← Quay lại trang sách

Năm

Những ngày nghỉ học dài vì phi cơ oanh tạc, sau cùng các trường học được lệnh tạm đóng cửa. Phong trào thanh niên Khỏe, cũng dần dần xẹp đi.. Thống chế Pétain cũng bị bỏ quên – Trận Đại chiến Thế giới đi đến những ngày cuối cùng. Người ta mới bắt đầu nói đến huyện Nhật bại trận, đến chiến tranh kết liễu. Báo hằng ngày đăng những tin chiến sự trên Thái Bình Dương.

Được nhiều người nói đến nhất là tin những chiếc phi cơ Kami-Kazé của Nhật, mang bom bay lao xuống tàu chiến Anh – Mỹ. Hành động oai hùng thật nhưng vẫn là hành động tự tử.

Dân chúng Đông Dương biết rằng Nhật đã kiệt quệ về nhân lực cũng như tài lực. Thầy tôi nói đến những chuyện ông đọc ở trên báo về phi cơ quyết tử Kami-Kazé: phi cơ bay lọt vào ống khói tàu chiến Anh-Mỹ, làm tầu nổ tung, súng cao xạ trên các tàu Anh-Mỹ bắn lên làm cho những chiếc Kami-Kazé lao xuống bị hất tung ra biển. Thầy tôi thán phục những chuyện đó. Nghỉ học, suốt ngày bọn trẻ chúng tôi đi chơi lang thang khắp nơi. Bắn chim bằng súng cao su, đi tắm sông, đi câu cá. Từng nhóm đồng tuổi chơi với nhau. Hà Đông thời đó nổi tiếng nhất là anh Dần, biệt hiệu là Dần Loe, về thành tích du đãng. Dần Loe là một thứ du đãng con nhà đàng hoàng, hay đánh nhau xưng hùng xưng bá ở tỉnh không cho thanh niên tỉnh lạ vào tỉnh minh quấy phá hoặc lơn gái, nhưng không có những hành động cướp giật, ăn quỵt như bọn du đãng khốn nạn hiện nay. Dần Loe hơn tôi chừng năm hoặc sáu tuổi, tôi chơi với em Dần Loe, bọn chúng tôi mỗi thằng có một tên «tục» đi theo tên cúng cơm: Quy Sứt, Phú Cốc, Phú Mò, Liên Vẩu v.v…Thằng nào “cù lần» lắm mới không có hỗn danh. Thằng tên Hải, nhà nuôi bò sữa, có tên Hải bò. Thằng tên Toàn, nhà làm thợ mộc, đóng xe bò có tên là Toàn Xe Bò, Dần Loe vì cái miệng rộng, đôi môi dầy nở lớn như loa kèn. Dần Giò vì nhà làm hàng giò chả thường phải giã giò. Thằng Ngọc da đen được gọi là Ngọc Đen.Thằng Ninh nhà làm đại lý bia và nước đá, được gọi là Ninh Bia. Thằng Sơn nhà bán hàng bát, chén, có tên Sơn Bát. Thằng Phúc nhà làm đại lý thuốc phiện, ngoài cửa treo tấm bảng hai chữ R.O. được gọi là Phúc Ro. Anh Mậu, người làng Cự Đà, được gọi là Mậu Cự. Ngoài ra, còn một vài nhân vật có những cái hỗn danh lạ không rõ xuất xứ và nguyên do như Phúc Bủm hoặc Phúc Tí Bỏm, như Xa Trâu Lăn.

Tôi tên là Hải, mặt mũi không có gì là đặc biệt đáng để ý, tài vặt cũng không có, nên có lẽ vì Hà Đông đã có một Hải Bò – tôi bị gọi là Hải Cẩu.

Buổi sáng nghỉ học, chúng tôi đi chơi. Đi vào sân vận động, trèo tường qua bên kia là những ao nuôi cá. Nơi đó có một cái miểu lớn, chung quanh cây cối um tùm, thường được dùng làm nơi cắm trại của Hướng đạo sinh Hà Đông. Lối đó đi xuống làng Hạ Trì, rồi Cự Đà, Khúc Thủy. Đi mãi là xuống Văn Điển và Phú Lý. Các bạn tôi nói đến chuyện thiếu gạo ăn, dàn sẽ bị đói. Các bạn tôi cùng tuổi với tôi, nhưng chúng nó tinh khôn hơn tôi nhiều. Thằng nào cùng nói là dân mình sắp bị đói đến nơi. Chỉ có mình tôi nói:

– Nhà tao không bao giờ thiếu gạo ăn. Nhà thằng nào bị đói thì bị chứ nhà tao không bao giờ bị đói…

Chúng nó xúm vào chửi tôi, cho là tôi khoe láo, tôi ngu. Tôi bị chửi dữ quá cũng đâm ngượng, nhưng thực tình, tôi chưa hiểu được chuyện thiếu gạo, bị đói ra làm sao. Tôi không thể tưởng tượng được rằng có ngày quanh tôi lại có những người phải chết vì đói.

