Mười một
Bây giờ đã là mười lăm năm kể từ ngày đất nước ta chia đôi và gần một triệu đồng bào từ miền Bắc đi vào miền Nam. Mười lăm năm, một thế hệ đã trôi qua nhưng chưa từng có một cuộc thống kê nào cho biết con số 900.000 người miền Bắc di cư hiện ra đã sinh sản thành bao nhiêu nhân mạng.
Chắc là đã nhiều. Chỉ có một số nhỏ ông già, bà cả tịch đi, xác tàn nằm lại còn linh hồn bay về quê cha đất tổ, bọn các anh, các chị trẻ tuổi sinh sản đông vui ra trò. Tôi chỉ cần kể ngay gia đình tôi làm tỷ dụ.
Gia đình tôi vào Saigon có 9 người: thầy, mẹ tôi và 7 anh em tôi. Cho đến hôm nay, thầy tôi đã mất nhưng bẩy anh em tôi đều có vợ, có chồng và có con. Thầy mẹ tôi đã có 15 đứa cháu nội, cháu ngoại. Ngày giỗ, ngày Tết, con cháu về đầy nhà, không còn cả chỗ đứng nữa chứ đừng nói gì đến chỗ ngồi.
Ngày giã từ Hà Nội ra đi, ít người nghĩ được rằng cuộc chia ly lại có thể kéo dài tới hơn mười năm. Cho tới ngày hôm nay, mơ ước của một số người miền Bắc – trong đó có tôi – là được trở về quê hương. Không phải về để sống với cộng sản trong một cuộc sống mà mình đã chê bỏ, mà là về để thăm lại quê hương, để sống lại ở nơi mình đã sống. Mơ ước chính đáng và đáng được thực hiện, vì quê hương chúng la không phải là của riêng của bọn cộng sản. Muốn trở về quê hương không có nghĩa là bằng lòng sống dưới chế độ cộng sản. Thầy tôi là người thù ghét cộng sản nhất trước mắt tôi, ông thù ghét họ ngay từ năm 1945 khi Việt Minh mới về Hà Nội, khi tôi mới còn là một anh thiếu nhi cưng cưng chưa biết đời là gì. Ông đưa anh em tôi vào Nam và giấc mộng duy nhất của ông là có một ngày về quê sống những ngày cuối cùng và chết ở quê tôi.
Tôi có số sống xa cha mẹ. Thuở nhỏ, ngày còn dại dột, tôi xung khắc với thầy tôi. Hai cha con không nói với nhau êm ả được hết một câu chuyện. Hai cha con xa nhau như hai cực của một đường thẳng. Nhưng cũng như hai cực của một đường thẳng hai cha con tôi lại rất gần nhau. Khi tôi đã có vợ con, tôi cảm thông cuộc sống của thầy tôi và cha con tôi trở thành rất thân nhau, rất thương và rất thông cảm nhau. Không còn gì sung sướng cho một người con bằng chuyện tìm thấy ở người sinh ra mình một người bạn chí tình, một người bạn thân theo nghĩa bằng hữu sống chết vì nhau của quân tử Tầu. Thầy tôi bao dung, rộng lượng, hy sinh hết cho các con, bao giờ cũng để quyền lợi và hạnh phúc của các con lên trên hết, trên cả quyền lợi và hạnh phúc của chính mình. Không bao giờ thầy tôi phiền trách chúng tôi một điều gì, dù cho anh em tôi có can cái tội thường tình nhưng khốn nạn là trưởng thành, làm được tiền, chỉ biết lo cho thân xác, lo cho vợ con mà bỏ quên bố mẹ.
Sung sướng nhất có lẽ là tôi. Khi đã trưởng thành, đã có vợ, có con rồi, tôi vẫn còn được thầy tôi coi như hãy còn thơ dại. Tuy ở riêng, mỗi lần nghe tôi đau ốm, thầy tôi đi hai ba đường xe buýt, tới nhà tôi, hỏi han, săn sóc đưa tôi đi bác sĩ. Và tới bệnh viện, thầy tôi vẫn kể bệnh tôi với bác sĩ y như ngày tôi còn bé chưa biết diễn tả bệnh trạng của tôi. Thì ra với một người cha yêu thương con, dù đứa con có lớn đến chừng nào, lớn cả về tuổi tác lẫn địa vị trong xã hội, nó vẫn là đứa trẻ thơ cần che chở.
Những gì thầy mẹ tôi đã làm cho tôi, bao nhiêu yêu thương tôi đã được hưởng, tôi muốn đem cho lại các con tôi. Tôi muốn yêu thương các con tôi như tôi đã được thầy mẹ tôi yêu thương vậy. Tôi muốn cái tình yêu ấy cứ di truyền mãi. nếu không được nhiều hơn, ít nhất cũng phải bằng. Tôi muốn tôi là một người bạn của các con tôi, một người bạn mà chúng có thể tin cậy, một người bạn mà chúng chỉ có thể có nhiều lắm là hai người trong suốt một đời.
