Hai
Từ 1940, sau khi Quân đội Phát Xít Nhật đặt gót giầy chinh phục lên mảnh đất cong cong hình chữ S nằm ven biển Thái Bình, nhiều thiên tai, hoạn nạn, bệnh não kinh khủng theo gót giầy xâm lược và theo nhau, tới hành hạ đám dân khốn khổ sống trên mảnh đất chữ S ấy.
Năm 1942, thuốc Tây không có, thuốc Tàu cũng hiếm, một chứng bệnh hiểm nghèo và mới tinh đến với dân Bắc Việt: bệnh đau màng óc.
Bệnh tật – những bệnh tật làm chết người – cũng như những tai nạn, tai họa – đến với con người ta không báo trước.
Buổi chiều, có lẽ là một chiều đầu mùa xuân, vì sau trận đau dài này, khi tỉnh cơn mê loạn lớn nhất đầu tiên trong đời, tôi thấy tôi sống những ngày mùa hạ nắng. Buổi chiều, vào lúc 4 giờ, tự nhiên tôi thấy tôi khó chịu.
Nhà tôi có một tầng lầu. Có vườn chung quanh. Nhà có cổng, một con đường lát gạch từ cổng vào đến nhà để chiếc xe tay Omic bên nhà bếp. Đó cũng là con đường tôi dùng để dượt chiếc xe ô-tô đạp năm tôi mười tuổi. Một bên đường là vách nhà, bên kia là vườn hoa, một bệ gạch xây cao chừng 80 phân, trên có đặt những chậu hoa lan, Thầy tôi thích chơi lan và khô mộc. Tôi lại kỵ lan nhất. Ngày đó, tôi chưa thấy cái đẹp của những bông hoa lan. Tôi ghét nó vì lá nó nhọn và sắc. Đứng gần những chậu lan, mặt tôi cao bằng những ngọn lá dài và nhọn ấy, tôi dễ bị lá lan chọc vào mắt.
Buổi chiều, bốn giờ, tôi còn nhớ tôi ngồi ở bậc cửa ngánh, nhìn ra vườn hoa. Cô hàng kẹo kéo đi qua, Chị Thìn – bà chị cả của tôi – mua cho tôi một xu kẹo. «Cây đớp» bị bệnh xâm lăng mạnh đến nổi ăn không hết xu kẹo.
Bệnh đau màng óc đến thật nhanh. Năm giờ chiều tôi vào giường nằm, sáu giờ tôi đã mê man. Hôm đó, thầy tôi có việc đi Hà Nội về muộn. Mẹ tôi lên nhà ông ngoại tôi chơi. Ông ngoại tôi, cụ Phủ Ninh, Nghiên Duy Ninh, chính quán tại làng Hòa Xá, Vân Đình, Hà Đông, cũng ở lại thị xã Hà Nội. Ông ngoại tôi có thời làm Thị Trưởng Thị xã Hà Đông, thời Nhật đã đảo chánh Pháp. Tôi chắc mẹ tôi lên nhà ông ngoại tôi đánh chắn với các bà dì, các ông cậu tôi, bỏ tôi nằm một mình nên tôi cay cú, tôi tủi thân. Khi mẹ tôi về tới, vào buồng chỗ tôi nằm, bà nghe tiếng cậu con nức nở.
Lúc đó, tôi nửa mê nửa tỉnh, nhưng khi mẹ tôi về tới, tôi tỉnh lại hoàn toàn. Cơn tỉnh lúc ấy ngắn thôi, vừa đủ để tôi biết rằng mẹ tôi đã về tới và tôi đã được săn sóc. Tôi nhớ rõ mẹ tôi vào buồng – căn buồng lúc đó tối om – mẹ tôi vừa bật đèn điện, vừa cười nói:
– Con trai gì mà lại khóc như con gái thế… Xấu quá.. Con trai thì phải giỏi dắn chứ…
Bà vẫn có lối nịnh nhẹ cậu con như vậy để kích thích tự ái của cậu con. Chẳng hạn như tôi lở chân hay bị sâu quảng, tôi sợ đau, mỗi lần rửa chân bằng nước ấm pha thuốc tím, chính tay mẹ tôi phải rửa và rắc thuốc vàng cho tôi. Bà vừa cầm những miếng bông gòn mơn mơn vết sâu quảng nổi bờ tròn trên cổ chân tôi, vừa nói ngọt như đường phèn – «con tôi gan lắm, con tôi nó anh hùng lắm….. Nó đau nhưng mà nó chịu được… Nó không khóc… »
Bà thường kể cho tôi nghe chuyện Quan Công ngày xưa đi đánh trận bị trúng tên tẩm thuốc độc vào cánh tay. Ông mời thầy thuốc tới điều trị. Ông vừa ngồi trật tay áo cho thầy thuốc cầm dao cắt chỗ thịt bị trúng tên tẩm thuốc độc, rồi dùng lưỡi dao cạo sồn sột vào chỗ xương bị nhiễm độc. Quan Công vừa đánh cờ, vừa uống rượu, thản nhiên để cho thầy thuốc nạo xương cánh tay. Bà kể chuyện Quan Công với mục đích khuyến khích tôi chịu đau. Bà còn nói đến chuyện mai sau tôi sẽ đỗ đạt, sẽ làm quan, sẽ lái xe hơi đi chơi oai như ông Huyện Hoài.
Ông Huyện Hoài thời thơ ấu của tôi là ông Huyện Hoài Đức, ông này có xe hơi, thường tới nhà mời thầy tôi đi đánh tổ tôm. Nơi lui tới của các ông ở Thị xã Hà Đông là nhà riêng mấy ông nhà giàu dân Cự Đà. Mấy ông Cự Đà này không có chức tước hay địa vị gì trong chánh quyền, các ông chỉ là nhà giàu chịu chơi, quen giao du toàn với các ông có chức việc. Đó là các ông Hai Lâm, ông Tám Thụ v.v.
