Ba
Nằm trong Nhà Thương hai tháng. Mẹ tôi ở liền 60 ngày 60 đêm trong căn phòng bệnh gần Nhà Xác đó với con.
Nhà tôi ở cuối phố Bóp Kèn. Lên lầu nhà tôi, ra cửa sổ sau nhà nhìn qua một cánh đồng nhiều ruộng rau muống, thấy góc cuối cùng của Nhà Thương Hà Đông, thấy cổng sau Nhà Thương, thấy con đường đá từ đó dẫn ra Nghĩa Trang Thành Phố ở bờ sông.
Đêm tối, khu nhà thương đó tối om, có một ngọn đèn điện sáng vàng sau vòm cây. Đó là ngọn đèn điện sáng trên cửa Nhà Xác. Trong vùng bóng tối âm u ấy, tôi đã sống với Thần Chết trong hai tháng.
Nhiều buổi sáng nắng, nhiều buổi chiều xám tôi đã đứng trên lầu nhà tôi, nhìn về phía Nhà Thương và trông thấy chiếc xe bò Nhà Thương chở xác người chết đi chôn. Cách xa một cánh đồng, song tôi tưởng như nghe thấy tiếng vành sắt của bánh xe kêu cọc cạch, nghiến ken két trên mặt đường sỏi đá.
Đứng trên lầu nhà tôi nhìn thấy khu Nhà xác Nhà Thương, tất nhiên đứng trong khu Nhà Xác đó, mẹ tôi cũng có thể nhìn thấy nhà mình.
Có những buổi chiều, mẹ tôi nhớ nhà, mẹ tôi nhớ bọn em gái tôi, bà ra cổng sau nhà thương nhìn qua cánh đồng về nhà. Chỉ vài phút thôi, bà trở lại với tôi ngay, bà nói với chị vú nuôi Ngọc Diệp:
– Nhìn thấy nhà mà không về được. Thật khổ…
Rồi bệnh tôi thuyên giảm, rồi cũng đến ngày tôi rời nhà thương trở về nhà. Bệnh dịch đã lắng, đã đi. Chuyện đau màng óc không còn là một đề tài mới lạ để nói nữa. Những người số chết bị bịnh đau màng óc đều đã chết.
Tôi và Ngọc Diệp được rời bệnh viện cùng một ngày.
Tôi không buồn, không vui. Trẻ thơ vô tư, nằm mãi lại trong nhà thương cũng được mà về cùng được. Mẹ tôi mừng và bồn chồn náo nức nhiều, tôi nghe bà nói với chị Vú:
– U có mừng vì được về nhà không chứ…. Thật tôi mừng như ở tù được thả…
Về đến nhà, vẫn chưa hết bệnh. Tôi phải «cấm cung» một thời gian khá dài. Sáu tháng.
Sáu tháng nằm một mình trong căn phòng đóng cửa «bế quan tỏa cảng, nội bất xuất ngoại bất nhập».
Chỉ có một mình mẹ tôi ra vào căn phòng đó với tôi. Nhà tôi hồi đó rộng thênh thang. Anh em chúng tôi còn nhỏ, ở không hết nhà.
Có một sự trái ngược về nhà cửa trong gia đình tôi là trong tuổi già của thầy tôi, anh em tôi có vợ có chồng có con, thì nhà chúng tôi lại chật hẹp, không đủ chỗ cho các cháu nội, cháu ngoại của Cụ chạy chơi, nô đùa. Đây là lỗi của tôi. Tôi đã không lo nổi một cái nhà đàng hoàng cho thầy tôi nghỉ ngơi khi cụ về già.
Tôi nằm một mình trong căn phòng sau. Phòng có hai cửa sổ, mở ra sân nhà sau. Tôi ngồi cả ngày bên cửa sổ, nhìn ra vườn, nơi có cây ổi Tàu thật ngon vào những mùa hè năm trước tôi vẫn leo trèo.
Anh em tôi đi học đi chơi, những tiếng cười đùa của các em vẳng vào phòng làm cho tôi thèm thuồng. Nhưng tôi vẫn ngoan, không đòi ra ngoài chơi, không khóc.
