đánh đập em bằng trống, anh không thể cấu vào được em bằng violoncelle…
Vì vậy, hôm nay anh phải mượn lời nhạc của người khác để nói thêm với em, ngoài những gì anh nói với cm bằng chữ viết.
Bây giờ tháng mấy rồi hỡi em?
Lênh đênh, ngàn mây trôi êm đềm
Chiều nay, nếu em đừng hờn dỗi
Trách nhau một lần thôi
Tâm hồn mình đâu lẻ đôi.
Bây giờ tháng mấy rồi hỡi em?
Anh đi tìm mầu hoa em cài
Chiều nay, nhớ em rồi và nhớ
Áo em đẹp mầu thơ.
Môi tràn đầy ước mơ.
Em ơi, thôi đừng buồn anh nữa….
★
Ngày xưa, tại sao khi mới mơ hồ biết ước mơ, khi chưa ước mơ tình yêu, chưa có bóng người thiếu nữ tóc thề, mắt biếc nào ẩn hiện trong những giấc mơ mộng tinh, tôi đã mơ làm nhạc sĩ?
Mọi ước mơ ở cõi đời nầy đều có nguyên do nhất là những ước mơ ta có từ ngày ta mới lớn.
Tính tôi bừa bãi, bê bối, buông thả, không thích ghép mình vào lệ luật, tôi học toán rất dở, tôi vì nó có những định luật, những phép cộng, trừ, nhân, chia, phải theo đúng, không thể muốn làm gì thì làm cũng được. Những năm đi học, cứ đến giờ toán là tôi xách cặp đi bát phố hoặc vào Cinéma ngồi.
Tôi học không khá được, không đỗ đạt được là vì tôi ghét Toán, tôi ghét sự bó buộc của nó, tôi ghét phải nhớ những con số, những phương trình.
Nhưng những giờ học về văn chương, sử địa đều có tôi chăm chỉ ngồi. Về sinh ngữ cũng vậy, tôi thích những gì liên can đến tiếng nói. Tôi thích những chuyện gì nói hai tiếng cũng được mà cao hứng nói ra 2,785 tiếng cũng được. Về văn Anh, Pháp, nếu giáo sư bắt tôi làm phân tích mệnh đề, có thể tôi bí, tôi làm sai đấy. Song, nếu bảo tôi dịch một câu văn ngoại ra văn Việt, tôi dịch lưu loát ra trò.
Tại sao tôi lại mơ ước là nhạc sĩ? Phải có nguyên do chứ? Mọi sự ở đời nầy đều có nguyên do chứ? Nếu chúng ta chịu tìm, nếu chúng ta tìm đúng, chúng ta sẽ thấy nguyên do của mọi chuyện.
Nguyên do: tôi mang bản chất lãng mạn thích văn nghệ thừa hưởng của bên ngoại. Ông ngoại tôi làm thơ hay, sâu sắc, mẹ tôi là một người đàn bà có nhan sắc và tài hoa, nhưng tài hoa của mẹ tôi không nẩy nở.
Nguyên do đậm nhất là tôi bị ảnh hưởng của xi-nê. Ngoài mười tuổi, tôi mê xi-nê như mê đi bơi sông, mê đánh Ping-Pong. Mê chơi đến bỏ học. Ngoài những phim cao bồi có Gary Cooper đóng, tôi vừa được coi hai cuốn phim bất hủ, vô song diễn tả một cách lãng mạn, thơ mộng hóa cuộc đời của hai nhạc sĩ Johann Strauss và Franz Schubert.
Johann Strauss trong phim Toute la ville danse. Johann sống và yêu thương, hy vọng và thất vọng trước mắt tôi dưới nét mặt Fernand Gravey. Chàng nhạc sĩ đang giờ làm việc, đáng lẽ phải chép sổ lại xé giấy sổ viết bản nhạc, đến sở làm trễ, chậm bị chủ đuổi. Đó là nhạc sĩ Johann Strauss.
Franz Schubert thầy giáo tỉnh lỵ, hiền lành đến nỗi bị bọn học trò con nít bắt nạt, đang viết mấy con toán nhân trên bảng đen bỗng nổi hứng ghi luôn một bản nhạc. Và cả lớp học trò ngừng phá để hát theo thầy.