Tôi nghe không trọn câu nói của mẹ tôi. Tôi lại mê man, nhưng từ giây phút này, tôi không lo sợ nữa.Tôi đã có mẹ tôi săn sóc ở bên. Từ giây phút đó, mẹ tôi không rời xa tôi nữa.
8 giờ tối, thầy tôi về tới nơi. Ông mời ông Đốc Miên, Giám đốc bệnh viện Hà Đông tới nhà, xem bệnh cho tôi. Ông này chỉ là Médecin, tức là Y sĩ, song ở Hà Đông, người ta vẫn quen gọi ông là ông Đốc, như Docteur vậy.
Ông Đốc Miên tới nhà. Ông bảo đỡ tôi ngồi dậy, bảo tôi cúi đầu xuống cho cằm chạm vào ngực. Nhưng tôi không cúi đầu xuống được, xương cổ tôi đã cứng rồi. Triệu chứng rõ nhất của bệnh đau màng óc là nhức đầu và xương cổ cứng.
Tôi là con đầu của mẹ tôi. Tiong số bốn bà vợ trước đã đi qua cuộc đời của thầy tôi, có hai bà sinh con. Tôi có hai chị và một anh cùng bố khác mẹ. Đến ngày thầy mẹ tôi « rổ rá cạp lại» – mẹ tôi đã có một đời chồng, và ông này qua đời sớm, tôi có một người anh cùng mẹ khác bố – tôi là anh con trai đầu của hai ông hà. Sau tôi toàn là em gái. Đến năm tôi đau màng óc, tôi đã có ba đứa em gái liền tù tì. Các cô Thu Nguyệt, Thu Thảo, Thu Mai.
Bởi vậy, mới có mình tôi là con trai. Cũng quí lắm. Cái tin tôi bị đau màng óc làm thầy mẹ tôi xúc động nhiều. Phải nói là cả họ tôi xúc động, cả khu phố Bóp Kèn gần nhà tôi xúc động, bàn tán.
Bởi vì vào những ngày của những năm từ 1940 đến 1945, chiến tranh cắt đứt đường liên lạc giữa Á Châu và Âu Châu, thuốc tây hiếm, quí và đắt như vàng. Thuốc Bắc cũng hiếm, cũng quí, cũng đắt, có nhiều thứ thuốc có tiền cũng không mua được. Môn thuốc Tây được chuộng nhất thời đó là Danégan: trừ bách bệnh. Bệnh gì cũng phải dùng đến Dagénan, từ đau lậu đến sưng phổi, sưng lá lách, đau dạ dày đến sưng màng óc. Người ta làm hàng sách kiếm sống bằng cách mua đi, bán lại thuốc Tây. Người ta chỉ có thể mua được thuốc Tây ở Chợ Đen mà thôi. Người ta làm Dagénan bằng bột nếp. Trong khi đó, những con bệnh nặng đau ốm không có thuốc điều trị. Chết. Mà bệnh đau màng óc lại là một chứng bệnh nặng nhất, bệnh mới, người ta chữa mò.
Nhà thương Hà Đông – cũng giống như tất cả những nhà thương tỉnh nhỏ ở trên cõi đời này – trước đôi mắt thơ ấu của tôi, là một khu tràn đầy bí mật và rùng rợn. Huyền bí và đáng sợ. Vì đó là một khu bệnh não, chết chóc. Bệnh và chết bao giờ cũng kinh tởm, cũng làm người sống sợ hãi, lánh xa. Kể cả những cái chết đẹp nhất, kể cả những cái chết của những người mình thương yêu nhất.
Đáng sợ vì Nhà Thương là nơi có người chết, có Nhà Xác, và có ma. Nhà thương Hà Đông nằm trên một khu đất lớn gần Trại Lính, sau dẫy phố Bóp Kèn, sau nhà ông Ngoại tôi. Cơ sở này khá văn minh, chia ra làm từng khu. Hàng rào dây thép gai và tường gạch bao quanh. Tôi và các hạn thân của tôi rất kỵ vào nhà thương.Trong khu đó không có gì để chơi cả. Tuy trong đó có nhiều cây cối, nhiều chim, nhưng bên ngoài, thị xã cũng có nhiều khu cây cối mát mẻ hơn, chim chóc đông đảo hơn. Chúng tôi chỉ một năm đôi kỳ, xếp hàng đôi cả trường, đi vào nhà thương vạch tay áo chủng đậu và chích ngừa dịch tả.
Chúng tôi chỉ hay chơi ở con đường chạy dài bên ngoài Nhà Thương. Đường phố trong Thị xã Hà Đông thời ấy vắng xe ô-tô – chỉ có con đường chính chạy qua tỉnh, đường Bóp Kèn, là có xe hàng chạy qua – những con đường khác cả ngày chẳng có bánh xe ô-tô nào lăn qua. Nhưng con đường trước Nhà Thương vẫn là con đường vắng xe ô-tô nhất. Cả năm chẳng có chiếc xe ô-tô nào lăn bánh tới.
Bọn thiếu niên, nhi đồng chúng tôi thường tới con đường đó tập đi xe đạp, đua xe đạp và đá bóng.
Tôi đi qua khung cổng bi thảm của Nhà Thương Hà Đông vào một đêm đầu mùa xuân. 10 giờ tối, ở tỉnh lỵ, đã là khuya lắm. Đã là đêm rồi. Luật pháp của Nhà Thương tỉnh nhỏ không cho xe cộ đi vào bên trong Nhà Thương, dù là xe tay. Mẹ tôi bồng tôi đi mãi, hun hút con đường dài tối đen đi sâu vào những khu sâu nhất của Nhà Thương. Năm đó, tôi đã mười hai, mười ba tuổi, tôi đã khá nặng rồi, tôi không còn là con nít nữa. Mẹ tôi bồng tôi nặng trĩu tay. May là đêm đó có Bà Trẻ tôi – Bà vợ kế của ông Ngoại tôi, bà trạc tuổi mẹ tôi – đi theo. Hai bà thay phiên nhau bồng tôi. Đi mãi.