Tôi nằm «cấm cung» như vậy liền trong sáu tháng. Dường như trong tôi vẫn còn nọc độc của bệnh đau màng óc, tôi vẫn còn có thể truyền bệnh cho em tôi. Suốt thời gian đó, tôi đọc nhiều tiểu thuyết. Tất cả mọi thứ tiểu thuyết kiếm hiệp, tình ái lâm ly, đường rừng có để ở những tiệm cho thuê sách ở Hà Đông đều được mẹ tôi cho đi thuê mang về cho tôi đọc. Tôi làm bạn với ông Trọng Khang, nhân vật người hùng của tiểu thuyết Trường Đời, người chê mối tính của cô gái nhà giàu Marie Khánh Ngọc, tôi thán phục Trọng Khang và khinh bỉ anh François Giáp bụng phệ, tôi hồi hộp với những chàng cha chú «tiền bối» của James Bond Điệp Viên Bí số 007 như Đoan Hùng, Lê Phong, Kỳ Phát.
Tôi tưởng tượng đến cỏ non, nước trong, trăng sáng, giếng nước ngoài đồng, cây da đầu đình qua những trang tiểu thuyết của Tô Hoài. Tôi học nghề viết tiểu thuyết từ những ngày nằm bệnh «cấm cung» dài và qua mau ấy.
Để cho tôi vui, me tôi bầy ra một chuyện để quyến rũ bọn em gái tôi tới bên cửa sổ, trò chuyện với tôi giây lát.
Mỗi buổi sáng, bà mua thêm cho tôi một ổ bánh mì, một miếng chả. Tôi làm ông bán bánh mì chả cho bọn em gái tôi. Các em tôi đến cửa sổ, gọi vào «ông bán cho tôi năm xu bánh mì chả…!»
Tôi vui vẻ cắt một miếng bánh mì nhỏ xíu bằng nửa cái hộp quẹt, kèm theo một miếng chả cũng nhỏ bằng ngón tay, đưa qua cửa sổ. Ông hàng bất đắc dĩ bán bánh tây chả thật – dù là bán ít – nhưng lấy tiền giả làm bằng giấy, khi hết bánh là hết khách. Các cô em tôi «phú lỉnh» đi chơi nơi khác. Ông “hàng” hết khách, hết cả bánh mì lại quay vào giường nằm đọc truyện.
Sáu tháng sau, tôi được ra khỏi phòng cấm. Trời cuối mùa thu rồi, tôi vẫn còn được nghỉ học. Muốn cho tôi lấy lại sức khỏe, buổi chiều những ngày trời không lạnh lắm, thầy tôi đi làm về sớm, dắt tôi đi chơi ra cuối tỉnh đi trên con đường giữa cánh đồng.
Một buổi chiều, thầy tôi hỏi tôi nghĩa vài câu tiếng Pháp – «Le Soleil là cái gì? La Terre là gì, con còn nhớ không?» Le soleil … la lune?» Những danh từ đó tôi đã học rồi, và tôi đã quên – quên hết.
Quân Phiệt Nhật chỉ thắng trong hai năm 1940 – 1941. Tới năm 1942, Nhật hết tiền và bắt đầu bại. Vào năm 1943, bọn thiếu niên Hà Đông ngu si chúng tôi đã bắt đầu nói đến chuyên Mỹ thắng trận, Mỹ «đổ bộ» Phi Luật Tân, Mỹ «giải phóng» Phi Luật Tân.
Trong khi đó Tây Thực Dân bị Nhật Bản đàn áp, trên chân về tất cả mọi mặt, tự cứu vãn bằng cách phát động một phong trào vô thưởng, vô phạt là phong trào Thanh Niên khỏe để Phụng Sự.
Những đoàn Thanh Thiếu Niên mặc áo sơ-mi trắng, quần xanh đều được thành lập ở mỗi tỉnh. Các trường học, kể cả trường tư, đều được lệnh tổ chức các đoàn Thiếu Nhi. Các đoàn này sinh hoạt giống như Hướng đạo sinh, nhưng ô hợp và hạ tiện, kém tổ chức hơn nhiều.