Bây giờ… có những buổi chiều buồn, tôi ở một mình và tỉnh dậy sau giấc ngủ trưa, tôi bàng hoàng muốn về nhà thăm thầy tôi, như ngày ông còn sống, tôi vẫn làm vậy mỗi lần tôi cảm thấy cô đơn và cần an ủi. Tôi tưởng như thầy tôi vẫn còn đó và tôi chỉ cần phóng xe qua một chặng đường là lại được thấy ông, được cầm bàn tay có những ngón dài của ông, được nhìn nụ cười hiền lành và tự tin của ông và để thấy tâm hồn tôi bình yên trở lại.
Nhưng cũng như Chúa không thể ở mãi với môn đệ, cha mẹ cũng không thể sống mãi với các con. Thầy tôi đã đi vào cõi không cùng, nơi con người từ đó vào đời, sống yêu thương đau đớn, sung sướng và để rồi lại trở về… Giấc mơ cuối của thầy tôi là được trở về nằm trong lòng cánh đồng làng Bụi, tôi đã định có một ngày nào đó mai sau, tôi sẽ đem nắm xương tàn của thầy tôi về mai táng ở quê hương, trong khi chờ đợi ngày mai đó, một ngày mai tươi sáng của dân tộc, tôi tin rằng ít nhất cũng tươi sáng hơn ngày hôm nay, tôi làm những giấc mơ trở về quê hương…
Người nghệ sĩ có thể nghèo hơn người đời về tiền bạc nhưng nhất định không nghèo về tưởng tượng và khả năng mơ mộng, như tôi mơ mộng hôm nay.
★
Bây giờ là Mùa Xuân, ngoài trời có mưa bụi, một thứ mưa mà chỉ có mùa Xuân ở miền Bắc mới có. Mưa bụi bay bay làm những mái nhà thành phố trắng xóa như có sương mù. Hai vợ chồng tôi dắt ba đứa con đi trong những đường phố mưa bay trắng trắng đó của Hà Nội. Khí trời này được coi là dịu mát, ấm áp với những người vừa chịu đựng một mùa đông giá rét cắt da, cắt thịt của miền Bắc, nhưng đối với những người Việt chào đời ở miền Nam chỉ có hai mùa mưa nắng và sống từ ngày chào đời ở miền Nam như vợ con tôi, thời tiết này có thể là lạnh:
– Có lạnh không em? Lạnh không các con?
– Không, em thấy dễ chịu…
– Đã lạnh gì, bố…
Ba con tôi sinh trưởng ở Saigon nhưng chúng chịu được lạnh, dễ quen với cái lạnh của miền Bắc vì bố mẹ, ông bà là người Bắc. Vợ tôi sinh trưởng ở Nam nhưng ông bà nhạc tôi cũng là người Bắc. Bốn mươi năm về trước, ông cụ bà cụ di cư vào trong Nam lập nghiệp và sanh vợ tôi ở trỏng, năm lên 6 tuổi, Alice được theo mẹ về thăm quê một lần nhưng năm đó nàng còn nhỏ quá. Nhắc lại chuyện về quê này tôi vẫn nói đùa nàng. Năm đó em còn mặc quần thủng đít, em đã biết cái quái gì..? Mà quả thực nàng chẳng nhớ gì về miền Bắc và quê nội, quê ngoại nàng sau chuyến về thăm đó hết.
Thời dậy thì của nàng xẩy ra vào khoảng những năm 1946,1947, nàng đi theo kháng chiến từ Saigon lên Đà Lạt, ra Phan Rang vào một mật khu nằm trong dẫy Trường Sơn có cái tên là Bà Bèo, Đá Trắng. Nàng kể lại ở đó toàn núi cát không trồng trọt gì được thiếu cả nước uống, chỉ ăn với muối trắng và chỉ có nhiều rết. Trong thời gian ấy, tôi say mê dự các cuộc biểu tình ủng hộ cuộc kháng chiến của đồng bào Nam Bộ tổ chức ở Hà Nội và say mê ước mơ làm cuộc Nam Tiến. Rồi tôi theo kháng chiến ra khỏi thành phố Hà Nội thơ mộng, tôi lên Việt Bắc sống những ngày kham khổ, thiếu thốn nhưng đẹp vô vàn.
Những năm sau đó mỗi khi hồi tưởng tôi như vẫn còn trông thấy tôi, chàng thiếu niên Hà Nội ngày nào ba-lô trên vai tình yêu tràn trề trái tim đi vui trên con đường vào Thái Nguyên cửa ngõ của Việt Bắc. Buổi sáng đầu tiên tôi đi vào Việt Bắc đó là một sáng cuối xuân đầu hạ, trời Thái Nguyên trong, xanh cao và đẹp đến nỗi tôi vừa leo ụ vừa mải nghếch mắt lên nhìn trời hụt chân té xuống hố, các đồng chí anh phải thò gậy xuống cho tôi nắm kéo lên tôi mới lên được mặt đường. Cái sa hố đó làm tôi trầy hai đầu gối và rách mất cái quần nâu mới tinh.