Bệnh đau màng óc đã hoành hành ở tỉnh lỵ Hà Đông. Tôi không phải là bệnh nhân đầu tiên bị Thần bệnh chiếu cố đến. Trước tôi đã có nhiều con bệnh đau màng óc vào nhà thương Hà Đông và đã chết trong đó.
Bệnh truyền nhiễm, nguy hiểm và dễ lây. Người ta đặt riêng một khu cho bệnh nhân đau màng óc nằm. Một dẫy phòng bệnh chung quanh có dây thép gai và lính lệ bồng súng gác cấm mọi người ra vô, trừ những thân nhân có giấy phép. Khu đau màng óc lẽ tự nhiên, được đặt ở nơi hẻo lánh nhất của nhà thương. Nó nằm ngay cạnh Nhà Xác. Phòng bệnh với Nhà Xác chỉ cách nhau một sân có chừng 30 thước.
Trong nạn dịch đau màng óc ấy, cứ 10 bệnh nhân vào Nhà Thương Hà Đông nằm điều trị, có tới 8 người chết. Số người sống là sống sót, là số chưa chết, số chỉ bị một cơn đau nặng. Vì bệnh nhân dễ chết như vậy, người ta cho bệnh nhân nằm ở sát bên Nhà Xác, để khi chết, đua xác xuống Nhà Xác cho gần, cho tiện.
Mười người đau chỉ có hai người sống sót, không phải sống vì thuốc mà là sống vì số chưa chết.
Trong số những sống sót năm ấy có tôi và Nàng.
Nàng – viết hoa chữ N: Nàng – Tôi vốn kính trọng đàn bà, tôi kính trọng loài người. Nhất là những người yêu nhau.
Trong tất cả những truyện tôi viết sau này, khi tôi sống với nghề viết truyện, nuôi vợ con tôi bằng những truyện ngắn, truyện dài tôi viết đăng trên báo, hai tiếng Chàng và Nàng bao giờ, luôn luôn được tôi viết hoa. Như đó là những danh từ riêng, như đó là tên riêng của những nhân vật. Chàng tên là CHÀNG và Nàng tên là NÀNG. Một vài người bạn chỉ cho tôi cái lỗi ấy. Họ bảo tôi viết sai. Trong tiểu thuyết, chỉ có tên riêng mới viết hoa. Chàng và Nàng không phải là tên riêng của hai người, những chữ C và N phải viết thường.
Song, tôi đã viết quen rồi. Nếu đó là một cái lỗi – nếu anh yêu em là một lỗi, anh nhận lỗi đó – tôi nhận cái lỗi đó. Tôi vẫn viết hoa hai chữ C và N của Chàng và Nàng. Như tôi vẫn làm những gì tôi biết là không nên làm, như khinh bỉ đồng tiền, như lạnh nhạt với việc làm giầu, khinh bỉ bọn nhà giầu, như tin tưởng tuyệt đối vào Tình Yêu.
Như nghĩ rằng Tình Yêu của tôi và Nàng không bao giờ tàn. Như tin rằng tôi và Nàng yêu nhau mãi mãi, tôi được yêu mãi mãi.
★
Ngọc Diệp – Lá ngọc. Nàng đúng là một cánh lá, một bông hoa bằng ngọc.
Ở đời này, Thượng Đế ban cho loài người tiếng nói, cho tiếng nói có âm thanh, có nghĩa. Thượng Đế cho loài người thông minh và nhờ có thông minh, loài người biết làm thơ, biết đặt tên cho nhau.
Và có những cái tên tiền định. Có những người – nhất là những người con gái – giống hệt với cái tên đã được cha mẹ đặt cho từ ngày cất tiếng khóc chào đời, khi mới chỉ là một hài nhi đỏ hỏn
Ngọc Diệp được đặt tên là Lá Ngọc khi nàng chưa có một vẻ gì giống như cánh lá bằng ngọc hết. Những năm gặp Ngọc Diệp, Nàng đã là một lá ngọc, hơn nữa nàng là bông hoa bằng ngọc.
Ngọc Diệp vào nằm trong khu đau màng óc trước tôi hai đêm. Nàng tỉnh trước tôi. Khi tôi tỉnh lại, nhận thấy mình nằm trong một căn phòng lạ giữa những người lạ nằm trên những chiếc giường sơn vàng, việc đầu tiên của tôi là nhận thấy có mẹ tôi ở bên cạnh.
Mẹ tôi là một người đàn bà đẹp. Nước da bà trắng, bà đẹp nhất ở đôi mắt. Đôi mắt mà tôi cho là có đuôi dài, những lúc bà cười vui, đuôi mắt ấy hiện rõ, dài gần bằng cả con mắt của bà. Từ ngày thơ ấu lên năm, lên bảy, khi chưa biết thế nào là nhan sắc, chưa biết cả đánh vần, chưa biết ghép 25 chữ cái A, B, C vào nhau, tôi đã cảm thấy hãnh diện vì tôi có bà mẹ đẹp. Vì mẹ tôi đẹp.
Chúng ta, các bạn yêu thương cha mẹ chúng ta, tôi tin chắc, tôi hoàn toàn tin rằng các bạn, người đọc những dòng chữ này tôi viết, người theo dõi câu chuyện này tôi kể, các bạn là những người có tình, có tâm hồn đẹp, dễ xúc động. Và các bạn là những người yêu thương cha mẹ.
Bởi vì – dễ hiểu, không có gì khó đoán – nếu các bạn không như thế, các bạn đã không theo dõi, không đọc câu chuyện này, những dòng này.
Chúng ta yêu thương cha mẹ chúng ta. Khi đã yêu thương, cha mẹ chúng ta người đẹp hay xấu, tình nết tốt hay bần tiện, đối với chúng ta không thành vấn đề. Cha mẹ chúng ta xấu xí, lòng dạ nhỏ nhen, hèn hạ, chúng ta vẫn yêu thương các người như thường.
Chúng ta có thể chọn vợ, chúng ta có thể chọn người yêu – tôi không tin lắm ở quyền hạn lựa chọn này, trong tình yêu, chúng ta không có cả quyền lựa chọn. Kẻ nào lựa chọn tức là chưa yêu, hoặc chưa yêu đến tuyệt đối, chưa yêu hoàn toàn.