Tôi trở lại trường Tự Đức của ông Giáo Kiên – ông người làng Vạn Phúc, một làng có nghề dệt nổi tiếng về mục đàn ông gan dạ hay đâm chém nhau nhất tỉnh – vào đúng lúc phong trào Sport được phát động.
Tôi nhập đoàn tập ca hát, đi cắm trại và tập thể thao một tuần hai lần ở sân vận động Hà Đông. Sân này được đặt tên là sân Yves Chatel, ông Thống sứ Sa Tiền nổi tiếng dâm đãng nhất Bắc Kỳ.
Thống sứ Chatel là quan thầy của Án sát Bùi Đường Tịnh. Vào năm này, Quan Án sát Bùi Đường Tịnh đổi về ngồi ở Hà Đông. Nhà ông ở gần nhà tôi. Ông được giao trọng trách tổ chức và phát triển phong trào khỏe ở tỉnh.
Nhờ ông, đội đá bóng tròn Hà Đông – có hai hội đá giầy đàng hoàng và đội đá chân đất – vào những năm này được nâng đỡ và là một hội đá có hạng ở Bắc Kỳ,
Tôi mê đá bóng. Trận đá giầy nào ở sân Hà Đông cũng có mặt tôi ngồi cổ võ đội nhà. Tôi nhớ những trận Hội Đá Giầy Hà Đông đá với Hội Ancre của Tây. Hai trận, trận nào cũng thua 3-1. Đó là thời «gôn» Fay nổi tiếng nhất Bắc Kỳ. Tên «Fay» về sau trở thành một danh từ chung để chỉ những tên giữ «gôn» bắt bóng dính: Thằng ấy giữ «gôn phay» không thể tả. Đó là thời Hội Bóng Tròn Hà Đông có Thọ Ve giữ gôn.
Đá với Tây, các đàn anh trong Hội Bóng Hà Đông ngán, sợ – mặc cảm đầy tớ đá bóng với ông chủ còn nặng – nên không dám xông xáo để tránh sự đụng chạm.
Tôi thấy hào hứng nhất là những trận Hà Đông đá với Hội Tuyển Sơn Tây của Tí Bồ. Lần nào cũng huề nhau 2-2. Tí Bồ lùn nhưng to bề ngang đi tả biên, chạy theo bóng nhanh xứng đáng được nổi tiếng.
Và cũng vào những năm 1943, đám thanh niên hơn tôi năm, sáu tuổi, thuộc loại thanh niên lấc cấc như ông anh tôi, bắt đầu nhỏ to, bàn tán đến chuyện chánh trị, chuyện đánh nhau Mỹ–Nhật, chuyện mai sau sẽ «được» nước nào đô hộ.
Tôi còn nhớ những mẩu đối thoại đại khái:
– Mỹ đổ bộ lại Phi Luật Tân rồi… Thế nào quân Nhật cũng thua…
– Nước Phi Luật Tân ở đâu hả mày?
– Nước Phi Luật Tân ở giữa biển… Nó nằm ở giữa nước mình với nước Mỹ. Nó là thuộc địa của nước Mỹ.
– Cũng như nước mình là thuộc địa của Tây phải không mày…??
– Ừ. Nhưng được Mỹ đô hộ sướng hơn nhiều. Mỹ nó giầu tiền lắm. Mỹ nó không thèm bóc lột như Tây, vì nước nó giầu, dân cái gi cũng có cũng thừa, nó đem của cho dân thuộc địa…
– Ăn tiêu như Mỹ mà lỵ…. còn phải nói…giá nước mình mà được Mỹ đô hộ thì sướng nhỉ??
– Sướng phải biết…
– Nhưng có chắc là Nhật nó thua không mày? …
– Thua hẳn đi chớ lỵ. Không nước nào có thể đánh nhau lại với Mỹ. Mỹ nó giầu lắm… Mỹ nó nhiều phi cơ, xe tăng, súng đạn nó có thừa, nó bán súng đạn cho cả thế giới. Nga đánh nhau với Mỹ, Nga cũng thua…
.................................
