← Quay lại trang sách

Mười

Làng Bụi nhỏ, nghèo, nhưng dân làng, nhất là các cụ trong dân, cũng xôi thịt và hay ủng-ẳng nhau không kém gì dân quê của một triệu làng khác ở Bắc Việt. Được cái họ Dương tôi lớn nhất làng. Có lẽ đến hai phần ba tổng số dân làng Bụi là người họ Dương, các ông bác, ông chú, các anh tôi chia nhau giữ hết các chức vị kỳ mục, kỳ “nát” trong làng cho nên anh em tôi về làng được trọng nể ra gì. Vậy mà cũng có một vài chuyện lẩm cẩm như bố tôi ngày thi đỗ không chịu cho làng ăn khao. Bố tôi bận y phục đàn ông Việt Nam thế kỷ trước – áo dài, khăn xếp – bảo thủ tôn ti trật tự một cây, nhưng ông lại không ưa những trò cúng bái và chè chén ở chốn hương đảng – làm bà nội tôi rầu rĩ vì dân làng nói – «không có khao, làng không biết…vv». Lại còn một ông chú của bố tôi làm nghề phù thủy, vì đói cho nên ông đi rước hồn ma về làng con ma nó phá làng, phá xóm, để dân làng phải nhờ đến ông cúng, ông trị ma, ông mới có việc làm, có gà, có rượu để «đớp». Theo lời bố tôi kể lại, ông phù thủy ấy rước về làng hai hồn ma. Hai hồn ma này vẫn là 2 chị em, chết vào một giờ thiêng ở đâu đó, được rước về ngự ở Cây Đa đầu làng.

Những làng quê Bắc Việt đa số đều có cây đa và cây nào cũng ở ngoài làng, hoặc ở đầu làng, hoặc ở cuối làng – và cây nào cũng lớn, cũng um tùm cành rễ, và gần như cây đa nào cũng có ma. Hàng trăm cái bình vôi được mang bỏ ở gốc cây đa. Đêm mùa đông trời vừa rét, vừa tối đen, vừa mưa bay, lò mò đi qua đấy sợ đến rủn tỉ, tóc gáy và lông lá trong người có bao nhiêu cái đứng dựng hết cả lên. Bố tôi nói rằng hai hồn ma được đem về cây đa làng tôi là hai chị em. Dân làng tôn kính gọi là Hai Cô Kiều.

Bố tôi không tin có ma quỷ, ông rất ghét lễ bái, cầu cúng vớ vẩn. Ông ghét nhất là trò đàn bà lên đồng. Ông vẫn nói bằng một giọng quả quyết với anh em tôi rằng đời này không có ma, ai nói ma mãnh là láo. Nhưng ông cũng nói những câu mơ hồ chứng thực sự hiện diện của ma mãnh ở trên cõi đời này như người ta không sợ gì hết, ma nó phải sợ người chớ người việc gì mà sợ ma. Cho đến ngày gia đình tôi tản cư về quê, em gái tôi, mẹ tôi bị ma làm.

Ông nội tôi ra làm việc dưới trướng Quận Công Hoàng Cao Khải. Cụ Quận có thời ngồi trị nhậm hạt Kinh Bắc, tức là hai tỉnh Bắc Ninh, Bắc Giang, nơi về sau này có Trung Đoàn Bắc Bắc, khá nổi tiếng trong số những trung đoàn đánh Pháp ở Bắc Việt. Gia Lâm là một phủ của tỉnh Bắc Ninh, cho nên thời ấy, ông tôi hách lắm.

Đám hương lý họ Dương về làng «oai dũng» mở cuộc phản công dân họ Lê. Lại bắt bớ, lại đánh đập, bây giờ đến lượt đàn ông họ Lê trốn chui, trốn nhủi nhục nhã – Ông họ Lê – bồi Tây – thấy rằng mình nhờ thế lực Quan Tây không xong, đành phải cầu hòa.

Ông nội tôi về làng. Ông họ Lê đến nhà ông tôi, mở cuộc thăm xã giao «lãnh tụ Họ Dương» để xin lỗi và điều đình «sống chung hòa bình». Ông tôi cũng tiếp đãi ông họ Lê đàng hoàng, cũng mời ngồi uống nước, nhưng ông cụ đã định sẵn mấy câu chửi độc.