Tôi nói «chúng ta có thể chọn vợ, có thể chọn người yêu» với một nửa lòng tin mà thôi. Có khi chúng ta có thể chọn, có khi chúng ta không thể chọn. Phải nhận là duyên số. Có duyên số. Có một sự xếp đặt, hẹn hò nào đó ngoài ý muốn, ngoài tầm quyết định của chúng ta. Tình yêu cũng như cuộc đời, như sự sống cái chết. Đến một ngày nào đó – giờ phút, nơi chốn, tức không gian và thời gian, địa điểm, đã được định trước rồi – ta sẽ gặp người ta yêu. Và ta yêu người đó, dù muốn hay không, dù người yêu ta yêu có làm cho ta đau đớn hay ta sung sướng. Ta phải chịu, phải nhận. Song, có một điều an ủi lớn trong Tình Yêu là trong Tình Yêu, đau đớn cũng là sung sướng. Trong Tình Yêu, ta sung sướng hay cả khi ta đau đớn, ta hài lòng, ta ghi nhận, ta biết ơn dù ta bị Tình Yêu hành hạ.
Thuở nhỏ, tôi được yêu thương, được chiều chuộng. Tôi phá, quấy, hư hỏng và nghịch ngợm láo lếu nhiều, song tôi vẫn được yêu, vẫn được chiều. Ngày thơ ấu, tôi không biết là tôi sung sướng, là tôi được chiều chuộng. Lớn lên, trưởng thành, tôi vẫn được yêu, được chiều, tôi vẫn sung sướng. Trưởng thành, tôi biết là tôi được yêu, được chiều chuộng. Song, tôi chỉ biết là tôi sung sướng – đã sung sướng – khi tôi bị khổ sở. Và khi bị khổ sở, tôi vẫn thấy tôi sung sướng.
Ngay sau năm sinh ra tôi, mẹ tôi xem bói. Một ông thầy bói có duyên nào đó – chắc chắn là thầy bói mù. 30 năm trước xã hội ta có rất ít thầy bói sáng, gần như hoàn toàn không có những ông thầy bói khách mã hiệu chiêm tinh gia, trò đoán những việc sắp xẩy đến qua bài Tây chỉ là trò tiêu khiển của một số nhỏ các em Me Tây – ông thầy bói có duyên, ăn nói hợp thời đó đã đoán rằng cậu con mới ra đời của mẹ tôi là một quí tử, sau này sẽ làm nên, rất có hiếu với bố mẹ. Thầy đoán sai hơi nhiều. Song mẹ tôi tin lắm. Mẹ tôi kiêu hãnh kể lại lời ông thầy bói đó mỗi lần nói về tôi. Tôi vẫn khinh giới thầy bói, tôi vẫn gọi, vẫn viết là các «anh» thầy bói. Riêng vị thầy bói đã đoán về tôi năm xưa, tôi phải gọi là ông.
Nếu không có thầy bói nào tuyên bố rằng tôi là quí tử, chắc mẹ tôi vẫn yêu thương và quí báu, và chiều chuộng tôi như bà đã yêu thương, quí báu và chiều chuộng. Còn như, tôi biết nếu có anh thầy bói nhảm nhí, thối mồm nào nói láo rằng tôi là một thằng con mất dậy, trời đánh, bất hiếu, bất mục, bất lương phá hoại gia cang, làm xấu hổ họ hàng, làm bố mẹ nhục nhã, tôi sẽ ăn trộm, ăn cướp, hiếp dâm, ở tù, bị người ta đánh đập ngoài phố v.v… chắc chắn là mẹ tôi không tin, cho là nói láo và dấu biệt chuyện đó đi không kể lại cho ai nghe hết.
Tôi tỉnh dậy vào buổi sáng. Hình như lúc đó sớm lắm. Sáu giờ sáng một ngày đầu mùa xuân không khí còn lạnh, còn như là mùa đông. Ánh sáng trắng và loãng đục. Văn sĩ thường tả rằng ánh sáng sáng của những buổi sáng sớm khi trời lạnh có mầu trắng đục như sữa loãng, Nghe thì có vẻ vẽ vời, nhưng thực là vậy. Ánh sáng của những buổi sáng sớm nơi xứ lạnh, vào mùa lạnh, quả thật có mầu trắng đục như mầu sữa loãng.
Bàn tay êm đặt trên trán tôi. Tôi biết đó là tay mẹ tôi trước khi nhìn thấy mặt hà. Trước cơn mê, tôi biết có mẹ tôi ở bên tôi. Cơn mê loạn của tôi có thể dài lâu với người tỉnh, dài lâu với mẹ tôi, nhưng với tôi, rất ngắn. Qua rất mau. Vừa tỉnh lại, tôi biết ngay, nhớ ngay là tôi có mẹ tôi ở cạnh.
– Em có đói không?
Tôi đói, tôi được ăn sữa bò. Sữa tươi đựng trong chai thủy tinh, không có đường, nhạt huyếch. Tôi vốn ghét sữa, tôi ưa ăn ngọt. Tôi chỉ gượng nuốt vài muỗng sữa nhỏ, rồi thôi không ăn nữa.
– Em có biết đây là đâu không? Em có biết Em với Me đang ở đâu không?
Anh em chúng tôi được dạy xưng «em» với thầy mẹ. Không hiểu tại sao là «em» mà không phải là con. Song tiếng «em» thật êm đềm, thật đẹp. Tiếng xưng hô nào cũng êm, cũng đẹp, nếu có tình yêu trong đó.
Tôi nhìn quanh và lắc đầu. Lần đầu tiên tôi nằm ngủ trong một căn phòng lạ, giữa những người lạ.
