Sáu
Tôi chọn một cái bị mới, cái bị mới nhất treo trên gác bếp nhà tôi, lẫn với mấy cây cần câu của tôi, bắt khói lên nước vàng óng như ngà. Lẽ ra tôi phải vác bị đi xin cơm ở khu phố nhà tôi là phố Bóp Kèn, nhưng tôi đi sang phố Đầu Cầu. Ngọc Ve – Ngọc có cái ve ở mắt, trùm thiếu niên càn bạt ở khu này – đứng đầu nhóm đi xin cơm ở Đầu Cầu.
Thấy tôi đi trong đội đàn em của hắn, Ngọc Ve quát:
– Thằng này… mày làm gì ở đây?
Tôi hơi trợn. Ngoe Ve nổi tiếng du đãng, hay đánh nhau và bạo tợn. Chính mắt tôi đã trông thấy hắn thụi những thằng to gấp hai tôi. Tôi trả lời cứng tuy trong bụng chỉ sợ hắn cao hứng thụi tôi vài quả – chỉ cần một quả thôi – cũng mất mặt và thê thảm quá:
– Đi xin cơm.
– Mày khu Bóp Kèn cơ mà?
Tôi trả lời bừa:
– Bên ấy, đông người quá. Ông Tín bảo tôi qua bên này qua hàng.
Ông Tín là ông Moniteur của tỉnh Hà Đông. Ông đứng đầu bọn Thanh Thiếu Niên Khất Thực chúng tôi.
Tôi may mắn vì Ngọc dịu giọng:
– Ừa… mà đi bên khu tao phải đàng hoàng à.
Mừng quá tôi vội vã:
– Đàng hoàng…!
Nơi tôi muốn đặt chân vào là một tòa nhà vi-la, kiểu cổ. Có mái nhà hình tam giác, trông y như cái mũ của những Mụ Phù Thủy Âu Tây cưỡi chổi bay trên trời. Như cái mũ đen nhọn của Mụ Phù Thủy độc ác trong phim vẽ «Nàng Bạch Tuyết và Bẩy chú lùn ». Cái mũ Phù Thủy ấy úp lấy nàng tiên của tôi. Nàng vừa là một nàng tiên, vừa là công chúa. Cổng sắt chấn song bên trên nhọn hoắt. Bảng sắt tây kẻ chữ Chien Méchant không làm sao kết bạn được với bọn anh em nàng để có thể đặt gót chân du đãng trên ngưỡng cửa sắt ấy. Tôi chỉ đi lang thang bên ngoài, mơ và tưởng tượng ra cảnh nàng sống trong đó, nàng đứng sau cửa sổ, nhìn thấy tôi, biết là tôi yêu nàng và tôi khổ sở đi lên, đi xuống đây là vì nàng, và nàng mỉm cười.
Đi hết dãy phố vắng nhà nàng, kẻ lang thang lãng tử yêu chưa đến tuổi yêu lạc bước vào một vùng tuyệt đẹp. Hết đường nhựa, đi vào đường đất, vùng cây xanh. Có một khu trại có tên là Hoàng Hoa Trang. Không biết của nhà ai. Tôi mê vì dàn cây cao bên ngoài. Cao thật cao. Cành lá của rặng cây, vào những chiều mùa xuân, sáng mùa thu tôi đi qua, xanh tươi. Như bao giờ, mãi mãi cành lá của rặng cây ấy vẫn xanh tươi như thế. Lấm chấm một vài đóa hoa vàng trên nền xanh. Tôi không biết rặng cây đó tên là gì. Mà tơi cũng không cần biết. Tôi yêu rặng cây ngay từ buổi đầu tiên lạc bước vào rặng cây xanh. Ở đó yên tĩnh một cách lạ thường. Yên tĩnh và xanh tươi như chỉ có Thiên Đường mới có thể yên tĩnh và xanh tươi đến thế. Yên tĩnh phải đi đôi với màu xanh, sắc tươi của cỏ cây, hoa lá mới là yên tĩnh sống. Những tòa giáo đường đá trắng cũng yên tĩnh, những tòa nhà lớn «bê-toong ác-mê» cũng yên tĩnh, những căn hầm bằng thép chống bom nguyên tử cũng yên tĩnh, không gian trong những vách tường dầy nhà tù cũng yên tĩnh, nhưng đó là cái yên tĩnh chết. Trong cái yên tĩnh đó, người ta cũng hưởng yên tĩnh nhưng người ta sinh chán đời, muốn có ý nghĩ thoát ra khỏi cuộc đời hỗn tạp này để đi ra, đi ra ngoài. Yên tĩnh xanh tươi của hoa lá cho người ta cảm giác yêu đời tin rằng tình yêu hằng có ở cõi đời này, tin rằng có một ngày đẹp mình sẽ gặp tình yêu cho tình yêu thêm đậm đà, cho ta yêu đời và ham sống.