Ông cụ lôi anh con trai – người sau này sanh ra tôi – ra chửi trước mặt khách. Lý do: anh con của cụ bận áo xắn cổ tay áo trông có vẻ «bồi bếp».

– Đồ khốn nạn… Mày có đi làm đầy tớ cho Tây đâu mà mày ăn bận bồi bếp như vậy hả?? những thằng bồi bếp… khốn nạn cút đi nơi khác, đừng ở đây bẩn mắt tao… Tao không muốn nhìn mặt những thằng bồi bếp hạng mày… Nghe chưa!!

Buổi hội kiến giữa ông «lãnh tụ Họ Lê » với ông «lãnh tụ Họ Dương » lẽ tất nhiên là có nhiều quan viên hai họ đi theo, chứng kiến.

Ông Họ Lê nghe chửi xám mặt lại. Ông cáo từ ra về. Biết là không thể ở làng được, ông ta bỏ làng đi luôn. Ông đem gia đình vào Nam Kỳ lập nghiệp. Các con ông về sau trở thành kỹ sư, bác sĩ. Họ vào dân Tây. Một ông kỹ sư họ Lê đã nổi tiếng ở Saigon một thời vì làm gián điệp do thám cho Đồng Minh và bị Quân Nhật bắt với máy truyền tin cho Đồng Minh dấu trong nhà riêng.

Họ Lê xuất phát từ làng Bụi đó trung thành với Tây. Họ không còn là người Việt Nam nữa, và họ đã dám chết cho sự trung thành của họ. Ít ra, đó cũng là những người trung thành trong khoảng thời gian 20 năm qua.

Làng Bụi mất họ Lê từ đó.

Mùa Xuân về đồng quê miền Bắc nơi nào cũng đẹp. Kể cả quê tôi, nơi không có một danh lam, thắng cảnh nào đáng để tự hào. Miền Bắc đẹp hơn hai miền ở điểm khí hậu có đủ bốn mùa Xuân. Hạ, Thu, Đông. Mùa Xuân có mưa bụi bay, trời lạnh nhưng dễ chịu, cái lạnh rét buốt của mùa Đông qua đi, nhường chỗ cho cái mát mẻ dễ chịu của mùa Xuân.

Những năm còn nhỏ tôi chỉ mỗi năm về quê nhiều lắm 2 lần. Lần nào cũng sáng về chiều lại lên xe ra Hà Nội để về Hà Đông. Không ngủ lại quê đêm nào.

Đến năm tôi 16 tuổi, một mùa hè, tôi về quê ở hai tháng.

Đó là thời Ngọc Diệp đã rời Hà Đông để ra Hà Nội học. Tôi buồn như một gã thất tình chính hiệu. Nàng chỉ ra Hà Nội học rồi lại về Hà Đông, gia đình nàng vẫn còn ở tỉnh, nhưng tôi quan trọng hóa chuyến đi của nàng. Tôi coi đó như một cuộc sinh ly, như Diệp làm một chuyến đi dài, lâu đến suốt đời tôi không còn bao giờ được gặp lại nàng.

Buổi chiều Ngọc Diệp ra Hà Nội, trời tỉnh nhỏ bỗng dưng u ám. Buồn như chưa bao giờ buồn thế. Tôi ra bến xe điện đưa tiễn nàng. Nàng bận áo nhung xanh nước biển, lên tầu với ông Đốc Phủ. Ông cụ đưa con gái đi, cây ba-toong xách theo, điếu thuốc giả bằng gỗ sơn trắng như cây bút chì ve vẩy trên tay. Tôi ngồi trên chiếc xe đạp ghếch «pê-đan» trên vỉa hè nhìn lên tàu. Một an ủi lớn, một hình ảnh không bao giờ phai tàn. Trong buổi chiều vàng vọt ấy, Nàng nhìn qua khung cửa sổ tầu xuống chỗ tôi, mĩm cười. Khi tầu chuyển bánh, tiếng chuông leng keng, nàng lén giơ tay vẫy tôi. Từ biệt.

Tôi phóng xe đạp đuổi theo tàu điện. Tầu điện ngày xưa chạy không lấy gì làm nhanh lắm.Tốc lực tối đa của tầu điện Hà Nội – Hà Đông chỉ đến 40 cây số một giờ là cùng. Lại có nhiều trạm dừng nên tôi vẫn đạp xe theo kịp.