Sau đó, tôi lại ngủ. Nhưng tôi ngủ không mê loạn. Mẹ tôi đã bớt lo, đỡ sợ. Nỗi lo sợ tôi chết trong lòng mẹ tôi nhẹ đi quá nửa. Bệnh đau màng óc đến nhanh và đi thật lâu, thật chậm. Người đau quá nếu chết ngay khi vừa lên cơn. Tỉnh lại là có cơ thoát. Song, phải mất 6 tháng nằm riêng một chỗ trong một căn phòng đóng kín, không được đi ra ngoài không được cả giao du thân mật với bất cứ ai. Anh em tôi không được bước vào phòng chơi với tôi.
Tôi tỉnh lại lần thứ hai vào lúc 9 giờ sáng. Nắng vàng mùa xuân ấm đã chan hòa bên ngoài. Nắng vàng của Trời đất đến với tất cả, người và mọi nơi. Những khung cửa kính phòng bệnh đục mờ cũng vàng hoe ánh nắng.
Tôi nhìn xung quanh. Phòng có hơn 10 giường, giường nào cũng có người bệnh nằm. Người theo nuôi bệnh nhân ban đêm nằm trên những chiếc ghế vải, hoặc trải chiếu nằm ngay trên lối đi. Vào giờ này, những người nuôi đi ra, đi vô, hoặc ngồi bên giường.
Đa số bệnh nhân là thiếu niên dưới 15 tuổi. Bà Thần đau màng óc dường như yêu thích trẻ con. Những anh bé con trong phòng đều là dân nhà quê. Trừ tôi ra, và Nàng.
Tôi nhìn sang chiếc giường bên cạnh – Lá Ngọc. Bà vú của Nàng đang chải mái tóc cho Nàng.
Mái tóc ấy thưa và mỏng, vì Nàng vừa trải qua một cơn bệnh khủng khiếp. Nhưng trước mặt tôi, mái tóc con gái đầu tiên ấy trong đời rất đẹp.
Ngọc Diệp đã tỉnh. Nàng đau trước tôi và nàng tỉnh trước tôi. Trong thời gian chúng tôi thoát tay Thần chết đó, có hai anh bé con đã chết trong căn phòng này.
Người thiếu nữ ấy hơn tôi hai tuổi. Năm ấy, so với tôi, nàng đã người lớn rồi. Trong khi tôi vẫn còn là một anh bé con.
Có một tiền định trong đời tôi. Đó là việc tôi có duyên với đàn bà lớn tuổi hơn tôi. Tôi dường như chỉ yêu những người đàn bà nhiều tuổi hơn tôi, và tôi hay được người đàn bà nhiều tuổi hơn tôi yêu lại. Tôi không chịu nổi những em Lolita.
Âu Tây gọi những người thanh niên yêu thích đàn bà hơn tuổi mình là những người có mặc cảm Œdipe. Ngày xưa chàng Œdipe yêu mẹ ruột của chàng. Nhưng yêu trong tiềm thức thôi, không loạn luân và Œdipe tìm thỏa mãn cho mối tình của chàng qua việc yêu những người đàn bà hơn tuổi chàng. Có thể. Có lý.
Tôi nhìn sang Ngọc Diệp và ngắm nàng ngồi để cho bà vú nàng chải tóc.. Nàng bận bộ áo cánh trắng, quần trắng. Chắc là vừa thay y phục, vì bộ quần áo nàng còn nguyên nét ủi. Khuôn mặt nàng trái soan, đôi gò má hơi nhô cao, đôi mắt trũng xuống vì cơn bệnh vừa hoành hành. Đôi mắt đã to đen lúc thường, trông càng to và đen. Lần đầu tiên, tôi nhìn ngắm kỹ hình người con gái ngồi chải tóc.
Nàng đang ăn cam. Những múi cam Triều Châu bóc vỏ, nằm trong lòng dĩa, hồng mọng. Hôm nay, khi hồi tưởng lại những múi cam ngày ấy tôi thấy nó giống như môi đàn bà đa tình, lúc đang thèm yêu, đang chờ đợi môi người yêu gắn lên. Song buổi sáng đó, với tâm hồn trẻ thơ, với đôi mắt chỉ mới quen nhìn cỏ cây, bướm hoa và mây trắng, nước trong, tôi chỉ thấy những múi cam tươi đó gợi ý ngon và mát
Một lọn tóc rối. Chiếc lược giật hơi mạnh. Nàng hơi đau, làn môi dưới nàng trề ra tỏ dấu phản đối. Cái trề môi ấy, nếu là môi bọn em gái tôi, chắc tôi ghét lắm, tôi có thể cốc thêm cho em em gái tôi mấy cái chỉ vì cái trề môi đó. Nhưng trên môi Ngọc Diệp, cái trề môi lại đẹp, có duyên làm tôi nhớ mãi. Hai mươi năm sau, tôi tìm thấy cái trề môi ấy trên môi của Brigitte Bardot.
Sau cái trề môi ấy, nàng như cảm thấy, tôi đang nhìn nàng. Nàng nhìn sang tôi, thấy đôi mắt tôi thao láo, nàng mỉm cười với tôi. Nàng chỉ tôi nói với bà vú:
– Cậu ấy thức rồi kìa.
Nàng bưng dĩa cam dơ lên, mời tôi:
– Ăn cam không?
Tôi cũng có chục cam để trên đầu giường với chai nước lọc, chai sữa tươi. Thấy nàng mời, mẹ tôi nói:
– Cô Diệp ăn đi. Em nó cũng có cam đây
Nàng vẫn cầm dĩa cam dơ về phía tôi đôi mắt vẫn nhìn tôi, vẫn mời. Thấy tôi làm một cử chỉ định ngồi dậy, nhưng tôi hãy còn yếu lắm mẹ tôi vội đỡ lấy dĩa cam trên tay nàng:
– Cám ơn cô.
Mối tình đầu của tôi có từ phút mẹ tôi bỏ múi cam ngọt lịm vào miệng tôi.
Và tình yêu đến trong tim tôi thật sớm. Nhung những mối tình đầu, tất cả những mối tình đầu trên cõi đời này, đều sạch, thơm và thơ mộng. Những mối tình đầu không có chia ly, không có tan vỡ. Vì trong tình đầu, người ta không có một ước vọng nào về tương lai, không có cả sự ham muốn được gần nhau. Trong tình yêu đầu, chúng ta không có cả sự thèm muốn được yêu đền đáp Chúng ta cũng không biết là chúng ta đã yêu. Vì vậy trong tình đầu, chúng ta không bao giờ thất vọng.