.................................
.................................
Tôi trẻ thơ, tôi ngây ngô, tôi cứ tưởng như ông Mỹ nào cũng hào huê phong nhã như ông Clark Gable trong phim L’incendie de San Francisco.
Mà không cứ gì tôi, một triệu anh nhi đồng bằng tuổi tôi ngày đó, mê coi xi-nê, cũng đều tưởng Mỹ bảnh như tôi tưởng.
Có lẽ những ước vọng «chính trị cao đẹp» đó được mẹ tôi nghe thấy. Mẹ tôi ngồi trong nhà. Bọn anh tôi nói bô bô ngoài cửa nên bà nghe tiếng hết. Chắc bà nói lại cho thầy tôi biết. Nên ngay bữa cơm hôm sau, anh tôi bị ông cụ chỉnh:
– Mày ngu lắm. Mày không biết gì thì đừng có nói… Có ngày nó bắt, nó đánh mày khốn nạn cái thân, con ạ…
«Nó» mà ông cụ nói tới đây ám chỉ bọn Mật Thám Tây. Từ ngày ông giáo Kiên, Hiệu Trưởng Trường Tiểu Học Tư Thục Tự Đức, bị Mật Thám Tây từ Hà Nội vào khám trường, bắt, còng tay ra Hà Nội, dân Hà Đông sợ xanh mắt và những danh từ Mật Thám, Liêm Phóng, Săng tan, được dân Hà Đông khe khẽ nhắc tới luôn.
Vụ Liêm Phóng Tây bắt ông Giáo Kiên vì ông này có liên can đến một Hội Kín làm dư luận Hà Đông sôi nổi. Ông Giáo Kiên chỉ bị giữ đâu có nửa tháng.
Rồi được được thả về, ông lại dậy học như cũ. Song, từ đấy người ta thấy ông xanh xao, gầy ốm hơn trước nhiều.
Về sau, ông hút thuốc phiện và chết vì bệnh ho lao. Có lẽ ông mắc nghiện sau những trận đòn ở Sở Liêm Phóng Bắc Việt.
Ngày đó, tuy Nhật Bản đã vào Đông Dương, song các Quan Tây cũng vẫn còn quyền sanh sát với dân nó. Quan Tây chỉ nể sợ những người A-Nam nào làm việc với Nhật.
Bị mắng, anh tôi ú ớ:
– Em… em… có nói gì đâu…
Và anh tôi chối:
– Chúng nó nói đấy chứ… Em có nói gì đâu… Em chỉ nghe…
Thầy chúng tôi gắt:
– Không có chơi với mấy thằng ngốc ấy. Thấy chúng nó thì đi chỗ khác. Ranh con rửa mặt chưa sạch mà đã bàn tán chính trị… có ngày chết oan….
★
Nhưng ý nghĩ được «Mỹ đô hộ sướng» đã in sâu trong ý thức của tôi từ ngày đó.
Nước Mỹ, người Mỹ trước mắt lớp trẻ thơ như tôi thời ấy chỉ là nước Mỹ văn minh, có tổ chức, giầu đẹp, sung sướng, người Mỹ hào hoa, lương thiện, vui sống trên phim ảnh:
.................................
.................................
.................................
Và trong thời gian đó, tôi đi học, đi cắm trại, đi sinh hoạt Thiếu Nhi, tôi học thuộc lòng những bài dịch các diễn văn của Thống Chế Pétain tuyên đọc bên trời Âu: Thống Chế Pétain đã nói… Le Maréchal a dit… Anh tôi cua Suýp (Supérieur) học thuộc lòng các bài tiếng Tây, tôi và Nguyệt, em gái tôi cua Moay Ăng Oong (Moyen Un), phải học thuộc lòng những bài Paroles du Maréchal bằng tiếng Tây ngắn hơn. Tôi và các bạn tôi ngày nào cũng gân cổ hát trước bức hình mầu in Thống Chế Pétain mũ képi, râu bàn chải trắng, trước lá cờ ba sắc:
– Maréchal… nous voilà… devant toi, le sauveur de la France…
Những kho giấy trắng cuối cùng của Nhà Nước Bảo Hộ Đại Pháp ở Bắc Kỳ được tung ra in affiche hình Thống Chế Pétain.