Tầu ra đến Thanh Xuân – hai cây số, đã xa lắm rồi – tầu dừng. Người trên tầu điện bắt đầu để ý đến gã con trai phóng xe đạp như điên đuổi theo tầu. Chắc họ biết là gã con trai đó theo tiễn một người trên tầu…

Chiều đó, tôi phóng xe đạp theo tầu điện ra đến Ngã tư Sở. Tới đây, địa phận không còn là Hà Đông nữa. Chiêu Quân đã đi vào đất Đại Hàn. Huyền Trân đã tới biên giới Chiêm Thành. Người đuổi theo Tình yêu và Hạnh phúc dừng chân đạp «pê-đan», thẫn thờ nhìn theo chuyến xe chở Tình yêu và Hạnh phúc của mình đi xa dần, xa dần, rồi mất trên hai con đường sắt. Đường về thật buồn. Trời mùa Đông tối xuống thật nhanh. Lần đầu tiên trong đời, tôi cảm thấy yêu là khổ.

Như một chuyện tiền định, từ đó về sau, trong cuộc đời, tôi đã nhiều lần chạy theo, đuổi theo Tình yêu, nhưng nhiều lần, tôi bỏ cuộc dở chừng, nhiều lần tôi theo không kịp.

Từ buổi chiều buồn đó, trời Hà Đông chiều nào cũng buồn. Mùa Đông không đi bơi sông, không đi câu cá, không đi đá banh được, sân vận động gió thổi lạnh buốt ngực, vắng tanh suốt ngày.

Tôi thấy tôi không còn ham mê bất cứ một thú chơi gì. Trong những buổi chiều nằm một mình trên gác vắng, đắp chăn bông, mở cửa sổ nhưng đóng cửa kính, đọc tiểu thuyết tôi thấy đôi mắt Ngọc Diệp hiện rõ trên những trang sách. Tôi đang ở vào cái tuổi bắt đầu yêu đương, mơ mộng vẩn vơ, muốn làm chuyện ái tình yêu đương nhưng chưa dám, chưa có cơ hội. Đó là tuổi dậy thì của bọn con trai.

Con trai, khi đến số tuổi mười lăm, mười bẩy dậy thì, cơ thể thay đổi, cũng khó chịu hay bẳn gắt, dễ hờn giận, dễ làm thành to chuyện những chuyện không đâu không khác gì bọn con gái. Tôi cũng có nhiều lúc mơ mộng vẩn vơ như thằng mất hồn. Như quen chân tôi đi trở lại con đường vắng trước cửa nhà Ngọc Diệp, đi đến xóm Hoàng Hoa tâm trí mê loạn đến nỗi nhiều buổi chiều tôi yên trí là Ngọc Diệp vẫn còn ở nhà, nếu đi lại vài lần nữa tôi có thể may mắn được nhìn thấy nàng trong khung cửa sổ.

Phi cơ Đồng Minh đến ném bom đều đặn hơn. Chiến cuộc đi gần vào ngày tàn. Phi cơ của Quân đội Thiên Hoàng dường như không còn có mặt ở trên trời Bắc Việt. Có một năm về quê qua cầu Gia Lâm, vào buổi chiều, tôi nhìn lên khung trời trên phi trường Gia Lâm thấy phi cơ bay nhiều như lá tre. Đủ loại. Nhiều hơn cả trong xi-nê. Nhưng đến nay phi cơ Đồng Minh làm chủ vùng trời Bắc Việt. Phi trường Gia Lâm chỉ còn lơ thơ vài chiếc máy bay nhỏ đậu hiền lành sau những hàng rào dây thép gai. Vì những cuộc báo động liên tiếp, mọi ngành sinh hoạt gần như bị tê liệt hoàn toàn. Các trường lại đóng cửa. Tôi chờ đợi Ngọc Diệp trở về Hà Đông, đem mùa Xuân và ánh nắng trở về tỉnh lỵ và tâm hồn tôi.

Nhưng nàng không về. Mỗi buổi sáng, tôi đánh bạo đứng chờ U Già đi chợ, để hỏi thăm về nàng. U cho tôi biết nàng đã lên Sơn Tây, ở với bà chị nàng lấy chồng làm Bác sĩ ở tỉnh đó. Tôi thất vọng đến nỗi về nhà nằm liệt giường, lệt bệt như thằng ốm.