Ngọc Diệp là con gái một ông Đốc Phủ người Nam Kỳ. Ông cụ ra ngoài Bắc Kỳ làm việc lấy vợ Bắc, và lập nghiệp ở tỉnh lỵ Hà Đông. Nhà Ngọc Diệp đông anh em. Nàng là con gái thứ sáu, thứ bảy trong nhà. Bà mẹ nàng đã qua đời. Ông Đốc Phủ có vợ kế. So sánh với tôi thì Diệp không được gia đình săn sóc đến nhiều.
Mỗi ngày, Thầy tôi vào thăm tôi một lần. Còn ông Đốc Phủ mỗi tuần lễ mới vào nhà thương thăm con gái một lần. Có khi cả hai tuần mới thấy ông xuất hiện.
Ông Đốc Phủ người hơi thấp. Ông bận đồ Tây, mùa hạ ông bận bộ «faux-tussor » mầu mỡ gà, tay xách ba-toong. Đặc biệt tay ông luôn luôn cầm một điếu thuốc lá giả làm bằng gỗ, sơn trắng, trông như cây bút chì mầu. Nơi đầu điếu thuốc lá giả bằng gỗ ấy có một chút sơn xám, giả làm tro thuốc lá đàng hoàng.
Điếu thuốc giả ấy, mới trông, ai cũng tưởng là thuốc thật. Chỉ thiếu có khói. Ông nói rằng người lịch sự lúc nào tay cũng phải có điếu thuốc lá, nhưng ông hút nhiều thuốc quá không được, có hại, nên ông bày ra chuyện cầm điếu thuốc lá giả.
Ông Đốc Phủ nói tiếng Nam kỳ. Nhưng giọng nói của Ngọc Diệp là một giọng nói lai, nàng sinh trưởng ở đất Bắc mẹ nàng lại là người Bắc, nên giọng nói của Nàng có nhiều âm Bắc hơn là Nam.
Kể từ giây phút ấy, tôi sống trong căn phòng bệnh, giữa những người gần chết, sắp chết, nằm gần ngay nhà xác, như sống trên một con tầu bồng bềnh trôi trên biển.
Những ngày thật êm đềm và bình thản. Tôi có mẹ tôi suốt ngày, suốt đêm ở bên cạnh, nâng niu săn sóc, nuông chiều. Tuổi thơ ấu tôi sung sướng nhất là được mẹ tôi săn sóc, chiều chuộng, được coi là người quan trọng nhất nhà.
Tôi sống không biết có những gì xẩy ra quanh tôi. Tôi chỉ biết tôi đang có mẹ tôi và một cô gái xinh xắn, dễ thương sống bên cạnh. Tôi không nhận thấy có những gì bẩn thỉu, ghê rợn – những gì đặc biệt của cái chết – đang diễn ra quanh tôi. Những ngày nằm bệnh ấy, giờ đây trong ký ức tôi, chỉ còn là một chuỗi dài những ngày ngọc sáng êm đềm. Ngày cuối xuân, đầu hạ, khí hậu vẫn còn lạnh ban đêm và không nóng lắm ban ngày. Chúng tôi vẫn còn nóng sốt bất thường. Những cơn sốt nóng đột ngột đến, vừa đủ để gây lo âu, rồi từ từ đi, cho thân nhân của chúng tôi có quyền nghĩ rằng cơn bệnh của chúng tôi đang giảm dần, đang sắp hết…
Tôi được nghe mẹ tôi kể lại rằng tôi nằm mê man mất ba đêm, hai ngày. Ngọc Diệp vào nằm đây trước tôi năm ngày, khi cơn đau của tôi đang thời kỳ nặng nhất, nàng đã tỉnh. Trong đêm đầu tiên tôi được đưa vào đây, phòng này có hai người đau màng óc từ trần. Xác chết vừa được mang đi thì tôi chiếm giường của người vừa chết.
Mẹ tôi vốn sợ ma như hầu hết những bà mẹ trên cõi đời này. Trong đêm đầu tiên ở đây, không biết nhà xí ở đâu, vào khoảng gần sáng, bà đi ra vườn thấy một căn nhà nhỏ, tối om ở góc vườn.
Yên trí đó là nhà xí, bà liền đến đó ngồi đái một bãi. Cũng may là bà lại ngồi đái ngay ngoài cửa, không cẩn thận mò vào bên trong căn nhà tối om đó. Vì đó là Nhà Xác. Sáng hôm sau, bà chết khiếp vì thấy người ta đem xác chết vào đấy.
Trong tâm hồn trẻ thơ cái chết thật bình thường. Tôi dửng dưng, thản nhiên với cái chết bình thường. Tôi dửng dưng, thản nhiên với cái chết của cả chính tôi. Chưa biết cuộc đời này có những gì nếu ngày trẻ thơ đó tôi phải ra đi, tôi thảnh thơi đi. Khi đứa con nhỏ chết, người đau đớn nhất là người mẹ.
Tháng ấy, trong căn phòng nhỏ cuối nhà thương Hà Đông, tôi được chứng kiến nhiều cái chết.
Đêm khuya, tôi thức dậy vì những tiếng kêu – «…ước… ước» khô khan, sắc và lạnh vang lên trong cái âm u rờn rợn của phòng bệnh. Mẹ tôi vẫn thức. Bà nằm bên tôi vòng tay ôm mình tôi.
Tôi bàng hoàng:
– Ai kêu đó mẹ?
Đó là tiếng kêu của một anh bé con trạc tuổi tôi. Anh cũng đau màng óc. Từ làng quê xa, anh được ông bố mang ra đây cứu chữa. Anh kêu «…ước….ước» và ông bố anh tưởng anh đòi uống nước rót nước cho anh uống, nhưng anh không uống. Ông bố anh cằn nhằn:
– Nước hả? Mẹ bố mày…đòi uống nước người ta rót cho lại không uống.