Nhà in Ideo Hà Nội vừa in bích chương Pétain, vừa in tiền giấy. Tài liệu Pétain được gửi đi khắp nơi. Quá nhiều. Thầy tôi mỗi ngày đi làm về, mang theo hai tờ nhật báo Đông Pháp và Việt Cường, cùng một tập lớn in hình Thống Chế Pétain in đủ cỡ.
Người ta được lệnh phải dán hình Thống Chế Pétain ở khắp nơi. Hết chỗ dán, người ta đem hình vào dán cả trong những vách tường cầu tiêu.
Chúng tôi hát bài Marseillaise một cách thật hùng hồn. Những bài hát Việt Nam được chúng tôi thuộc lòng, hát ầm ầm mỗi ngày là bài LÊN ĐÀNG.
Nào anh em ta…
Cùng nhau xông pha.
Lên đàng…..
Kiếm nguồn vui mới.
Ta nguyền đồng lòng …điểm tô non sông…
Cùng nhau ca khúc…lên đàng…
Cùng những bài Bạch Đằng Giang, Đống Đa, Tiếng Gọi Thanh Niên, bài Quê Tôi của Hoàng Quý:
– Quê nhà tôi nhiều khi nắng êm đềm
Chạy dài trên khóm cây
Đàn chim ríu rít ca
Bao người ra ngồi hay đứng bên thềm…
Chuyện trò chung với nhau….đời sống thần tiên…
Du dương và lãng mạn hơn, chúng tôi hát những bài Thiên Thai, Đêm Thu, Giọt mưa thu, bài Biệt Ly:
– Biệt ly … nhớ nhung từ đây.
Chiếc lá rơi theo heo may.
Người về có hay…
Hoặc những bài nhạc ngoại quốc lời Việt như bài được gọi là bài Tango Chinois:
– Ta muốn được cùng em vui sống.
Trong núi cao trong chiều mơ hồ…
Trong số có một bài tôi không nhớ rõ tên là gì, cho đến bây giờ tôi vẫn thấy còn nguyên mùi lãng mạn:
– Đàn chim ríu rít ca… trên núi cao miền xa
mang theo những nỗi buồn mộng mơ, nguồn thảm sầu đã qua….
Sông kinh châu… có con buồm trăng trắng…
Gió thu đưa dẫn người biệt ly vào cảnh sầu đó chăng??
Năm 1943, Quân Nhật vào đóng ở Hà Đông. Thành phố tỉnh lẻ yên tĩnh cả chục năm không có chuyện gì có dịp sôi nổi bàn tán vì tin lính Nhật đi chiếm nhà cho Quan Nhật ngụ. Vài chiếc xe hơi sơn màu đất thó loang lổ đi vào tỉnh, dừng lại trước những tòa nhà lớn. Sĩ quan Nhật đi bốt mang kiếm dài, đeo kiếng trắng, ria mép, từ trong xe ngó nhìn nhà, rồi lại đi chứng minh tin đồn trên là có thực.
Nhưng rồi Quân đội Nhật chẳng chiếm một căn nhà tư nào ở Hà Đông hết. Nhà của Pháp ở trong tỉnh thừa chỗ cho họ ở. Cơ sở công cộng lớn nhất tỉnh là nhà riêng của Thống sứ Pháp ở ngay đầu cầu bên bờ sông. Quân Nhật chiếm nhà riêng đó. Thống sứ Pháp dọn về ở một tòa nhà nhỏ hơn. Quân Nhật còn đóng ở khu chợ Trâu, sát bên chợ Hà Đông và sân vân động.
Việc Quân Nhật đến đóng ngay bên sân vận động làm cho phong trào tập thể thao của Thanh niên Hà Đông thiếu chút nữa thì chết ngủm.