Rồi định mệnh của cả dân tộc chúng lạ đau thương đưa đẩy, dàn xếp cho vợ chồng tôi gặp nhau ở Sàigòn. Đó là năm 1954. Ngày ấy Hà Nội đã treo cờ đỏ, tôi không có điều kiện để đưa Alice về thăm Hà Nội cùng với tôi như tôi muốn. Thật ra ngày đó nếu chúng tôi thực sự muốn về Hà Nội nhất là nếu tiên đoán biết rằng cuộc chia xẻ sẽ kéo dài tới hai mươi năm chúng tôi đã cùng nhau về thăm Hà Nội. Về thăm rồi lại vào Nam, vì ngày đó Hải Phòng vẫn còn chưa mất. Năm đó chỉ có một mình tôi về thăm Hà Nội.
Thế rồi trong suốt hai mươi năm dài kể từ 1954 từ ngày chúng tôi gặp nhau, chúng tôi yêu nhau, tôi vẫn mang một giấc mơ: một ngày nào đó mang vợ con tôi trở về thăm Hà Nội, nơi tôi đã sống những ngày niên thiếu, về thăm Hà Đông, thành phố nhỏ bé, hiền lành, tĩnh mịch ven dòng Nhuệ Giang nơi tôi đã sống những ngày thơ ấu. Tôi vẫn mơ một ngày đưa các con tôi về thăm quê nội, quê ngoại chúng. Cũng như không biết bao nhiêu là đứa trẻ ra đời từ những cặp vợ chồng Bắc Việt di cư, các con tôi không biết thế nào là quê nội, quê ngoại, không có quê nội, quê ngoại.
Tôi vẫn mơ được nói với những người tôi yêu thương những lời: « Đây là con đường năm xưa anh đã đi. Đây là ngôi trường cũ năm xưa anh đã học » – « Đây là nhà ông nội, bà nội. Bố ra đời trong căn nhà này. Năm bố còn nhỏ, chỗ này ông nội trồng cây ổi Tầu. Trái ngon lắm mùa hè là mùa ổi, bố cả ngày ở trên cây. Ổi muốn cho ngon thì không được trèo leo nhiều, ông nội cấm bố không được trèo cây nhưng bố cứ trèo kịch liệt. Chỉ lúc nào ông ở nhà, bố mới ngán chút xíu mà thôi… »
Nhưng chiến tranh kéo dài, kéo dài, kéo dài. Vẫn biết là không có gì có thể dài lâu được mãi mãi nhưng nếu chẳng may có một cái gì đó kéo dài quá dự tính và ước muốn của chúng ta, ngược lại sự ước mơ của ta, ta thất vọng và cho rằng tình trạng đó cứ như thế mãi không bao giờ ngưng hết, không bao giờ thay đổi. Như kẻ lâm vào cảnh khổ kéo dài quá lâu nghĩ và tin rằng đời mình sẽ không còn bao giờ được sung sướng tôi đã, trong những năm cuối của chiến tranh, nghĩ rằng tôi sẽ chẳng bao giờ thực hiện được giấc mộng rất thường: đưa vợ con về thăm Hà Nội.
Nhưng chiến tranh, như cuộc đời, như những công trình, như thù hận, những uy quyền, những danh vọng, những sản nghiệp ở cõi đời này không thể nào tồn tại được mãi. Chiến tranh cũng như tất cả mọi thứ, đều có ngày phải tàn… Buổi sáng mùa xuân này, sau bao nhiêu trận chém giết nhau, sau không biết là bao nhiêu viên đạn bay ra khỏi nòng súng, bao nhiêu là mảnh sắt thép ghim vào da thịt đồng bào tôi, sau không biết bao nhiêu là giọt máu hồng và từng ấy giọt nước mắt rỏ xuống mặt đất quê hương tôi, chiến tranh đã chấm dứt. Mùa xuân này, tôi trở về đây cùng với vợ con tôi, tôi đang đi trong lòng Hà Nội mưa bụi, tôi đang đi trên phố Hàng Đào, Hàng Ngang, sau lưng tôi là chợ Đồng Xuân và trước mặt tôi là Hồ Hoàn Kiếm.
– Đây là sông hay là cái gì mà nhiều nước vậy bố?
– Những cái cây này lạ quá hả bố? Lá nó nhỏ mà nó cứ rủ xuống nước nầy bố.
– Ngoài kia có cái chùa, phải không bố?
– Đẹp quá, mình ơi…
– Bố đố vui để học các con một câu rồi bố kể một chuyện cổ tích về cái hồ này cho các con nghe nhá … Lịch sử nước ta có ông vua nào nổi tiếng họ Lê? Các con nhớ không nào?
– Dễ ợt, bố. Vua Lê Lợi khởi nghĩa ở Lam Sơn, đánh đuổi quân Tàu giành lại quyền độc lập, lập lên nhà Hậu Lê.
– Khi thắng trận rồi, Vua Lê đóng đô ở đâu nào?
– Vua Lê đóng đô ở thành Thăng Long.
– Đúng. Kiều Giang được 5 điểm. Thế các con có biết thành Thăng Long bây giờ ở đâu không?
– ….?