Trịnh Viết Thành, Hoàng Anh Tuấn – hai thằng hơn tôi ở điểm được bố mẹ có tiền cho sang Pháp học. Cả hai thằng sang đất Pháp thì ăn chơi, không học mót được một tí tài còm nào để về phục vụ cho đất nước, đền ơn cha mẹ. Hai thằng chỉ hơn tôi bây giờ ở điểm có sang Tây và nói phét về những chuyện bên Tây, những chuyên chơi đầm – đầm Pháp và đầm A-Na-Mít – nhưng tôi biết có một chuyện mà chúng nó nói thật. Đó là chuyện trời bên Tây cảnh đẹp lắm, và ở trong cái phong cảnh đẹp ấy, thằng người nào vô tình, khô khan nhất cũng phải yêu, cũng phải trở thành si tình, cảnh đó dễ cho Cung Trầm Tưởng làm thơ – «Quê em có trăng soi… Anh một mình ở lại…» Tên cù lần nhất cũng sốt sắng làm chuyện «Ra xe tiễn em đi… chưa bao giờ buồn thế…»
– Cảnh đó đẹp lắm mày ạ. Ở bên đó, tao chắc thằng nào vô tình nhất, khô khan nhất cũng xúc động, cũng yêu. Có những miền đồng quê của nó cỏ non xanh tận chân trời. Y như cảnh tả trong truyện Kiều. Những cảnh mà ở nước mình, mình cóc thấy bao giờ.Sáng trăng đưa em vào những vườn táo, tuyệt lắm mày ạ. Cho anh cai vườn năm, bẩy franc, mình được phép vào vườn táo, tha hồ ăn nhưng không được hái mang ra. Những cây táo nó thấp đến đầu gối mình. Táo xanh, hái ăn chấm muối ớt. Mình thủ sẵn một gói muối ớt đi. Các em chịu lắm.
Thằng Thành hay thằng Tuấn nói những câu trên đây – có thể là cả hai thằng, mỗi thằng nói một câu, tôi ghép lại – chúng nó – cũng giống như đa số những thằng đi xa về – nói sai nhiều chuyện – song, tôi cảm thấy là chúng nói đúng về điểm sống trong cảnh đẹp, con người trở thành tình cảm, dễ yêu nhau. Vì tôi ngày xưa chỉ mới lạc bước vào một vùng cây xanh nhỏ bé ở tỉnh lỵ Hà Đông – vùng cây xanh đẹp nhất là những ngày mưa bụi, những búp lá non như có linh hồn – tôi đã thấy tình yêu trong lòng tôi rạt rào, dâng lên cao độ – tôi mê cái tên Hoàng Hoa Trang ở đó. Bây giờ, mỗi lần viết tiểu thuyết, tả đến một trang trại đẹp nào trong đó có Tình Yêu, có đàn bà đẹp, tôi đều đặt tên cho nơi đó là Hoàng Hoa Trang.
★
Hai mươi năm trước, lối tán gái của thanh niên tỉnh lẻ Bắc Việt vẫn còn nguyên cổ điển, không một chút táo bạo nào. Trai gái thời này, nhứt là trai gái ở những thủ đô lớn, có một triệu cơ hội để gần nhau, để đi tới đoạn cuối cùng của yêu đương ngay lập tức. Nhưng 20 năm xưa, trai gái yêu nhau vẫn chỉ là dùng lối chàng đi bộ qua cửa nhà nàng, đi lên đi xuống cả trăm lần, nàng đứng trong cửa sổ nhìn ra, cười tình với nhau, hoặc theo nhau đi học về – Nàng biết là có chàng đi theo, vừa đi nàng vừa làm điệu – Hoặc là «lăng xê lét» viết thư tình cho nhau, lén trao nhau ở cửa trường, góc phố, hoặc nhờ thằng em nàng mang về.
Ngày xưa, trò trao thư tình cho nhau đã là tối tân và táo bạo lắm rồi – Yêu nhau ngày xưa, người ta thường chỉ dùng lối tỏ tình đi bách bộ qua trước cửa nhà nhau – Để Nguyễn Bính đã phải làm thơ: «Chàng qua chiều ấy, qua chiều khác – Góp lại bao nhiêu vạn dặm đường.»
Nhưng chiều nay, tôi có cơ hội đặt chân vào nhà Ngọc Diệp.