Mỗi buổi sáng, vào lúc 10 giờ, chiếc xe bò lọc cọc của nhà thương đi vòng các phố lượm xác chết. Một vòng qua khu phố Chợ, sang khu Đầu Cầu xuống phố Bóp Kèn, rồi xe ra Nghĩa địa của thành phố ở bờ sông. Mười giờ nắng bắt đầu im, người nào còn nằm không dậy tức là chết. Không cần phải hỏi han gì lôi thôi, hai bác lao công trông cũng gầy không kém gì những xác ma đói, tiến vào khiêng luôn người nằm và cả cái chiếu vứt lên xe bò. Một xe bò thường mỗi sáng chở đi chừng mười đến mười lăm xác chết. Những ống cẳng xương xẩu thò ra ngoài xe. Người sống gặp xe thường quay mặt đi không dám nhìn.

Nghĩa trang chung của tỉnh lỵ nằm ở cánh đồng sau Nhà thương, tức là ngay sau nhà tôi. Lên gác, nhìn ra cửa sổ đằng sau, qua một cảnh đồng thấy Nghĩa trang. Ban đêm, vùng trời ấy tối om. Tôi sợ ma, sợ bóng tối nhưng lại khoái đứng xa nhìn vào Nghĩa trang, nhìn để mà tưởng tượng, để mà sợ.

«Em yêu dấu, cái tật tưởng tượng có từ thuở nhỏ này của anh làm giầu cho đời anh nhiều, nhưng cũng làm cho anh đau khổ lắm – có lẽ vì đời anh sung sướng, anh đầy đủ, anh có tất cả, nhất là tình yêu, anh có em, có các con – con chúng ta thật đẹp, em đã nói thế một đêm nay em bỏ anh em đi giang hồ rồi lại về với anh, đêm chúng ta yêu nhau trong khách sạn Đồng Khánh, lấy nhau 10 năm, có ba con với nhau, chúng ta lại đưa nhau đi ô-ten như những ngày chúng ta mới gặp nhau. Em nói – “Em đi… em thấy con của những đứa bạn em, con chúng nó kém con chúng mình nhiều. Con chúng mình đẹp lắm…” Anh có đủ cả như thế nhưng anh khốn nạn, anh vẫn cứ cho là anh khổ. Anh cứ tưởng tượng ra những chuyện khốn nạn. Hay là tại cái nguyên chất trong tánh nết của anh là khốn nạn hả em? Anh có em chung sống, anh sung sướng nhất dời, mà anh cứ tưởng tượng rằng anh khổ, rằng em không chung thủy với anh. Anh đau khổ, anh chết là đáng lắm..»

Có những đêm mưa, từ vùng tối om, dầy đặc của Nghĩa trang đó, có những cập ma trơi hiển hiện, vờn nhau. Tôi đứng ở trên gác, nhìn ra và tưởng tượng ra cái cảnh, những người chết ở đó đang ngồi hội họp. Trời mưa to gió lớn, sấm sét nổ đùng đùng, tôi nằm trong lòng mẹ, nghĩ đến những ngôi mộ mà tôi thấy nằm trơ vơ ngoài đồng. Tôi nghĩ đến ngày mẹ tôi chết, bà cũng phải ra nằm một mình ngoài đồng, cô đơn và lạnh lẽo, tối tăm biết là chừng nào. Tôi nghĩ thế và tôi khóc. Nhất là khi mẹ tôi nói – « Bao giờ mẹ chết, người ta cũng khiêng mẹ ra chôn ở ngoài đồng. Em có thương mẹ không?? » thì tôi khóc nức nở… Bố mẹ thương yêu con thường hay làm cho con khổ, con sợ hãi bằng cách hỏi con có thương mình khi mình chết không. Tôi bây giờ tôi cũng hay hỏi các con tôi – như mẹ tôi vẫn từng hỏi tôi:

– Nếu bố chết…. con có thương bố không??