Ba ngày sau, chị tôi về quê thâu thóc, bán thóc gì đó, tôi theo chị về.

Về quê, nhờ thay đổi khung cảnh sống, nhờ được cả họ cưng chiều, tôi quên Ngọc Diệp và tôi yêu đời trở lại.

«Khung cảnh quen thuộc gợi cho con người nhớ nhung nhiều hơn tất cả. Mười hai năm sau khi trở về nơi anh và em đã gần nhau, buổi chiều khi chúng ta mới yêu nhau trong lòng nhưng chưa nói tình yêu ra bằng lời, chưa làm tình yêu, môi em chưa hé nở chờ đợi môi anh tìm đến, em ngồi trên tảng đá ven đường vòng núi Cấp nhìn ra xa khơi, biển xanh trong như mắt em anh tưởng như em vẫn còn ngồi đó và mười hai năm qua chỉ là một thoáng thời gian. Anh lại nghĩ tiếp ý nghĩ mà anh đã nghĩ về em buổi chiều mười hai năm trước đó. “Người đàn bà kia có tâm sự buồn, nếu mình có thể làm cho nàng vui”.»

Trông những phố vắng của tỉnh nhỏ Hà Đông tôi mơ tưởng hình ảnh Ngọc Diệp ở mỗi góc phố mỗi đầu đường. Vì đó là tỉnh của nàng, vì thật sự nàng có sống ở đó. Con đường này đã có gót chân nàng đi qua, mái tóc nàng đã được soi sáng dưới cột điện này. Hàng cây này đã được mắt nàng nhìn tới. Dù người thật bằng xương bằng thịt đã đi xa, vẫn còn bóng dáng thướt tha ở đó. Nhưng quê tôi chưa từng bao giờ có nàng. Những cây đa, sân đình, giếng khơi, những bờ ao, đường gạch này chưa từng bao giờ được có nàng. Vì vậy chúng không gợi cho tôi nhớ đến nàng. Tôi cũng không thể nào tưởng tượng được cảnh Ngọc Diệp sống trong làng quê này.

Dân làng tôi có một vài tiếng địa phương. Chẳng hạn như bọn con trai trong làng đều được gọi là Cò – Thằng Cò, Anh Cò. Thằng con trai nào chưa vợ trong làng cũng đều là Cò. Đến những giờ ăn cơm, tiếng các bà mẹ gọi con ơi ới ở các bờ ao: « Cò ơi… Cò…! ». Con trai lấy vợ sớm. Tảo hôn kịch liệt. Đến năm 1941-1942, tục tảo hôn vẫn còn mạnh trong làng tôi. Thằng Yên, thằng Lễ, hai thằng em con Chú tôi đều được lấy vợ từ những năm chúng mười tuổi. Vợ chúng nó toàn là con nhà làng bên. Nhà giàu lấy con gái nhà giầu, nhà nghèo lấy con nhà nghèo.

Làng tôi có vài cái tên đặc biệt. Ông Bác họ tôi tên là Bác Tún, hai chị gái tôi là chị Tũn, chị Tụn. Đây là tên thật, cam đoan không phải là tên phóng sự bịa đặt. Nhiều khi « la réalité dépasse la fiction», tên người thật ở cõi đời này có âm thanh phóng sự hơn cả phóng sự thời đại. Như ông bán thuốc lào ở đầu ngõ nhà tôi có cô con gái tên là Thỉu. Giữa trưa, đêm tối người làng đến mua thuốc lào lẻ, đứng chõ vào cái lỗ vuông bằng hai cục gạch trên tường, gọi ơi ới – « Thỉu ơi… bán thuốc…»

Ông Chú tôi tên là Ngạch. Hai con em gái tôi tên là cái Ngần, cái Ngại. Như mọi đứa con gái quê chưa chồng, Ngần xứng hợp với cái tên của nó quá. Tên nó hiền lành. Ngần cũng hiền lành. Tiếng Ngần gợi cho người ta nghĩ đến sự trắng: trắng ngần. Da cái Ngân cũng trắng như cái tên nó. Cái Ngại là em nó khác hẳn Ngần. Cũng ngại, ngại như cái tên Ngại của nó, cái Ngại người đen sắc, khô khan, chẳng có tí thịt, tí mỡ mát mẻ nào.