– Các con đang đứng trên thành Thăng Long đó. Ngày xưa, sau khi đã chiến thắng, Vua Lê đóng đô ở đây. Trước đó, khi mới khởi nghĩa, Vua được Thần dâng một cây kiếm báu…
– Con nhớ chuyện đó rồi. Con có học chuyện đó ở trường. Vua được Thần cho thanh kiếm báu để dẹp giặc. Sau đó khi đã làm vua, một hôm vua đi thuyền chơi trên hồ, thấy một con rùa lớn nổi lên bên thuyền. Vua cầm cây kiếm đó đuổi nó thì nó ngoạm lấy mà lặn đi mất. Vua nhớ lại việc cũ và biết rằng vị Thần ngày xưa sai rùa tới lấy lại cây kiếm nên đặt tên hồ là Hồ Hoàn Kiếm. Phải vậy không bố?
– Con kể đúng. Hoàn Kiếm là hồ này. Ở giữa hồ kia là cái Tháp. Nó có hai tên gọi, một là Tháp Rùa, hai là Tháp Bút vì nó trông như cái bút. Giống cái bút lông ngày xưa kia chứ không phải giống bút máy bây giờ đâu. Còn kia mới là chùa… ấy không phải chùa, bố cũng quên, kia là đền. Đền Ngọc Sơn. Cái cầu đó là cầu Thê Húc. Bố có cái hình chụp hồi bố còn nhỏ đứng trên cái cầu. Cái hình bố đội mũ nồi mà các con vẫn coi và chê trông bố cù lần đó…Đi vòng quanh hồ lại đó đi các con…Năm bố chụp cái hình mà các con chê là cù lần đó, bố hãy còn đi học. Bà nội mua cho bố cái xe đạp đầm, đáng lẽ phải đi học thì bố cho cặp lên xe, đạp xe đi chơi, đi coi xi-nê, đi ra đây ngồi câu cá…
– Bố ngồi câu ở chỗ nào hả bố?
– Ở mấy gốc câỵ… Những gốc cây đó… Mùa đông trời rét không có ai ra đây câu nhưng mùa hè hay mùa thu thì nhiều người câu lắm.
– Bố có câu được nhiều cá không bố?
– Ít lắm! Câu nghịch mà con… có giật được thì cũng là mấy con tép…
– Cây này phải cây liễu không, bố?
– Liễu đây. Người ta thường nói liễu rũ. Các con có thấy lá nó cứ rũ xuống không?
– Bố coi này… hai tay áo len của con trông đẹp không?
– Áo con cùng có này…
– Áo ai cũng có hết… Mưa bụi nó như thế đó. Mưa bụi đọng nước lại trên áo, mưa không đủ làm mình ướt áo, nó chỉ đọng lại được những hạt trắng trắng…
– Áo nhung của mẹ đẹp nhất. Hai tay áo mẹ có kim cương nè, bao nhiêu là kim cương…
– Cái này mà là kim cương hả?
– Ấy…em đừng xoa đi. Để cho đẹp… Chẳng là kim cương thì là gì? Nó còn quý hơn kim cương nữa…ở Saigon. Em có tiền, em có thể mua được kim cương nhưng có bao nhiêu tiền em cũng chẳng thể mua được những hạt mưa này ở Saigon để trang điểm áo nhung của em..
– Bố con nhà mày văn sĩ có khác. Con gái mới một tí tuổi đã văn hoa rồi…
– Con tập nói văn hoa quen đề lớn lên, con viết tiểu thuyết nối nghiệp bố chứ mẹ?
Bố mẹ các con tôi nhìn nhau. Tôi thấy Alice mĩm cười và tôi mĩm cười. Tôi nhìn thấy tôi cười trong đôi mắt của nàng. Những người yêu nhau có thể nói với nhau bằng mắt. Chúng tôi yêu nhau nên chúng tôi nói bằng mắt với nhau.,.
Anh yêu em… Anh vẫn nói với em là anh muốn có một ngày đưa em về đây, đưa em tới những nơi ngày xưa anh đã sống. Cuộc đời chúng mình quá đẹp. Không ngờ bây giờ giấc mơ của anh thành sự thực. Anh đang đứng với em ở giữa lòng Hà Nội, ở bên Hồ Hoàn Kiếm. Em có thích không em. Em có sung sướng không em? Chúng ta yêu nhau hai mươi năm rồi… Hai mươi năm… Hai mươi năm…
– «Hai mươi năm? Hai mươi năm con số ấy đối với chúng ta, như là một cái gì không có nghĩa. Em thấy không? Vì chúng ta yêu nhau. Anh vẫn yêu em như ngày đầu chúng ta gặp nhau, như ngày đầu chúng ta yêu nhau. Tình Yêu còn nguyên vẹn đó, như là chúng là mới yêu nhau từ ngày hôm qua… Vậy thì làm gì có hai mươi năm đã trôi qua từ ngày chúng ta yêu nhau? Không. Anh nói thế không rõ, nói thế không được. Không có hai mươi năm đi qua tình yêu của chúng ta nhưng thực sự đã có hai mươi năm đi qua cuộc đời của chúng ta. Bằng cớ sờ mó được là bên chúng ta đã có thêm những ba đứa trẻ con. Em cũng đã già đi nhiều.