Và để Thầy cũng bị mời ra khỏi trường. Thầy đói, thầy mang cây đàn ghi-ta đi cầm. Hình ảnh người nhạc sĩ mang đàn đến tiệm cầm đồ làm tôi xúc động nhiều, xúc động và nhớ: hình chàng in trên làn kiếng mờ, người thiếu nữ con nhà cầm đồ hỏi tên, chàng đáp:
– Franz… Franz Schubert….
Tôi nhớ rõ lúc chàng nói hai tiếng – «Franz… Franz…»
Cô gái nhà cầm đồ mê nhạc sĩ Franz Schubert, muốn giúp chàng có tiền nên đánh lừa ông bố – các em khi bị bả tình yêu các em thật nhảm, các em phản hết, cả bố mẹ các em là những người sinh dưỡng các em, các em cũng phản vì một thằng cha căng, chú kiết từ đâu dẫn xác đến xuất hiện trong đời em như thường – em biên gấp năm, gấp sáu số tiền giá cây đàn đã chuyển qua «két» cho ông bố, và ông bố tin con gái, cứ thế chi tiền, làm cho nhạc sĩ nhà ta quýnh cả chân tay lên vì thấy tiền nhiều quá.
Nhạc sĩ Franz…Franz Schubert được con gái tiệm cầm đồ yêu mê, nhưng chàng không yêu mê em cầm đồ, chàng lại yêu mê con gái nhà bá tước, một em quí phái kiêu sa, lãng mạn ra gì. Cũng như nhạc sĩ Johann Strauss được em con gái nhà hàng bánh yêu mê, nhưng lại đi yêu mê một bà công tước lẩm cẩm nào đó. Những sự yêu mê ngoại tình ấy làm cho đời có những bản nhạc tình bất hủ Le Beau Danube Bleu, One Day, La Forêt de Vienne. Nếu Johann Strauss vui và an phận bánh nhà quà vợ với em con nhà hàng bánh, chàng sẽ mập ú, má phính, bụng phệ và chàng chỉ là tác giả của một lũ tí nhau vô bổ cho xã hội. Nếu Franz Schubert an phận làm một ông chủ tiệm cầm đồ, cả ngày ngồi viết biên lai cầm cố đồng hồ, radio, tính tiền lời, cuộc đời chàng và cuộc đời này đã chẳng có những bản Symphonie Inachevée, Ave Maria.
Chẳng biết trong cuộc đời thật, Franz Schubert sáng tác bản nhạc Dang Dở ấy trong trường hợp nào – có thể như một văn sĩ cạn nguồn văn, bỏ dở một truyện viết nửa chừng – Franz Schubert cũng có thể bỏ dở bản nhạc đó vì bí hứng, nhưng ở trong phim, chàng xé bỏ đoạn cuối bản nhạc vì yêu. Chàng chỉ đờn trên piano bản Symphonie đó có hai lần cho người yêu nghe. Lần đầu, vì nàng bất lịch sự cười rinh rích khi chàng đang dạo đàn nên chàng ngừng ngang, lần thứ hai nàng đã có chồng, ngồi nghe chàng biểu diễn bản nhạc cũ hồi tưởng lại thời mình còn con gái, nghĩ đến tình cũ, tình bây giờ, nàng xúc động đến nỗi ngất xỉu, và một lần nữa, chàng lại ngừng đờn nửa chừng.
Nhà nào có đàn, con gái sẽ dâm… Các cụ nói trúng phóc, chẳng sai câu nào. Tiếng đàn có ma lực kinh khủng thật. Đánh đàn đến nỗi con gái nhà người ta ngất đi. Trong giới văn nghệ sĩ, kẻ sĩ được nhiều đàn bà, con gái yêu, mê nhất không phải là thi sĩ, văn sĩ, lại càng không phải là hoạ sĩ, mà là các anh thầy đờn, thổi kèn, ca hát.
Vì hai cuốn phim Toute la ville danse và La Symphonie Inachevée mà sự say mơ trở thành nhạc sĩ trong tôi gia tăng. Cuốn phim thứ ba có ảnh hưởng đến tôi là phim La Symphonie Pastorale: một phim Nhật, tên Việt là Khúc Nhạc Đồng Quê.