Cũng như hai con gái ông chú Buồm: cái Mơ, cái Mận. Mơ nó mặn mà, gợi cảm như một trái mơ. Cái Mận rắn chắc gợi ý chua chát như trái mận xanh.

Con gái làng tôi đẹp thì không đẹp lắm, nhưng cũng không đến nỗi nào quá xấu. Câu ca dao «Toét mắt là tại hướng đình. Cả làng toét mắt, một mình em đâu» không được dùng để giễu con gái làng Bụi. Gái làng cũng có đứa toét mắt như con gái cả ngàn làng quê khác ở Bắc Việt, những làng có những cái ao tù nông choèn, nước mùa cạn chỉ lên tới đầu gối, dân làng xuống bờ ao làm trăm thứ việc cần dùng đến nước: rửa mặt, giặt, vo gạo, rửa rau, rửa đít. Nhưng số con gái toét mắt ở làng Bụi không quá mười phần trăm.

Con gái trong miền quê tôi cũng không có làng nào đẹp trội. Sàn sàn bằng nhau cả. Làng nào giếng nước không trong, không có sông sâu, núi cao, ruộng đất không mầu mỡ, phong cảnh không đẹp, làm sao có thể nẩy sinh ra con gái đẹp.

Con gái họ Dương ở làng Bụi không đẹp, không xấu, như vì họ quá lớn, nên có nhiều người ế chồng.

Tôi đem về làng một cái Harmonica, Made in Japan, hiệu Caruso. Sau những cây kèn Butterfly còn sót lại, hiệu kèn Caruso của Nhật là kèn hách nhất. Và một cây sáo.

Thoạt đầu, cũng như tất cả những anh bé con tập thổi sáo ở cõi đời này, tôi thổi sáo dọc. Những âm thanh «tò loe» chướng tai, ngang phè phát ra từ ống sáo dọc thô bỉ ấy nghe không khác gì tiếng sáo những bác hoạn heo đi rong. Nhưng anh bé con nào bằng tuổi tôi cũng tập thổi sáo dọc, trước khi mò thổi được vài bài, quen với âm thanh và những cử động của ngón tay, để chuyển sang thổi sáo ngang.

Bọn thiếu niên tỉnh nhỏ, trước những năm 1945 tên nào biết chơi Harmonica và thổi sáo ngang đã là bảnh lắm. Đó là thời «Guitare hawaienne» đang được thanh niên Bắc Việt hâm mộ. Đàn đặt trên lòng, đúng là đàn nằm, năm ngón tay mang móng sắt, phừng phưng những tiếng đàn õng ẹo, nhõng nhẽo, nhủng nhẳng như tiếng mèo gào đực. Vậy mà được hoan nghinh. Có lẽ vì «Guitare hawaienne» dễ chơi, vì nó ồn ào, lèng xèng, chỉ cần học đến ba tháng là đã chơi được bài bản rổn rảng.

Tỉnh Hà Đông đúng là một tỉnh nhỏ điển hình của đồng bằng Bắc Việt. Nghĩa là cái gì cũng có, nhưng có tí ti thôi, không có cái gì nổi bật. Chẳng hạn như đội bóng tròn Hà Đông, có hai đội, đá giầy và đá chân đất. Đội đá giầy đá tạm được, nhưng chẳng lần nào được vào chung kết giải vô địch Bắc Kỳ. Về thi văn, Hà Đông có nữ thi sĩ Anh Thơ.

Nhà thơ đàn bà Anh Thơ có lẽ chỉ được coi là thi sĩ vì là đàn bà. Thơ của Anh Thơ có lẽ dở nhất thế giới. Cô ở một nhà trong làng Đơ. Bọn thanh niên lớn tuổi hơn tôi thường kháo với nhau rằng Nữ thi sĩ Anh Thơ ghẻ Tầu. Tôi không hiểu chuyện này đúng hay không. Tôi chỉ vài lần gặp cô Anh Thơ đi ngoài phố.

Về đàn, thanh niên Hà Đông chỉ có vài người chơi Violon. Còn đa số là «Guitare hawaienne». Người thường đánh đàn Banjo ào ào trong các cuộc «mét-tinh» ở vườn hoa trước Sở Cẩm Hà Đông là Phúc, biệt hiệu Phúc Bỏn hoặc Phúc Tí Bỏm. Người chơi nhạc được chú ý đến thứ hai là Trọng Khương, người về sau là tác giả những bài: Ghen, Bánh Xe Lãng Tử.