Em, có trẻ lâu và trẻ hơn nhiều người đàn bà khác nhưng em cũng có già đi. Vì mỗi sáng khi trở dậy, mỗi buổi tối khi nhắm mắt ngủ, anh nhìn gần nét mặt em – anh nhìn thấy em cả những lúc chúng ta xa nhau, anh thấy em cả trong khi anh ngủ – nên anh không thấy em già đi bao nhiêu, nhưng quả thực là chúng ta có già đi trong khi tình yêu của chúng ta vẫn còn trẻ mãi. Anh tin rằng không phải chỉ riêng tình yêu của chúng ta mới có hiện tượng ấy. Tình yêu của tất cả mọi người cũng thế, cũng trẻ mãi không già. Bản chất của Tình yêu là như thế. Tình yêu vì thế trở nên vô cùng cao quý.
Tất cả những cái gì sống đều phải chết. Riêng TÌNH YÊU thì không. Tình yêu chỉ mỗi ngày một lớn mạnh, một giầu nhiều hơn. Tình yêu không hao mòn theo thời gian. Kỳ diệu không em. Nhưng đó là sự thật. Anh và em đã thực nghiệm thấy Tình Yêu như thế với chính Tình Yêu của chúng ta. Tuổi trẻ của Tình Yêu hai ta vẫn còn nguyên đó nhưng tại sao Tuổi Trẻ của chính chúng ta lại không còn mãi? Tại sao anh và em lại già? Tại sao? Tại sao? Em có biết không, em?
– Tên họ ông nội là gì nào, Hải Triều.
– Con biết…
– Con lớn thì tự nhiên con phải biết, phải nhớ rồi. Để em Triều nó nói trước đã. Em nói sai thì con nói…
– Ông nội tên là Dương Hoàng Giản
– Quê nội con ở đâu?
– Ở làng Linh Quy, tổng Kim Sơn, Phủ Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh…
– Quê ngoại con ở làng Tám, tức là làng Hành Thiện, tỉnh Hà Đông.
– Đúng rồi. Thế quê ngoại con là quê ai nào?
– Quê ngoại con là quê… bà nội…
– Không phải rồi… Không được cười em.. Em còn nhỏ, em nó nhớ thế là giỏi rồi. Ngày hai con bằng tuổi em, chưa chắc hai con đã nhớ được bằng nó. Quê ngoại của bố mới là quê bà nội chứ…
– Quê ngoại của con là quê… của mẹ…
– Đúng rồi. Có gì rắc rối đâu. Này nhé… ông nội con là người làng Linh Quy, tục gọi là làng Vui. Có khi còn gọi là làng Bụi, ở ven sông Đuống. Ông nội là cụ Dương Hoàng Giản, làm Thông Phán Tòa Tổng Đốc Hà Đông. Bà nội các con là bà Nghiêm Thị Lượng, con gái của Đốc Phủ Nghiêm Duy Ninh, ở làng Hòa Xá, phủ Vân Đình, tỉnh Hà Đông. Bố ra đời ở thành phố này.
Trước kia ông nội làm nhà ở đây, nhà hai tầng có vườn cây. Đẹp và rộng lắm. Đến 1946, đánh nhau với Pháp nhà ông nội bị phá đi. Phá sạch bao nhiêu đồ cổ của ông nội chôn ngoài vườn này, bố còn nhớ đúng là chôn chỗ gốc cây nhãn kia kìa. Hôm anh xe đào hố để chôn, bố có đứng coi. Ông nội xưa có mua nhiều đồ cổ lắm. Ông nội thích chơi lan và đồ cổ.
– Đồ cổ là gì hả bố?
– Là những bát dĩa, lọ cổ làm từ ngày xửa ngày xưa ở bên Tàu. Đồ cổ càng lâu đời càng quý càng đắt tiền… Họ Dương nhà ta ở làng Bụi, bét lắm. Nghĩa là kém lắm, chẳng có ai nổi tiếng, trừ bác Dương Đức Hiền là có chút ít tiếng tăm. Bác Dương Đức Hiền là anh của bố. Các con phải gọi bằng bác. Các con nguyên là họ Dương. Họ Hoàng của bố và các con chỉ là họ rởm. Tức là họ giả. Để rồi bố sẽ làm lại tất cả khai sanh cho các con.
– Tại sao bố đang là họ Dương là thành họ Hoàng hả bố?
– Năm 1954… năm ấy nước mình mới chia đôi, bố mẹ chưa đẻ các con, bố từ Saigon về chơi Hà Nội. Bố về chơi một mình không có mẹ các con đi theo. Khi trở vào Saigon, bố cùng đi với người di cư thấy được khai lại giấy, bố nghịch chơi mới bỏ thẻ cũ đi lấy thẻ mới toanh với cái tên mới. Không ngờ về sau bố cứ phải giữ mãi cái thẻ giả đó và cái họ Hoàng…
– Ngày đó bố đổi tên, ông nội có mắng bố không?