Vào những năm này, Nhật chưa đảo chánh Pháp nên cuốn phim Nhật vừa kể còn có tên Pháp. Lần đầu tiên, màn ảnh Hà Nội xuất hiện một phim Nhật nghệ thuật. Trước đó, Hà Nội chỉ mới chiếu những phim, tuyên truyền đề cao Quân-đội Thiên Hoàng bách chiến, bách thắng và đánh hạ giá quân Anh – Mỹ ở Á Châu như phim «Tân Gia Ba thất thủ » v.v… Vai chánh của phim Khúc Nhạc Đồng Quê là một thanh niên thuộc loại «chân chỉ hạt bột », có tài kéo đàn cò Tây, tức Violon, được cô con gái ông chủ mê tít cứ khăng khăng đòi bố cưới chàng làm chồng.
Trên màn ảnh, cuộc sống của những chàng nghệ sĩ đẹp và phong lưu như những ông Hoàng, hơn cả những ông Hoàng, Cinéma cũng thỉnh thoảng năm thì, mười họa, lâu lâu mới có một lần – cũng đề cao cuộc sống của một anh chân chỉ hạt bột, hoặc những anh có chí thì nên, cố gắng học hành để đỗ đạt, để sáng chế ra những phát minh làm lợi cho người đời. Song, cuộc sống của những sinh anh chân chỉ hạt bột cơm nhà, quà vợ chẳng có gì gay cấn, không có một xu thơ mộng dù có được làm thành phim cũng chẳng có ma nào ưa, không hấp dẫn được ai cả, kể cả những người cơm nhà quà vợ quanh năm. Bởi vì, những anh cơm nhà, quà vợ mới là những anh ôm mộng chơi bời nay em này, mai em khác mơ thay vợ như thay áo may-ô, hơn ai hết.
Vì vậy Cinéma Âu-Mỹ chỉ chăm khai thác cuộc đời của những gã giang hồ hoặc chơi bời phóng túng. Ai cũng thích, thiên hạ đi coi chật rạp. Chẳng hạn như cuộc đời của lãng-đãng-tử Clark Gable trong phim L’Incendie de San-Francisco.
Trong phim Lửa Cháy Thành Thánh Phăng- Xi- Cô đã được xếp vào Lịch sử Điện Ảnh này, Clark Gable đóng vai một anh chủ Bar – Dancing Bar của anh có cô đào hát Jeannette Mac Donald đến trình diễn. Chủ Dancing mà kết với nữ ca sĩ thì đẹp đôi nhất rồi – đẹp đôi đến nỗi không cặp tình nhân nào có thể đẹp đôi hơn được nữa trừ hai cặp văn sĩ – vũ nữ – em ca sĩ Jeannette Mac Donald có giọng oanh vàng của Thái Thanh và cái nhan sắc của Thẩm Thúy Hằng – gái một con trông mòn cả hai con mắt – Em hát hay, em quyến rũ, em đa tình nhưng em vẫn ngây thơ, vẫn là con nhà lành, em vẫn chưa biết đàn ông là gì và em chưa biết những người đàn bà nhan sắc như em có thể làm những gì cho đàn ông. Mà anh chủ Bar-Dancing Clark thì lại là trai tứ chiếng chơi bời, phóng đãng quá cỡ.
Em yêu dấu, cũng như em đã yêu anh, cũng như em đã cho anh tất cả, cho anh nhiều hơn là anh đáng được cho, cho nhiều hơn là anh đòi hỏi, Jeannette Mac Donald nữ ca sĩ đã yêu, đã cho Clark Gable chủ Bar-Dancing như thế trong phim nhưng chủ Bar Clark Gable chơi bời, phóng đãng, khinh mạn quen rồi, anh làm cao, anh hắt hủi mối tình chân chính ấy. Anh làm nàng giận, nàng hờn và khi nàng giận hờn mà nàng không làm gì được, nàng bèn « phú lĩnh », tức là nàng đi mất..