Trẻ con chưa biết gì về cuộc đời, chưa biết rằng cuộc đời này có chuyện yêu đương mai sau lớn lên mình sẽ gặp người yêu và yêu nhau, ăn ngủ với nhau sướng lắm, lờ mờ biết về cõi chết. Rằng người ta trước sau gì cũng phải chết và chết là phải ra đồng nằm một mình, nằm ở dưới đất, đắp đất lên, và không còn được trò chuyện, âu yếm hôn hít những người thân yêu nữa. Nói đến sự mình chết với con mình là một sự tàn nhẫn. Song khi yêu thương ai, khi biết rằng nếu người ấy mà chết, mình sẽ đau đớn lắm, mình cũng sẽ chết, mình muốn biết rằng nếu mình chết kẻ đó có đau đớn như mình đau đớn hay không: Tình yêu là thế – yêu là khổ và người yêu thường muốn làm cho người mình yêu cũng phải khổ như mình khổ.

Điều đau nhục nhất đáng kể là giữa những người sống chưa bị đói và lớp người bị đói sắp chết, có một sự cách biệt tàn nhẫn, kinh khủng. Người chưa đói coi người bị đói như một quái vật không thể để cho gần mình. Người ta thấy nhau chết đói mà không thương xót, mà dửng dưng, không chia xẻ cho nhau. Bởi vì nhiều quá, bố thí không thấm thía vào đâu. Người ta coi người như súc vật. Xua đuổi nhau, sợ nhau và thù hằn nhau.

Sự thù hằn thường sáng lên trong những đôi mắt sâu hoắm như rực lửa của những người sắp chết.

– Rồi đến lượt chúng mày. Ông bảo cho mầy biết… chúng ông chết trước, chúng mày chết sau…

Tôi đã nhiều lần được nghe những câu tương tự thốt ra từ những đôi môi đen khô vì lâu ngày không được tiếp máu. Những người chết đói đó không phải là ăn mày. Bọn ăn mày chuyên nghiệp mặt mũi ngu si, đần độn. Họ chết đói vì đồng quê mất mùa, vì nhiều nơi hạn hán, nhiều nơi lụt, nhiều nơi quân đội Nhật bắt nhổ lúa, ngô lên lấy đất trồng đay, nói là vì nhu cầu quân sự. Có người nói rằng Nhật trồng đay để đốt lấy than làm thuốc súng, nhiều người khác nói rằng quân Nhật trồng đay may y phục, làm bao tải đựng thóc gạo của dân mình chở đi cung cấp cho quân Nhật ở các mặt trận không trồng trọt ngũ cốc được như Bornéo, Okinawa v.v… Hồi đó, tôi nghe thấy người ta nói như thế. Những người chết đói ở Bắc Việt năm ấy chết vì quân Nhật bắt họ phải nộp thuế gạo. Ở Hà Đông, nhà thầu Trần văn Chi, trước thâu thuế chợ, được thầu thâu thóc cho Tây, Tây nộp thóc cho Nhật.

Thóc do nhà thầu Trần văn Chi thâu được, nhiều không đủ chỗ chứa, phải đem đến gửi nhờ ở nhà tôi. Những vựa thóc cao đến tận mái những căn nhà tranh trong vườn nhà tôi. Những căn nhà tranh này nguyên là xưởng dệt màn của mẹ tôi. Bấy giờ nghĩ dệt, bỏ hoang. Hồi đó xe đạp đang quý. Một chiếc xe đạp Sterling dura-inoxydable hồi ấy quý như xe ô-tô bây giờ. Trong lúc xe ô-tô không có ét-xăng phải mang thùng thật to tổ bố đằng sau để chạy, xe điện, xe hỏa mỗi lần có báo động là nằm chết dí một chỗ, phương tiện di chuyển quý nhất của dân Bắc Việt là xe đạp. Thầy tôi nhờ ông Trần văn Chi mua hộ một chiếc xe đạp cho anh tôi. Ông Chi cho người mang tới một xe đạp Nhật hiệu Rota, mới toanh. Để trả cái nợ gửi thóc, ông không lấy tiền chiếc xe đạp Rota.