Anh bé con đang mê hoảng. Không ai hiểu anh đòi gì, anh muốn nói gì qua những tiếng «ước..ước…» của anh. Gần sáng trời lạnh. Tôi nằm thu mình trong lòng mẹ. Hai bàn chân trẻ con, nhỏ bé của tôi nằm gọn trong hai đùi bà. Tôi được ngủ với mẹ đến năm lên tám, lên chín tuổi. Mùa rét, tôi được ủ hai bàn chân trong lòng mẹ. Ấm không thể tả. Đến khi tôi có em gái là bắt đầu có sự canh tranh. Em gái gái tôi chỉ kém tôi có một năm, nó đòi hỏi quyền lợi của nó đâu ra đấy.
Tôi cũng sờ tí mẹ và lẽ cố nhiên, con bé cũng sờ tí mẹ. Buổi tối, nhất là những tối mùa đông, nằm trên là chăn bông, dưới là nệm bông, mẹ nằm giữa hai con hai bên, cuộc tranh chấp sờ tí mẹ và được mẹ ủ chân diễn ra dữ dội. Một đứa tranh sờ một vú. Mẹ tôi ủ chân cho đứa này một lúc lại phải quay sang ủ chân cho đứa kia. Tôi yếu thế hơn em gái tôi. Nó có nhiều chính nghĩa hơn tôi. Nó là con gái, xã hội và pháp luật gia đình cho nó cái quyền được ngủ với mẹ.
Tôi con trai, quá 6 tuổi mà còn sờ tí là một sư bê bối cần dấu diếm. Anh em khi còn nhỏ thường ghét nhau là vì những cạnh tranh quyền lợi ấy.
Gần sáng, trong nhà thương lạnh, khi tôi ngủ say, anh bé con cùng tuổi tôi qua đời. Người ta thường nói chết là không may, thường gọi kẻ chết là xấu số, bạc phước, bất hạnh. Nhưng chắc đâu anh bé con chết năm đó đã là bất hạnh.
Buổi sáng dậy, tôi ăn bánh mì sữa. Ngọc Diệp cũng ăn bánh mì sữa. Mãi khi nắng lên, trời hết lạnh, tôi mới nhớ đến anh bé con kêu « ước… ước…» đêm qua. Nhìn sang giường anh nằm, thấy giường trống, tôi hỏi mẹ tôi anh ta đâu.
Mẹ tôi tôi nói:
– Anh ấy khỏi rồi. Ông Đốc cho anh ấy về nhà rồi…
Tôi tin là thật. Tôi nghĩ đến ngày tôi cũng phải về nhà. Tôi không muốn về. Tôi muốn ở đây mãi với mẹ tôi bên cạnh suốt ngày đêm chiều chuộng tôi, âu yếm tôi, nói với tôi những lời ngọt ngào. Ở đây với Ngọc Diệp nằm bên, xa hẳn cuộc đời, xa sự quấy nhiễu của các em tôi. Về nhà, mẹ tôi sẽ phải chia thời giờ lo cho các em tôi nữa chứ, tôi đâu có thể chiếm trọn vẹn mẹ tôi mãi như thế này được.
Ngày lại ngày êm đềm theo nhau qua. Từ phía Nhà Xác, cách vài ngày lại có tiếng khóc vang lên. Người chết trong nhà thương công cộng, tống táng trong Nhà Xác chung, không được khóc than nhiều. Có thể là người chết trong những nhà thương thí được những người thân yêu thương xót nhiều hơn nhưng không được khóc nhiều như những người chết ở nhà, đám ma rềnh rang đủ lệ bộ, có thân bằng, quyến thuộc đến phúng viếng. Khi đã mạnh đủ sức ngồi dậy được, mỗi lần nghe tiếng khóc từ phía góc vườn vẳng lại, tôi vẫn ngồi lên, dựa lưng vào thành giường sắt, ngóc đầu nhìn qua cửa sổ.
Lần nào cũng vậy, một chiếc xe bò đậu ở cửa căn nhà nhỏ. Chiếc áo quan gỗ mộc trắng phếu được khiêng từ trong nhà ra, đặt lên xe. Người ta đẩy xe đi. Đi sau xe, sụt sùi khóc, tôi thấy nhiều lắm là ba người.
Mẹ tôi thường bắt tôi nằm xuống. Bà không muốn để tôi thấy nhiều cái cảnh đưa ma bi đát đó.
Một hôm, tôi thấy một anh bé con cũng đau màng óc vào nằm. Anh cũng trạc tuổi tôi. Dường như năm đó, Thần Đau Màng óc chỉ bắt những anh bé con trên dưới mười tuổi. Người lớn bị chê.
Anh bé mê man,anh vào nằm lúc chiều thì đến tối anh chết. Hình như bà mẹ anh đi lấy chồng khác hay sao đó nên hôm sau, tôi mới thấy bà mẹ anh tới. Một thiếu phụ trạc ba mươi tuổi ngoài. Trông khá đẹp. Bà có vẻ là người buôn bán ở tỉnh lẻ. Tôi nhớ rõ bà mặc chiếc áo trắng xổ gấu, chít khăn sô trắng. Chắc bà vừa có đại tang..Bố hay mẹ chết và con bà lại chết.
Tôi nghĩ chắc bà có chồng khác vì bà không đưa con vào nằm bệnh viện như mẹ tôi đưa tôi. Anh bé chết, bà mới vào lãnh xác con đi chôn.
Quan tài anh bé được chở đi trên một chiếc xe tay. Người thiếu phụ đi theo áo quan của con. Bà không khóc mấy. Tôi nhận thấy bà không khóc nhiều. Song, tôi nghe mẹ tôi nói chuyện với bà vú Ngọc Diệp:
– Tội nghiệp… Bà ấy không khóc được… Bà ấy cứ lặng đi thôi. Khóc không được mới thật là đau đớn.