Nàng đi rồi – cũng như em đã yêu anh và em đã giận, đã hờn, đã xa anh, em đã đi mất – chủ Bar Clark Gable lúc đó mới biết là mình đã được yêu, được mê, được cho, được hưởng và mình đã mất tất cả tình yêu lẫn giai nhân tức là chẳng còn gì hết, đến lúc đó chủ Bar Clark Gable mới thấy người đã yêu mình là quí, là thơm, là vô song, là người duy nhất, người mà anh không bao giờ có thể tìm được người khác thay thế. Đến lúc đó chủ Bar Clark Gable mới cay cú, mới thấy thấm thía lời ca «Bây giờ tháng mấy rồi hỡi em?..»
Đến lúc đó đã là đoạn cuối của phim Lửa Cháy Thành Thánh Phăng- Xi- Cô rồi, và theo như cái tên phim, chém chết trong phim này cũng phải có xảy ra một vụ cháy nhà. Đúng vậy. Trong phim Lửa Cháy Thành Thánh Phăng- Xi- Cô không những chỉ có một trận cháy nhà mà là có những hai trận cháy nhà.
Hỏa hoạn đầu tiên ở đầu phim, cháy một khách sạn, vì vụ cháy này chàng và nàng gặp nhau. Vụ cháy thứ hai kinh khủng, rùng rợn, vĩ đại hơn. Cháy nhà vì động đất. Trận động đất, cháy nhà này tàn phá thành phố tan tành, làm cho bao nhiêu nhà đổ, hàng ngàn người chết, song có một cái hay là đó là một cơ hội để chàng và nàng tái ngộ.
Chủ Bar Clark Gable gặp lại Nữ ca sĩ Jeannelte Mac Donald trong cảnh hoang tàn, đổ nát của thành phố. Em nữ ca sĩ – như 1.792.813.056 người đàn bà đẹp ở cõi đời này, mỗi khi thấy đồng loại đau đớn, thấy có đồng loại chết, bèn tự hóa thành những nữ thần an ủi. Em nữ ca sĩ Jeannette Mac Donald đa tình – giữa thành Phan-Xi-Cô còn lửa cháy ấy – đã hóa thành một thứ Dì Phước dân sự săn sóc bọn trẻ nhỏ vừa mồ côi vì cha mẹ vừa chết. Dì Phước thường dân Jeannette Mac Donald ấy đang hát bản Ave Maria thì đãng tử Clark Gable Chủ Bar lọ mọ tới. Nghe tiếng nàng phơi phới bay lên, thần tiên, thoát tục, chàng hốt nhiên giác ngộ, lĩnh hội được đạo lý, bèn thấy đời mình tội lỗi và chàng bèn quì gối xuống, mặt ngước nhìn lên trời. Nàng bèn biết là chàng hối hận, bèn tha thứ cho chàng và lại trở về chung sống với chàng, họ lại yêu nhau như cũ.
Phim L’incendie de San Francisco là một phim hay trong số những phim hay mà tôi đã được coi thời tiền chiến ở những rap xi-né Hà Đông và Hà Nội. Tâm hồn tôi chịu ảnh hưởng những phim đó rất nhiều thật nhiều. Xem L’appel de la forêt, tôi muốn mai sau tôi sẽ một mình hai súng vào rừng, săn thú như Gary Cooper.
Xem Les Aventures de Buffalo Bill, tôi thấy chỉ có mẫu người cao bồi bắn súng như máy, một mình lăn qua phải, tung sang trái, hạ cả năm, sáu tên cướp mới là người hùng. Xem Toute la ville danse và La Symphonie Inachevée, tôi muốn làm nhạc sĩ, xem L’incendie de San Francisco tôi mơ sống cuộc đời lãng đãng tử, mở một cái Bar-Dancing, yêu toàn đàn bà đẹp để rồi sau cùng kết liễu cuộc đời bằng cách kết duyên với một em ca sĩ hát hay như Thái Thanh, đa tình như Thẩm Thúy Hằng và thơm như múi mít.
Qua phim Lửa Cháy Thành Thánh Phăng-Xi-Cô, cũng giống như qua 27.914.012 phim lửa cháy mọi thứ thành quách, thị trấn, thủ đô ở trên cõi đời nầy tôi rút được một kinh nghiệm: đàn ông phóng đãng cách mấy, khi gặp đàn bà đẹp, khi gặp Tình Yêu, vẫn bị Tinh Yêu cải huấn và cải hoá như thường.Và đàn ông cứ việc chơi bời, miễn là ở đoạn sau cùng tỏ ra hối hận là được đàn bà tha thứ rồi. Nhưng với một điều kiện tối cần, không có không được, là anh đàn ông đó phải có mã người, phải đẹp trai, phải hào hoa phong nhã, có đầy đủ kỹ thuật và nghệ thuật chiều chuộng đàn bà, làm cho đàn bà hài lòng.