Dân đói vào tỉnh Hà Đông mỗi ngày một nhiều. Người sống đem người chết đi chôn không xuể. Ở nhiều phố vắng, có xác chết nằm cả tuần vẫn chưa được mang đi chôn. Người ta tổ chức đoàn cứu đói. Rồi một nghề đặc biệt được ra đời: nghề buôn gạo Nam kỳ, thường được gọi là gạo máy.

Nhà nào có tiền cũng mở tiệm gạo. Mẹ tôi cũng buôn gạo về bán. Cách buôn thật dễ: đem tiền ra Hà Nội mua dăm tạ gạo máy, mướn xe bò chở về Hà Đông, có gạo là có người xách bị đến mua. Bán hết lại ra Hà Nội mua về. Nhưng mẹ tôi buôn gạo máy được vài lần cũng bỏ. Vì bà không phải là dân buôn. Bọn đẩy xe bò ăn cắp gạo mà bà không biết.

Xe bò của họ có hai tấm ván đáy. Những bao gạo đưa lên xe đều bị chọc lỗ, gạo cứ thế chảy xuống đáy dưới của xe. Mỗi tạ bị ăn cắp như thế mất đến tám, chín ký lô mà mẹ tôi không biết. Lại thêm đồng tiền xuống giá. Giá gạo hôm trước 500 đồng, hôm sau đã 600 đồng, rồi 700 đồng. Chỉ có bọn đầu cơ, tích trữ hàng trăm tấn, là có lời. Giới buôn lẻ chết hết.

Nghề thứ hai là nghề bán cơm nắm chấm muối vừng ở đầu đường. Vì nhà còn quá ít gạo, nhiều người không thổi cơm, ra đầu phố ăn cơm nắm chấm muối vừng, hoặc muối hột. Xong bữa. Những hàng cơm nắm, gánh khoai lang luộc ở những đầu phố là những mục tiêu tấn công của dân đói.

Quanh những gánh bán dạo đó, có những cặp mắt hau háu nhìn. Những người đói ngồi chồm hổm chung quanh. Một người nhào tới, vồ nắm cơm, nhét vào mồm. Người mất đấm đá thum thụp– « Mẹ bố mày….ăn cướp của tao hả?? Đánh cho mày chết… » Mặc. Người mất cứ đánh, người cướp cứ nhét nắm cơm hay củ khoai cướp được vào mồm, cơm toè ra rớt xuống đất. Đợi cho người ta đánh mỏi tay, người bị đánh bò lê ra đất ngồi dậy, lượm cơm lên ăn. Như thường.

Người mất của có đấm đá bằng tay, chân, có phang bằng đòn gánh, cũng chỉ đấm đá, phang vừa vừa thôi, mắt còn phải nhìn gánh cơm, khoai lang của mình, chân tay còn phải để dành để bảo vệ những gì chưa bị cướp. Vì chung quanh đó, còn có cả chục nhân mạng sắp chết đói khác đang định xô vào vồ cướp. Vồ được củ khoai, bánh cơm, nhét bừa vào mồm có bị đánh, đá mấy cái không sao. Đã có cái ăn sống được một ngày. Mai lại rình vồ món khác. Mỗi trận đòn, một bữa ăn. Còn rẻ.

Những cục cơm rơi vãi nhoe nhoét dưới đất lúc đó mới được bốc lên, ăn ngon lành, có những người chịu đánh để lấy cơm cho con ăn. Cũng có những người chịu nằm chết chớ không chịu ăn xin hay rình cướp.

Buổi trưa, ăn cơm xong, tôi cùng các ban đến tụ tập ở sân trường. Bây giờ tôi đã vào trường Công. Tôi náo nức đi làm việc thiện. Ủy Ban Cứu Đói kêu gọi mỗi nhà mỗi ngày ủng hộ một bát cơm. Thanh niên Cứu Đói mang bị đi thâu cơm từng nhà, mang về Trụ sở, phát phần cho đồng bào đói.

Chúng tôi bận áo sơ-mi trắng, quần xanh Tầu – bộ đồng phục hồi Phong trào Khỏe của ông Ducouroy vẫn còn được giữ gìn. Vải đắt. Một bộ áo trắng vải Chúc bâu, quần soọc vải xanh Tầu, đã là diện lắm rồi, mỗi thằng mang theo một cái bị.