– Không, ông nội cưng bố lắm. Bà nội cũng cưng bố nữa. Cũng như bây giờ bố mẹ cưng các con vậy. Mai sau khi các con lớn khôn các con có con, các con cũng cưng con các con như thế. Các con của các con rồi chúng nó cũng sẽ có con, chúng nó cũng sẽ lại cưng chiều, yêu con chúng nó như thế. Cứ thế mãi, không hao giờ họ Dương của chúng mình hết tình yêu cả..
– …..
-… Ngày xưa, ông nội thích chơi đồ cổ nhưng cũng có thú bắn chim bằng súng săn. Bố thường đi theo ông nội đi bắn. Đi xa thì đi xe nhà. Không phải xe ô-tô đâu. Xe nhà của ông nội ngày xưa là xe kéo. Xe tay do người kéo, các con không biết xe kéo vì ngày các con ra đời, nước mình đã hết xe kéo rồi. Xe tay do người kéo như ở bên Hồng Kông hãy còn đó… Ông nội ngày xưa cũng có xe kéo như thế nhưng mua riêng thì gọi là xe nhà. Thỉnh thoảng ông nội đi bộ chơi ở cánh đồng ngoài kia. Nếu nhà mình mà còn, bố sẽ đưa các con lên ban công trên kia, nhìn ra cánh đồng có con đường bố vẫn đi theo ông nội ngày bố còn nhỏ, nhỏ như Triều bây giờ vậy…Năm nhà ta bị phá người ta lúc đó gọi là tiêu thổ, bố mới có mười lăm tuổi
★
Thầy ơi. Thưa… Thưa… Thầy… Trên con đường đất quê xưa này, hai mươi nhăm năm về trước, thầy đã nhiều lần dắt con đi chơi. Những buổi chiều xuân xưa trời cũng mưa bụi lất phất bay và cũng đẹp như buổi chiều xuân hôm nay. Hôm nay, hơn hai mươi năm sau ngày thầy đi trên con đường này, con một mình trở lại đây, chân con lại bước trên những vết chân xưa cũ của Thầy như chân con năm xưa đã bước. Chiều nay con cho các cháu ở nhà. Vì con muốn một mình con đi lại con đường này với thầy. Buổi chiều này là của riêng hai cha con ta. Dù các cháu có là máu huyết của thầy con cũng không muốn có chúng nó đi theo thầy. Chỉ có mình con được đi theo thầy chiều nay trên con đường quê đất đỏ mịn này thôi.
Vì chiều nay con muốn, con vẫn là đứa con nhỏ được thầy mẹ nuông chiều hơn hai mươi năm về trước. Thầy ạ, có lần con nghe thầy nói: với cha mẹ yêu thương con, đứa con dù 30 tuổi vẫn còn nhỏ dại như ngày nó lên mười tuổi, đúng quá hả thầy? Con nhớ khi thầy còn, năm con đã ba mươi nhăm tuổi, con đã sinh thằng Triều rồi, con bị đau thầy vẫn đưa con đi bác sĩ Mậu. Tới bệnh viện thầy vẫn kể bệnh con với bác sĩ y hệt ngày con nhỏ dại. Nhưng, thưa thầy, ở đời cũng có những đứa con mặc dầu đã ba bốn mươi tuổi nhưng đối với bố mẹ vẫn còn muốn là đứa con nhỏ bé được nuông chiều như ngày nó còn bé. Con là một đứa con như thế. Vì vậy chiều nay con mới muốn được một mình đi theo thầy trên con đường này.
Hơn hai mươi nhăm năm đã qua, cả ngàn buổi chiều xuân đã tắt trên cánh đồng này, cả ngàn triệu hạt mưa xuân đã rơi trên những luống cầy này, người ta và năm tháng đã làm cho cảnh vật ở đây thay đổi đi khá nhiều nhưng con vẫn còn tìm được nhiều điểm giống với cánh đồng làng Đơ và con đường mà ngày xưa cha con ta đã đi. Đi tới đoạn đường này ta nhìn thấy Chợ Đơ. Chỗ này ngày đó có một cái nhà gạch dùng làm nơi chứa xương bò, xương trâu để làm phân bón. Thầy có nhớ không ạ? Đây là cái chuôm năm xưa con lén ra tắm bị thầy biết ra tóm cổ về đét cho mấy cái roi mây đau quắn đít… Mộ của mẹ già con trước kia để ở khúc này…
Con không còn thấy ngôi mộ xưa nữa. Người ta đã mang tất cả những quan quách ở đây đi nơi khác, nói là để dành đất sản xuất. Bây giờ cánh đồng phẳng lì những bờ ruộng ngoằn ngoèo chia cánh đồng thành từng ô như bàn cờ không còn nữa. Thầy chắc không thích cảnh đồng đều này. Từ những ngày đầu khi lá cờ đỏ xuất hiện, thầy đã không ưa họ. Ngày đó con mới lớn con bị mê hoặc vì những danh từ đẹp: độc lập, yêu nước, chống xâm lăng, kháng chiến.. Con đã bất mãn vì thái độ của thầy. Ngày đó con nghĩ rằng thầy lạc hậu hủ hóa, phản động nữa., và có một chuyện con làm thời đó mà thầy không hề biết «không hề ngờ».