Ngày đầu tiên Đoàn Thanh Niên Khất Thực đi xin cơm. Đã có lời dặn cả từ tuần lễ trước, đến hôm nay, nhà nhà mở cửa và thổi cơm sẵn để góp mỗi nhà một bát. Ở tỉnh nhỏ ít chuyện trò giải trí ngoài đường để cho người ta có thể ra xem chỉ là đám ma đi qua hoặc các cuộc diễn binh có đội kèn «bú-dích» đi đầu của lính Khố Xanh hàng tỉnh, cuộc đi thâu cơm hôm nay là một việc làm cho thành phố vui linh động hẳn lên.
Tôi nhập bọn đi xin cơm bên dẫy nhà Ngọc Diệp. Nhưng tôi cứ xách bị, đứng lẻn ở phía ngoài, chờ cho đến gần nhà nàng tôi mới vào thâu cơm.
Nàng thốt ra hai tiếng trong lanh lảnh:
– Lu…Tô..
Mẹ hai anh Lu, Tô! Hai anh tuân lời cô chủ, rời cánh cổng sắt chạy vào, nhưng vẫn còn cay cú, vẫn hực hực như muốn ăn thua đủ. Hai anh quấn quanh chân cô chủ.
Diệp bước xuống lối sỏi.
Tôi đẩy cửa sắt đi vào.
Khi chúng tôi giáp mặt nhau, tôi run run mở bị, tôi run nhiều, nhưng Diệp vẫn bình tĩnh như không.
Đến lúc giáp mặt nhau, nàng mới nhận ra tôi.
Đôi mắt sáng trong của nàng sáng thêm, môi nàng mỉm cười, để lộ hàm răng trắng.
– Anh đấy à? – Nàng hỏi.
Tôi gượng cười, gật đầu:
– Anh mà cũng đi xin cơm à?
Tất cả những ước mơ, trong một giây phút thành hình, khoảnh khắc thời gian như đọng lại thành hình thể. Trong cuộc đời dài sáu mươi năm, có những khoảng khắc thời gian đã xẩy ra như không tan đi, còn mãi, lúc nào và bao giờ cũng là hiện tại, mỗi lần chúng ta hồi tưởng, lại hiện về, như ta đang sống.
Tôi run sợ, hồi hộp và sung sướng. Bao nhiêu cảm giác dồn dập đến làm cho tôi bàng hoàng. Tôi mở bị trước mặt nàng, chỉ để nhận bát cơm trắng từ tay nàng đổ vào đó, rồi quay đi không thể nói được một lời. Hài lòng mãi mãi với giây phút được đứng gần nàng đó, khi nghe nàng hỏi «Anh mà cũng đi xin cơm cơ à?», tôi nghe rõ nhưng tôi ấp úng, không nói được nên lời.
Nếu buổi trưa đang đi qua, buổi chiều đó – 3 giờ ở một ngày cuối xuân, đầu hạ ở Hà Đông – tôi có đủ tâm trí để trả lời Ngọc Diệp, tôi sẽ nói gi để đáp lại câu hỏi « Anh mà cũng đi xin cơm cơ à?» của Nàng? Đến bây giờ, sau bao lần hồi tưởng, tôi vẫn không biết tôi phải trả lời sao – Câu hỏi của nàng là một câu hỏi của đàn bà mà đàn ông không thể trả lời được.
Đó là loại những câu hỏi rất thường mà rất ác, như:
– Anh mà cũng nghiện thuốc phiện à?
– Anh mà cũng chơi bời ư?
– Anh mà cũng làm «áp phe» sao?
– Anh mà cũng đem thân làm tay sai cho thằng đó ư?
Và:
– Anh mà cũng tàn nhẫn, đểu cáng đến thế này sao?
Hoặc:
– Anh mà cũng làm cách mạng à?
Bát cơm nóng bốc hơi lên nghi ngút. Nồi cơm vừa được thổi xong, chắc là được thổi đặc biệt để dành chờ Đoàn Thanh Niên Khất Thực.
Tôi ấp úng nhìn nàng. Ngọc Diệp mỉm cười. Môi nàng mầu hồng tươi như làn da non những cánh hoa hồng phơn phớt phấn nhụy mùa xuân. Hai đứa nhìn nhau. Bát cơm được đổ vào miệng bị thiếu chút nữa thì ra ngoài hết. Những hạt cơm dẻo nóng bám vào ngón tay tên con trai vụng về mở bị.
– Hãy còn. Để lấy thêm bát nữa.
Nàng gật đầu, như để yêu cầu sự đồng ý của gã thiếu niên mặt thộn. Bằng lòng quá rồi. Nàng có thể đổ vào bị cả một tạ cơm, tôi vẫn không một lời phản đối. Nhưng những mõm chó bẹc-dê hực hực đưa sát vào cặp chân cháy nắng dưới hai ống quần soọc vải xanh Tầu, hai mõm chó phì hơi nóng hôi hổi và rờn rợn làm cho tôi trở lại với thực tế – «không có Diệp, hai con chó này chúng nó cắn mình bỏ mẹ», tôi thốt ra một tiếng:
– Chó…
Nàng hiểu tôi muốn nói gì. Nàng quát khẽ – « Lu… Tô… Đi vào… » Hai con chó lớn lảng xa đôi «xăng-đan» da nâu, nhưng không chịu đi vào hẳn.