Lính Nhật đứng gác trên chòi cao bên chợ Trâu nay đã trở thành trại lính, nhìn sang sân vận động thấy đám thanh niên chạy trong sân đang chạy lại nằm rạp xuống theo tiếng hò của tên chỉ huy nằm rạp rồi lại nhổm lên chạy… Đúng kiểu tập quân sự… Sĩ quan an ninh Nhật được báo cáo. Một vài vụ xét hỏi xẩy ra làm nhiều người sợ xanh mặt. Án sát Bùi Đường Tịnh nhờ Quan Tây can thiệp. Không ai bị bắt, bị đánh cả, nhưng nhiều người sợ. Một số thanh niên bị bố mẹ cấm không cho ra bãi tập, trong số này có anh tôi.
Mỗi trường phải có một huấn luyện viên thể dục, ông này phụ trách dậy thể dục cho học sinh và phát động phong trào Jeunesse trong trường. Ông huấn luyện viên trường Tự Đức cùa tôi xuất thân từ lò đào tạo Moniteur ở Phan Thiết ra. Ngày ông mới về Hà Đông trông ông có vẻ quắc thước, cương nghị lắm. Ông có mầu nước da ngăm ngăm đen, mầu da thường được nhà văn Lê văn Trương tả là «bánh mật»– mầu da của Trọng Khang trong Trường Đời – mắt ông sáng, tiếng nói ông sang sảng, ông hò hét ra trò.
Nhưng ông huấn luyện huynh trưởng của tôi càng ở lâu ở Hà Đông, trông ông càng yếu đi, ông xanh xao, vàng vọt, gầy ốm ra trông thấy. Những ngày đầu ông ăn ở luôn ở trong trường với các ông giáo khác. Vài tháng sau, ông dọn va-li xuống ở một nhà trong xóm Cô Đầu Bông Đỏ.
Huấn luyện viên thể dục kiêm huynh trưởng Thiếu nhi Học đường mà nằm thường trực trong nhà cô đầu thì nhất rồi. Ít lâu sau, tôi có một tên bạn học – gã này có bà mẹ làm chủ cô đầu xóm Bông Đỏ, gã con một được mẹ chiều ra gì, song có lẽ vì gần với những trò đâm dật, gã mới tí tuổi mà đã ốm yếu xanh lét – tên bạn học này cho chúng tôi biết là ông huynh trưởng, Anh cả của đoàn Jeunesse chúng tôi nghiện thuốc phiện.
Đến những năm phi cơ bay đến thả bom Hà Nội, Bắc Kỳ chấn động. Tiếng bom rền từ Hà Nội vang vào tận Hà Đông, làm cho mặt đất rung chuyển.
Thị xã Hà Đông đột nhiên vui nhộn, đông đảo hẳn lên. Người Hà Nội tản cư về Hà Đông để tránh bom, Hà Đông được dân Hà Nội chiếu cố đến nhiều, vì Hà Đông yên tĩnh, Hà Đông không có nhà máy lớn, không có bến tầu, nhà ga xe hỏa.
Hà Đông tuy có quân Nhật đóng song cũng không có xưởng máy nào của quân đội Nhật. Số quân Nhật đóng ở thị xã Hà Đông cũng tương đối ít hơn các tỉnh khác.
Hà Đông lại gần Hà Nội. Những người có công việc làm ăn phải ở lại Hà Nội buổi tối có thể vào Hà Đông ngủ với vợ, chơi với con, sáng sớm lại ra Hà Nội làm việc.
Hà Đông chưa bao giờ đông thế. Những trường tư thục Thăng Long, Văn Lang cững được dọn vào Hà Đông. Vào những giờ tan học, phố Bóp Kèn đầy học sinh.
Cũng chưa bao giờ học trò lại có dịp đùa chơi nhiều học ít đến như thế. Ngày nào cũng có còi báo động ít nhất là hai, ba lần.
Theo đúng pháp luật, mỗi lần có còi báo động, học trò phải ra khỏi lớp, chạy xuống hầm trú ẩn. Nhưng ở Hà Đông, học trò chúng tôi được thả chạy ra đồng! Còi báo động rú lên là ngoài đồng đầy học trò. Chạy chơi, nô đùa, bắt chim, câu cá, bắt cào cào, châu chấu ở ngoài đồng cho hết buổi là cắp cặp về.