Đó là việc cán bộ ở thị xã đưa con vào một tổ chức có cái tên đẹp là Tình Báo nhưng thực sự là làm việc mật thám, một bọn mật thám trẻ con rình rập những cử chỉ, những lời nói của bố mẹ để đem tới báo cáo trong những cuộc hội họp. Con và một số các bạn con đều là những thiếu niên mười lăm, mười sáu tuổi, bọn con còn biết ai khác, ngoài bố mẹ để dò xét. Họ tổ chức bọn con thành mật thám cũng chỉ là để bọn con cho họ biết những hành động, ý nghĩ của người trong gia đình bọn con thôi. Con đã nghe lén những cuộc nói chuyện của thầy với các ông bạn thầy để đem lại kể cho họ nghe. May sao chiến tranh tới làm cho cái tổ chức ma bùn đó tan đi. Nếu không con sợ việc làm dại dột, ngu si của con hồi đó đã có hậu quả xấu. Bây giờ mỗi khi nghe nói đến chuyện họ tổ chức cho con cái theo dõi cha mẹ, con đấu tố cha mẹ công khai, con tin ngay chuyện đó có. Trẻ con ngu dại không biết gì, cha mẹ vẫn yêu thương con dù con có ngu dại, cố làm hại mình, nhưng cha mẹ vẫn đau đớn khi nhìn thấy mình mất con chứ. Nói dại như bây giờ bọn thằng Nguyên, thằng Triều chúng nó không yêu con, không tin con là cha chúng nó bằng tin bọn cán bộ – bất cứ là cán bộ nào – con không biết là con sẽ đau đớn đến là chừng nào.
Con đường này chiều xuân xưa cha con ta đã đi… Năm ấy con mười hai mười hai, mười ba tuổi, con bằng thằng Nguyên bây giờ. Con còn nhớ lắm. Mùa xuân cánh đồng làng Đơ hai bên đường trồng toàn rau, đậu. Những cành lá xanh nõn vùng trời không hạt bụi. Đang đi thầy bỗng hỏi con mai lớn lên con làm gì? Ý thầy muốn con trả lời con muốn mai sau làm tri phủ, tri huyện, làm Tổng Đốc như ông Hồ Đắc Điềm hoặc làm bác sĩ, kỹ sư. Nếu con trả lời như thế chắc thầy vui lắm. Nhưng con lại phăng phăng nói rằng mai sau con muốn làm nhạc sĩ. Kể thì cũng lạ, sinh trưởng trong một gia đình công chức khuôn phép, con lại nẩy ra ước muốn làm nghệ sĩ.
Ông ngoại con hay chữ, làm thơ hay, mẹ con cũng thích thơ phú, chắc con chịu ảnh hưởng bên ngoại. Con thấy quê ta, làng Bụi, làng nhỏ, ruộng nghèo ao tù, nước giếng không lấy gì làm trong lắm, đa số con gái làng mắt toét, chẳng có gì đẹp đẽ có thể sanh ra nghệ sĩ. Nếu có, chỉ là thứ nghệ sĩ dở hơi, tài ít, nghệ sĩ làng bụi như con nếu phải sống một cuộc đời nghệ sĩ bụi bậm, vất vả, đói rách, là đúng quá rồi còn gì. Chắc thầy cho ý muốn đó của con là một ý muốn con nít, chưa chín mùi, nên thầy dịu dàng bảo con nghề đàn hát không nuôi nổi người, đàn hát không phải là một nghề, đó chỉ là một thú vui chơi, con cần phải chịu khó học, thi đỗ, đi làm lấy tiền nuôi thân và vợ con. Con có thể chơi đàn nhưng không thể kiếm tiền với đàn hát.
Quan niệm của thầy về nghệ sĩ và nghề nghiệp đúng với thời đó, nó không đúng với thời con trưởng thành. Nhưng chiều nay, cha con ta đi trở lại con đường năm xưa không phải là để xác định lại quan niệm của ta về nghề ngỗng.
Thầy muốn con làm công chức nhưng con đã không làm được công chức rồi. Con muốn trở thành nhạc sĩ nhưng con đã không thành nhạc sĩ… Cuộc đời con đã được an bài. Chiến tranh đã tới trên quê hương ta hơn hai mươi năm. Con đã tham dự cuộc chiến tranh đó ở cả hai phía và con đã sống sót. Thầy chỉ mong được sống những ngày cuối ở quê ta và thầy đã phảí nằm lại bên những người xa lạ trong một nghĩa trang lạ gần thành phố Saigon. Con không thể mang tất cả hài cốt của thầy về quê ta như thầy muốn, như con muốn… Con đành làm như thế này vậy …
Ngày mai con sẽ cho vợ con các cháu trở về làng Bụi. Trong hành trang con có một cái bọc gói kỹ. Trong bọc đó là khăn áo của thầy, có cả đôi giầy tây thầy vẫn đi và cái đồng hồ quả quýt của thầy nữa. Ngày mai con sẽ đem chôn khăn áo của thầy ở cánh đồng làng, bên cạnh mộ ông con. Con sẽ thắp hương và con sẽ khóc. Con tin rằng thầy sẽ bằng lòng dù bây giờ âm dương cách trở, thầy không thể cho con biết là con phải làm gì. Thầy suốt đời sống không bao giờ đòi hỏi gì cho bản thân, không cả những đòi hỏi hợp lý như là đời chúng con phải yêu thương, vẫn khuyên chúng con không nên đòi hỏi nhiều trong khi đất nước chiến tranh. Thầy vẫn khuyên con nên sống thanh đạm và hài lòng, vui vẻ với những cái gì mình có. Rất có thể là thầy đã về quê ta từ lâu rồi, nhưng con vẫn đem khăn áo và hơi hướng của thầy về chôn trong lòng đất quê hương. Cũng có thể là con làm việc đó cho lòng con êm ả nhiều hơn là lòng thầy êm ả.