Nàng quay mặt gọi vào nhà:
– U Tám ơi… mang cơm ra đây…
Thằng bạn chờ bên ngoài cánh cửa dục:
– Xong chưa… đi mày…
Nó không hiểu tình yêu là gì. Nó không biết là thằng bạn của nó đang đứng với tình yêu, đứng trong tình yêu, đang sống những giây phút sung sướng, quý báu nhất đời. Nếu giây phút đó, có sẵn một triệu đồng bạc để ở cách đó một trăm thước, chỉ quay ra là có thể lấy được, tôi cũng không rời chân. Tôi cũng không đi xa nàng.
U Tám là người đã nuôi Ngọc Diệp trong hai tháng nàng đau màng óc nằm với tôi trong nhà thương. Tôi chỉ nghe Diệp gọi bà là U, bằng một giọng nũng nịu thương mến, đây là lần đầu tôi nghe nàng gọi bà là U Tám.
U Tám bưng một bát cơm đầy tú hụ đi ra. Nhận ra tôi bà cười, hàm răng đen nhánh lộ giữa vành môi ăn trầu cắn chỉ:
– A… Cậu Hải… Cậu đi xin cơm đấy à…??
Sư xuất hiện của U Tám làm cho tôi lấy lại được bình tĩnh. Như người đàn bà quê mùa, hiền lành này đã hóa giải được cho một phần lớn uy lực và áp lực của người thiếu nữ trẻ đẹp.
Tôi trả lời U Tám. U hỏi tôi, vồn vã:
– Cậu chịu khó làm việc này, rồi cậu có phúc lắm ạ. Ngày sau… chắc chắn là cậu lấy được vợ vừa đẹp, vừa giầu…
Chắc lúc ấy mặt tôi đỏ lắm. Đỏ tưng bừng, đỏ khé, loại mặt đỏ mà sau này, khi viết phóng sự, tôi thường tả là «đỏ như tĩ gà».
Diệp cười khanh khách. Tiếng cười trong như những hạt ngọc gieo xuống mâm vàng. Người con gái tôi muốn lấy làm vợ đang đứng bên tôi. Lời của U Tám nói đó chính là nói về nàng.
– Cụ Phán vẫn mạnh chớ cậu?
– Cám ơn U….
– Cậu cho tôi gửi lời hỏi thăm Cụ… Trông cậu dạo này khỏe lắm. Cậu làm gì mà trông đen như Tây đen thế này?
Diệp hỏi tôi:
– Anh hay bơi sông lắm phải không?
Tôi gật đầu:
– Sao Diệp biết??
– Cái gì anh làm ở tỉnh này, Diệp cũng biết hết.
Một sự bí mật mà tôi không bao giờ tìm được câu trả lời. Tại sao Ngọc Diệp lại biết là tôi hay bơi dưới sông? Anh em nàng không chơi với tôi, anh em nàng cũng không ra bơi lội dưới sông Hà Đông. Dòng Nhuệ Giang chẩy qua đầu tỉnh thật thích hợp cho những tên khoái bơi lội mùa Hè. Gần như tất cả bọn thanh thiếu niên thích quấy phá ở tỉnh lỵ, mùa Hè đều gặp nhau trên giòng sông. Ở Bãi Sỏi.
Bãi Sỏi thật sạch. Ở đó có nhiều nhà bán nứa. Thuyền chở sỏi không biết từ đâu tới, đến đổ sỏi xuống đó. Ai cần sỏi đến đó mua. Xuống Bãi Sỏi sạch chân, không có bùn sình. Chúng tôi tập bơi ở Bãi Sỏi. Bắt đầu là bơi chó, rồi dắt díu nhau bơi qua sông. Khi đã bơi kha khá rồi, bon trẻ con bắt đầu được đàn anh chú ý tới. Thời này, những tay bơi cừ nhất Hà Đông là Mậu Cự, Dương Đức Lợi – anh tôi, em của anh Dương Đức Hiền – rồi Khê, bây giờ là Khê Vinh, huấn luyện viên thể dục thể thao, nổi tiếng về mục đấu hót và là cậu của ca sĩ Linh Đa, bọn cùng tuổi với tôi có Phú Cốc, bơi dai phông như rái cá. Mùa Hè, bọn chúng tôi gần như là suốt ngày ở bãi Sì-Tát và ở trên sông Nhuệ.