Bánh xe quay nhanh nhanh

Chiếc thân xe rung rinh

Chìm trong làn cát trắng…

Hình xe mờ khuất trong đêm thâu.

..........

Ta luyến lưu một kiếp giang hồ

Dù rằng đời có ơ thờ…

..........

Đêm nay đập vỡ cây đàn…

Giận đời nào ai mắt xanh…

Danh tài thổi Harmonica nổi tiếng nhất Bắc Việt hồi ấy là Le. Tôi nhớ anh một năm đôi kỳ đến trường tôi học thổi kèn cho học sinh nghe. Một mình anh trình diễn. Với cái cặp da trong có hai cây kèn. Anh hay thổi bài Buồn Tàn Thu : «Ai lướt đi ngoài sương gió… Không dừng chân đến em bẽ bàng…». Bài Biệt Ly: «Biệt ly nhớ nhung từ đây… Chiếc lá trôi theo heo may… Người về có hay…» Bài One Day… Bọn học trò nhỏ chúng tôi ngồi ngây, mắt nhìn như bị thôi miên miệng há hốc.

Tôi mê thổi Harmonica nguyên do một phần lớn là vì nghe Le thổi kèn. Phần nữa vì Harmonica dễ thổi, không cần ai dạy, chỉ có cây kèn thổi ti toe mãi cũng thành bài. Với Harmonica, khó là việc đập lưỡi để cho kèn phát ra những tiếng «phập phập». Hai mươi năm đã qua, cho đến hôm nay, tháng này, tôi vẫn còn nhớ nguyên hình ảnh Le thổi kèn.

Người anh hơi thấp. Da đen. Trán hình như có sẹo. Anh để tóc anh hơi quăn. Mái tóc đó chải Brillantine bóng loáng như váy lĩnh. Anh bận áo sơ mi trắng dài tay. Khi thổi kèn, anh xắn tay áo, dùng cả hai tay để nâng cây kèn và đưa đẩy cây kèn trên miệng. Như tất cả những người thổi kèn trên cõi đời này, môi Le dầy và đen, như môi Louis Armstrong. Anh đứng trên bục thầy giáo, trước bảng đen, người cúi xuống, lưng hơi gù, chân đập nhịp.

Những lần ngồi nhìn Le thổi kèn, tôi đã mơ hồ nhìn thấy sự thật đói rách của những nghệ sĩ trong bộ cánh sộp nhất của Le. Tôi đã linh cảm thấy rằng đời nghệ sĩ làm vui cho đời, phục vụ người, trong xã hội ta, không được đài thọ xứng đáng.

Ôi… những cây kèn harmonica đầu tiên trong đời. Khi tôi mê chơi kèn, những cây kèn Butterfly đã hiếm ở Hà Nội. Vì đường giao thông Âu Á bị cắt, hàng Pháp không sang được Đông Dương.Chỉ còn những cây kèn Butterfly cũ, rỉ, truyền tay nhau. Tôi phải thổi những cây kèn Harmonica Made in Japan. Kèn Nhật nặng đến nỗi mỗi lần thổi xong một bài, tôi mệt, hết hơi, mắt hoa, bủn rủn cả chân tay.

Về quê, harmonica là một nhạc khí lạ, nhưng không được hoan nghênh. Về quê, tôi được các anh, các ông chú thích, vì tôi thổi được sáo ngang.

Hướng đạo sinh được dạy hát bài Cổ Bản. Bài này qui tụ gần hết những điệu nhạc cổ. Cạnh nhà tôi ở quê là nhà ông anh họ tôi – Anh có cái tên là anh Dái – Ở quê tôi, con trai ngoài cái tên Cu thông dụng, còn được gọi anh Dái. Đặc biệt nhất là có một anh được gọi là anh Dái Nhờn, vì tên cúng cơm của anh là Nhờn.

Anh Dái kéo đàn cò, tức là kéo nhị. Tôi thổi sáo bài Cổ Bản. Những đêm trăng, trải chiếu trên sân gạch, chúng tôi hòa nhạc. Anh phục tôi lắm. Vì với bài Cổ Bản, tôi có thể thổi sáo tất cả những điệu nhạc mà anh biết.