★
Em yêu, hai mươi nhăm năm rồi anh mới lại được nằm ngủ trong lòng Hà Nội, trong một căn nhà Hà Nội. Đêm vẫn có trăng sao và đêm vẫn không có mặt trời, đêm vẫn yên lặng và đêm vẫn hiếu hòa. Loài người chiến tranh nhưng trời đất đêm ngày không có chiến tranh. Dù chúng ta tàn ác chém giết nhau trong hai mươi năm qua, đêm vẫn tới và ngày mai mặt trời vẫn trở lại. Và đêm tới em vẫn ngủ, các con chúng ta vẫn ngủ. Chỉ mình anh thao thức. Anh không ngủ được vì anh đang sung sướng chứ không phải vì anh lo sợ hay đau đớn. Vì anh đã phải xa Hà Nội trong bao nhiêu năm, đêm này anh muốn thức sáng đêm Hà Nội.
Ngày anh đi khỏi Hà Nội, anh đi có một mình. Bây giờ trở về, anh mang theo em và các con. Anh trở về giàu có quá. Anh không mang tiền bạc về cho quê hương, anh mang về cho quê hương những ba công dân mà anh hy vọng, mà anh tin rằng sẽ là những người công dân tốt.
Con của bố, các con của bố… Mai sau các con đừng làm gì hại cho quê hương nhé. Nếu các con chẳng làm được gì lợi cho quê hương, thì cũng chẳng sao, chỉ cần các con đừng làm hại. Quê hương vẫn yêu thương các con như bố mẹ yêu thương các con, quê hương không đòi hỏi các con phải làm lợi cho quê hương cũng như bố mẹ không bao giờ đòi các con phải phụng dưỡng. Chỉ cần các con đừng làm hại quê hương, đừng chối bỏ quê hương để nhìn nhận và phụng sự một quê hương khác. Các con hãy cố tưởng tượng xem nếu mai sau các con trưởng thành, các con có những đứa con kháu khỉnh, thông minh mà các con hết lòng yêu mến, nếu chúng chối bỏ các con để nhận người khác làm bố mẹ, nếu chúng chỉ mặt các con, chửi mắng các con, các con sẽ đau đớn biết là chừng nào. Quê hương cũng đau đớn như thế nếu các con làm như thế.
Nhưng bố lẩm cẩm mất rồi, bố quá lo xa phải không Triều, Nguyên, Giang? Các con nhớ nhé: tên các con đều có «nước» ở bên trong. Viết tên chúng ta thành chữ Hán, mỗi tên đều có mang chấm «thủy». Ông nội là suối, bố là biển. Nguyên là nguồn, Giang là sông, Triều là sóng, mẹ con là nước. Bố là biển, nếu bố không có mẹ đời bố sẽ khô khan như biển không có nước, mà cũng chỉ có biển mới có thể chứa hết nước của trời đất. Chỉ có tình yêu của bố mới có thể đủ cho tình yêu của mẹ các con. Bố tin rằng các con sống được nhờ có nước, các con sẽ chẳng bao giờ quên nước, còn chuyện các con sẽ làm gì cho nước, đó là chuyện mai sau của riêng các con.
Em yêu, đêm nay nhìn các con say ngủ, anh đã hiểu tại sao tuổi trẻ của tình yêu lại không bao giờ mất, mà tuổi trẻ của chính đôi ta thì mất. Anh đã hiểu, vì anh đã thấy … Tuổi trẻ của chúng ta đi đâu? Em đã thấy chưa? Em hãy nhìn con chúng ta… Tuổi trẻ của đôi ta đấy…
★
Em và các con yêu dấu,
«Anh viết truyện này với tất cả tình yêu của anh, tình yêu Hà Đông những-ngày-anh-mới-lớn, cũng như sau này anh sẽ viết về em, về các con, về tình yêu của anh với em, về tình yêu của anh với các con. Nếu trên đời này có một người nào yêu mến thành phố cũ của mình đến độ làm ngạc nhiên người khác, anh cũng yêu Hà Đông như thế. Nếu em thấy một người chồng nào yêu vợ, nếu các con thấy một người bố nào yêu con đến cái độ làm cho em, cho các con ngạc nhiên, em và các con có quyền nghĩ rằng em đã được yêu, các con đã được yêu, như thế».
Sàigòn, 1967
Hoàng Hải Thủy