Bom nổ chết không biết bao nhiêu người ở Hà Nội. Nhà Đấu Xảo bị trúng bom… Không khí kinh hoàng bao trùm thủ đô. Người Hà Nội tả lại những trận bom nổ kinh khủng, người đang đi xe đạp bị bom tiện mất đầu, chết ngồi trên xe đạp mà xe vẫn chạy phom phom. Cả gia đình chết trọn vì nhà trúng bom, những xác người chết mà không có một vết thương, người dưới cống, tay chân, giăng mắc lủng lẳng trên cột điện v.v…
Nhưng Hà Đông ở gần sát Hà Nội lại không hề hấn gì. Tôi «hy vọng» được thấy máy bay Mỹ ném vài quả bom con xuống Hà Đông, bom nhỏ cũng được, gọi là có bom nổ cho bằng thiên hạ.
Tôi vẫn ấm ức vì chuyện tỉnh tôi không bị dội bom. Tôi thấy đó là một sự thiếu thốn làm cho tỉnh tôi thua kém các tỉnh khác.
Phi cơ có bay qua tỉnh Hà Đông vài lần. Tôi trông thấy những chiếc phi cơ hai mình xẹt qua. Thời đó, phi cơ hai mình của Mỹ là kiểu phi cơ tối tân nhất. Nhưng phi cơ chỉ xẹt qua tỉnh thôi. Hà Đông bị phi cơ Mỹ chê. Nỗi hy vọng của tôi ngày ấy không thành sự thật.
Hơn hai mươi năm, năm 1967, phi cơ Mỹ tới dội bom lần thứ nhất xuống thị xã Hà Đông. Bản tin Télétype ngoại quốc loan rằng những phản lực cơ F.10 tới dội bom «Trại Quân» Hà Đông.
Tôi tưởng nhớ đến trại lính Hà Đông – trại lính ở sau dinh Tổng Đốc – nơi có vòm tròn lô-cốt cao vút, trên mỗi lô-cốt đặt còi báo động.
Ở trại lính này, Quản Dưỡng đã giết hàng trăm thanh niên Hà Đông trong một buổi chiều, nơi máu Thanh niên Hà Đông chẩy phí phạm chan hòa với mặt nước lụt từ đê Đồng Lao vỡ đổ về tỉnh, nơi tôi suýt chết vì đạn mousqueton của đám lính khố xanh nghe lệnh của Quản Dưỡng.
Hà Đông … tỉnh cũ của tôi, thành phố êm vắng tôi đã sống những ngày thơ ấu, nơi tôi ra đời lớn lên, nơi kết mộng ước về tương lai. Hà Đông trong hơn hai mươi năm qua, đã chịu nhiều thay đổi, tàn phá.
Lần «tiêu thổ kháng chiến» vào năm 1946 Việt Minh cho phá hết đốt hết nhà cửa trong thị xã Hà Đông…
Hà Đông hôm nay, tháng nầy chắc đã thay đổi nhiều. Bây giờ, nếu trở về đi những bước mới trên những con đường năm xưa tôi đã đi, chắc tôi không còn tìm lại được một hình ảnh nào, sân vận động Yves Chatel chắc đã được cầy lên thành ruộng, bến sỏi sông Nhuệ Giang, nơi tôi được Khê dậy bơi những mùa hè sáng rực ánh nắng, chắc đã được vét hết sỏi…
Nhưng Hà Đông vẫn là tỉnh cũ của tôi, tôi vẫn thương mến, vẫn tưởng nhớ đến Hà Đông như tưởng nhớ, như thương một người tình xưa không được cùng nhau chung sống. Như Bất Bạt, Sài Sơn, Sông Đáy, Phủ Quốc Oai là của Trần Quang Dũng, Hà Đông là của tôi, bom đạn và thời gian không thể làm cho Hà Đông trong lòng tôi thay đổi.