Những anh đàn ông «cù lần», những anh đàn ông thiếu nhan sắc, dù có ăn ở hiền lành ngay từ thuở cha sinh, mẹ đẻ, dù có chiêu chuộng đàn bà hết lòng, cũng vẫn bị đàn bà chê và bỏ rơi không thèm đếm xỉa.
★
Đói. Rách. Những nghệ sĩ của chúng ta ở hồi đầu thế kỷ 20 này rất đói, rất rách. Văn nghệ ngày ấy chưa được kể là một thứ có thể giúp người ta sinh sống, có cơm ăn, áo mặc. Văn nghệ thời ấy chỉ là một món giải trí, có càng hay mà không có cũng chẳng sao.
Tác phẩm văn chương nào đẹp, hay và có giá trị cho bằng Truyện Thơ Đoạn Trường Tân Thanh của Thi Hào Nguyễn Du? Bài Tình Ca nào trữ tình cho bằng Khúc Ngâm Chinh Phụ của Đặng Trần Côn – Đoàn Thị Điểm?? Song những tác giả đó không ai được một xu tiền bản quyền bán sách. Sáng tác để cho không người đời, không đòi đồng bào mình trả lại chút nhỏ công lao nào hết. Người xưa mới đúng là làm văn nghệ thuần túy.
Nhưng đói thì đói dài, rách thì rách nát. Rách đến không còn có thể vá được. Nhà thơ Tú Xương có uống rượu uống mỗi ngày để mà là thơ là nhờ bà vợ giỏi buôn bán. Nhà thơ Tản Đà phải đi làm thầy bói. Tiểu thuyết gia Lan Khai vợ chết không có tiền làm đám ma, phải đến xin ký giấy bán trước 4 bộ truyện dài cho nhà xuất bản Tân Dân, để lấy tiền về mua áo quan cho vợ. Bị nhà xuất bản bắt bí, trả rẻ, Lan Khai cần tiền nên bao nhiêu, cũng nhận. Nhưng anh cay cú, nhưng anh thấm thía sự đểu cáng ấy, nhưng anh đau đớn, cho nên sau đó, viết tiểu thuyết trả nợ cho nhà xuất bản Tân Dân, anh chấm xuống hàng thật nhiều để cho mau đủ số trang. Chẳng hạn:
Lá rụng.
Vèo.
Nàng nhìn lên.
Trời mùa thu có nhiều mây trắng.
Gió reo…
Những trang tiểu thuyết hai, ba chữ một hàng như vậy kéo dài suốt bốn, năm cuốn tiểu thuyết viết trả nợ tiền làm đám ma cho vợ của Lan Khai.
Kết quả là tác giả, nhà xuất bản, lẫn độc giả cùng thiệt hại.
Những người chơi nhạc ở nước ta vào những năm 1930-1945, chưa sống được với đàn, địch, kèn, trống. Những nhà Bar-Dancing Hà Nội chưa có nhiều, khác toàn là Lính Tây, Lính Khố Đỏ đi giầy săng-đá nhẩy cồm cộp trên nền xi măng. Nhạc là nhạc máy hát. Vài nhạc sĩ chơi đàn, thổi kèn, muốn kiếm ăn chỉ có thể đi làm cho các rạp hát cải lương. Chỉ có một số nhỏ Dancing mướn ban nhạc đến chơi vào những đêm thứ bẩy, chủ nhật.
Thầy tôi đã đúng khi ông nói ngày ấy – một buổi chiều mùa xuân giữa cánh đồng làng Đơ, khi hai bố con tôi tâm sự – rằng thổi kèn, khẩy đàn, ca hát không phải là một nghề có thể nuôi sống tôi. Lời nói đó đúng nhưng chỉ đúng trong thời gian đó thôi. Sự thật của năm 1910 không còn là sự thật của năm 1950.