Chúng tôi được chia phố. Bọn đi thâu cơm dẫy nhà số lẽ, bọn đi thâu bên dẫy nhà số chẵn. Tôi phải vất vả, phải khéo léo lắm mới đổi được vào đoàn đi thâu cơm ở phố Đầu Cầu, khu có nhà Ngọc Diệp. Từ ngày chia tay với Ngọc Diệp trong nhà thương, tôi ít khi có dịp gặp nàng.

Một lần tôi gặp nàng trên chuyến xe lửa Hà Đông – Hà Nội, nhưng nàng đi với bà chị. Và tôi ngượng, tôi sợ không dám đến ra mắt bà chị của nàng. Trên chuyến tầu ấy, tôi ra đứng ở đầu toa, để cho Ngọc Diệp không nhìn thấy tôi. Nhưng suốt đoạn đường dài, không lúc nào tôi rời mắt nhìn nàng.

Gần hai năm trời đã trôi qua, hai năm: Khoảng thời gian ấy rất dài, rất quan trọng trong cuộc đời của người con gái đang tuổi dậy thì. Diệp hơn tôi hai tuổi. Nàng nhớn phồng hẳn lên. Khuôn mặt năm xưa đau yếu, xanh nhợt, đôi gò má nhô cao, khuôn mặt trũng sâu và sáng rực, nay trở thành bầu bầu. Đôi má hồng, mới nhìn tôi tưởng là nàng đánh phấn hồng. Nhưng không phải, con gái nhà lành tỉnh nhỏ ngày xưa mười bẩy tuổi vẫn chưa phấn son. Mái tóc nàng dầy hơn, bây giờ cắt vừa chấm vai.

Em… em… hai mươi năm đã trôi qua kể từ buổi chiều mùa xuân, anh cùng đi với em trên chuyến xe điện Hà Nội – Hà Đông ấy, đã bảo anh rằng những sợi tơ vàng giăng trên những dậu cây tươi mởn ven đường xe đường gần Ngã Tư Sở ấy là những giây tơ hồng khi anh hỏi em rằng những dây đó là dây gì. Thời gian trôi qua thật mau và cũng thật chóng.

Hình ảnh rực rỡ của em năm em mười bẩy tuổi còn nguyên ánh sáng trong anh. Nhưng cuộc đời của chúng ta đã qua nhiều thay đổi. Anh chẳng bao giờ hỏi thăm ai về em, mặc dầu em là người yêu đầu tiên của anh. Anh không biết em có gặp tình yêu trong đời em không? Nghĩa là anh không biết em có yêu chồng em, có đau khổ vì chồng em, em có cho ra đời những đứa con kháu khỉnh, giống em, như anh đã gặp tình yêu, đã yêu vợ anh, đã đau đớn vì vợ anh, đã có những đứa con kháu khỉnh giống vợ chồng anh. Anh cũng chẳng được biết chắc rằng qua hai cuộc chiến tranh thê thảm, em còn sống hay là em đã chết.

Nhưng, nếu năm nay em còn sống, ở một nơi nào đó trên trái đất này, em đã 37 tuổi rồi. Anh dốt về toán pháp, anh không nhớ được những con số nhưng anh nhớ tuổi em, anh nhớ rõ ngày, tháng thời gian và không gian anh gặp tình yêu. Như nhớ lần đầu tiên gặp nhau người anh yêu mặc áo màu gì, có gì cài trên mái tóc dài, nói với anh những lời gì, yêu anh ra làm sao. Những cái nhớ lẩm cẩm đó làm cho đàn bà xúc động và thích lắm phải không em. Đàn bà mà anh nói tới đây là đàn bà đẹp, đàn bà đa tình. Anh không nói đến những người đàn bà xấu…

Năm nay em đã 37 tuổi, và anh 35 tuổi. Anh đang ở vào cái tuổi đẹp nhất của cuộc đời đàn ông. Anh lấy em làm vợ và “em em, anh anh” với em cũng được, mà anh lấy con gái em làm vợ và “má má, con con” với em cũng được, nếu em lấy chồng sớm và bây giờ, em có con gái 17 tuổi. Có điều năm nay anh không còn ngây thơ như ngày em bảo anh rằng những sợi dây vàng đó là dây tơ hồng, bây giờ, anh hối hận vì anh đã không yêu đương xác thịt em ngày đó. Không một cái hôn lên má, không một cái nắm tay… Tình yêu không có đụng chạm xác thịt không đủ để ghi nhớ. Yêu em năm đó, anh đã yêu một cái bóng, yêu một nữ thần, anh không yêu em như yêu một người đàn bà…