Bà vú Ngọc Diệp đồng ý với mẹ tôi:
– Vâng… người nào khóc lớn chưa hẳn là đau đớn. Lặng đi không khóc lên tiếng được mới là khổ…
Tôi thơ ấu, mười tuổi, tôi đã để ý đến những chuyện mà những đứa trẻ khác cùng tuổi tôi không để ý.
Tôi ghi nhận: người ta đau đớn thực sự, đau đớn nhiều thật nhiều, nhiều lắm, không khóc được. Tôi ghi nhận người khóc nhiều vẫn chỉ là đau khổ vừa. Những nỗi đau đớn lớn làm vỡ gan, đứt ruột không thể thốt ra được bằng tiếng khóc nhưng trong tuổi thơ tôi chỉ biết ghi nhận vậy thôi. Tôi chỉ lấy làm lạ vì trước đó tôi vẫn tưởng rằng người nào khóc nhiều, khóc lớn là có sự đau đớn hơn những người khóc ít. Từ giây phút đó, tôi nghĩ: « Lạ nhỉ khóc ít mới là đau lòng nhiều, khóc nhiều lại là đau lòng ít ư? »
Hai mươi năm sau – thực thế thời gian qua lâu dài và mau chóng đúng như Dutdinsey đã tả – thời gian qua mau nếu ta nghĩ nó qua mau, thời gian qua chậm nếu ta nghĩ nó qua chậm. Quan niệm về thời gian là trong tâm ta chứ không phải chính ở thời gian. Thời gian có thể co lại, dãn ra như cao su – và sự thực thay đổi theo số tuổi của con người. Có những sự thực đúng năm ta mười tuổi trở thành sai năm ta ba mươi. Và ngược lại. Có những nghi ngờ năm ta còn trẻ, còn nguyên tin tưởng ở tương lai, không còn là ngờ nữa khi ta có tuổi.
Bây giờ là tháng mấy? Cuối mùa Xuân năm 1942… Hà Đông, Bắc Việt.. Nhà thương. Tôi nghi ngờ chuyện «đau đớn nhiều không khóc được». Năm nay, tôi thấy đúng. Những nỗi đau đớn lớn làm cho người ta không khóc được ra tiếng, không nói được thành lời. Cũng như những tình yêu lớn. Hôm nay, tôi viết nhiều về Tình Yêu của tôi, về những đau đớn của tôi, nhung những gì tôi viết chưa được là một phần nghìn một phần triệu mối tình của tôi yêu cha mẹ yêu vợ con tôi. Có thể là vì tôi bất tài tôi chỉ diễn tả được có ít thế. Nhưng nếu tôi có tài, nếu tôi là văn sĩ, tôi cũng không thể nào diễn tả được lấy một nửa số lượng tình yêu chất chứa trong lòng tôi.
Mãi cho đến năm tôi 30 tuổi, tôi không tin ở Thần linh, tôi thích nhạo báng những tin tưởng của người khác, nhất là những người quanh tôi. Chúa Jesus, Đức mẹ Maria, Đức Phật Thích Ca, Phật bà Quan Âm??? Là cái gì? Để làm gì?? Chẳng làm quái gì được người ta?? Chẳng có quyền phép gì hết!! Tôi cóc bao giờ tin và tôi tin rằng suốt đời, tôi sẽ chẳng bao giờ phải cầu nguyện.
Tôi tương đối thành công trong cuộc đời. Hai mươi tuổi, muốn viết tiểu thuyết, tôi viết tiểu thuyết, yêu một người đàn bà đẹp, muốn ăn đời, ở kiếp với người đàn bà đó, tôi lấy được nàng làm vợ. Tôi tự cho tôi thành công, tôi không tin một sức mạnh huyền bí nào có thể ảnh hưởng đến đời sống của tôi, làm tôi sung sướng, đau khổ, hoặc có thể cứu giúp được tôi, có thể làm cho tôi bớt đau khổ.
Nhưng nghĩ vậy là lầm, nghĩ vậy là sai; là có ngày sáng mắt ra, có ngày vỡ mặt, có ngày sẽ rất đau.
Bây giờ là Tháng Năm, bây giờ là đầu một mùa mưa ở Saigon. Bây giờ cơn mưa thứ nhất vừa trút xuống thành phố Saigon này, bây giờ tôi tin là cuộc đời có số Mệnh.
– Số mệnh! Định mệnh!
Đời có số – Người ta có số! Câu đó người ta vẫn nói, tôi vẫn nghe – Cả ngàn ngàn lần từ giây phút biết nghe, nghe và hiểu tiếng nói. Nhưng nghe mà không nghĩ, tiếng nói trôi tuột đi không để lại một dấu vết gì, không gây ra một ý nghĩ nào.
Đời có Số – Số mệnh – không tránh được Số! Những câu rất thường, cửa miệng, mà cũng rất thâm trầm chứa đựng nhiều. Số mệnh!! Là gì! Có không? Tại sao? Một triệu cuốn sách mỗi cuốn một triệu trang cũng chưa giải thích xong cái gì là Số Mệnh.
Nhưng bây giờ là tháng năm, bây giờ là đầu mùa mưa, tôi tin là đời này có Số Mệnh. Chúng ta đau khổ hay sung sướng là do Số Mệnh. Định Mệnh đã sắp đặt trước cho chúng ta sướng hoặc khổ. Chúng ta không thể tránh được. Câu nói: « Một miếng ăn, một miếng uống của con người cũng đã được định trước: Nhất ẩm nhất trác giai do tiền định… » nghe thì có vẻ hơi quá đáng, song thực là thế. Đúng thế.
Tôi đau màng óc, một chứng bệnh nặng, nguy hiểm giữa thời kỳ chiến tranh, thuốc Tây không có. Nhưng tôi không chết. Vì số tôi chưa chết. Trong lòng bàn tay mặt của tôi đường sinh đạo bị ngắt ngang ở gần khởi điểm. Không cần phải là thầy bói không cần nghiên cứu về chỉ tay, chỉ nhìn vết sinh đạo đứt ngang đó, tôi cũng biết rằng thuở nhỏ, tôi bị một cơn đau nặng, mười phần chết chín.