Ống sáo ngang có 8 lỗ tất cả. Một lỗ để thổi. 6 lỗ phát âm dùng 6 ngón tay chặn lại, mở ra. Một lỗ khi thổi phải dán giấy mỏng, lấy tiếng rung. Tôi vẫn lấy giấy pelure thấm nước miếng dán lấy đấy. Về quê, anh Dái bày cho tôi trò lấy màng tre non dán ống sáo.

Màng tre là cái màng bóc trong ruột cây tre non. Chỉ cây tre non mới có màng, tre già không có. Và một cây tre non được chặt xuống, chẻ đôi ra, chỉ bóc lấy được có một miếng màng, dán ống sáo được một lần, là vứt đi, vì gặp khí trời, chỉ một lúc sau, màng tre trở thành cứng, không dùng được nữa.

Công tử Hà Đông về quê xài sang cứ như là con quan đại phú gia nhà giàu nứt đố, đổ vách. Mỗi buổi chiều, tôi hạ một cây tre non. Cứ mang dao ra bụi tre lựa cây tre nào đẹp nhất là chặt xuống, chẻ đôi ra. Để làm gì? Để bóc màng tre dán lỗ ống sáo. Chỉ thế thôi. Cả một cây tre được dùng có mỗi một việc: bóc lấy tí màng ruột tre bằng con cò dán thư, dán vào lỗ ống sáo. Chị Thìn – người chị cùng cha, khác mẹ với tôi – chiều em, không cấm cản gì hết. Chị mặc tôi muốn làm gì thì làm, miễn là tôi vui, tôi đừng đòi ra tỉnh.

Anh Dái tỏ ra sốt sắng nhiều trong việc giục tôi chặt tre non lấy màng dán ống sáo. Về sau tôi mới hiểu tại sao. Anh đợi tôi hạ tre bóc lấy màng xong vứt đi là ngỏ lời xin về chẻ tre làm lạt. Tre non phải chẻ ra làm lạt ngay. Để lâu quá nửa ngày, tre cứng lại, chất nước trong lòng tre mất đi tre non cũng trở thành vô dụng.

Những đêm trăng vằng vặc, tôi và anh Dái ngồi thổi sáo, kéo nhị trong sân vườn. Phải ở nhà quê, con người mới có dịp ngắm trăng, mới biết là trời đất này có trăng, có sao và đêm trăng tuyệt đẹp. Dân thành phố không thấy trăng, không được hưởng vẻ đẹp vằng vặc của trời trăng. Vì những ngọn đèn đường hoá giải sự huyền diệu của ánh trăng. Vì những ánh đèn ô-tô giúp cho mắt người đi thấy rõ đường xá, gốc cây, vỉa hè, không cần ánh trăng như người đi trong cảnh đồng lúa mênh mang. Người thành phố không biết có trăng vì những dẫy nhà cao cản mất chân trời. Nếu trăng có sáng, cũng chỉ lọt vào mắt con người ở giữa lòng hai dẫy nhà lâu một thoáng rồi mất. Người thành phố nhìn trăng cũng như những tù nhân nhìn mặt trời và ánh nắng qua ô cửa nhỏ phòng tù.

Con chúng ta ở thành phố không được biết là trời đất này có trăng. Em có bao giờ nghe con chúng ta nói đến trăng sao chưa? Chẳng bao giờ. Con chúng ta, con những người quanh chúng ta ở thành phố chật hẹp này không biết đến trăng sao. Ánh sáng ban đêm của chúng là những « tuýp» đèn «nê-ông», là ánh sáng hắt ra từ những màn ảnh Ti Vi. Có một ngày, Thanh Nam viết một truyện dài, lấy tên là « Trăng Thành Phố». Thoạt đọc lời giới thiệu tiểu thuyết sắp viết của hắn, anh đã nghĩ – “Thành phố làm gì có trăng, có người thành phố nào ngắm được trăng bao giờ đâu!! ”. Còn những người nghèo trong các xóm lao động không đèn điện lại càng không biết là trời có trăng. Vì họ phải đi ngủ sớm lấy lại sức để sớm mai lao động. Anh lại nghĩ đến những đêm trăng sao tuyệt đẹp ngày anh và em mới yêu nhau ở căn nhà đường Mayer. Nhà có sân gác cao. Hồi đó, vùng Tân Định chưa có nhiều tòa nhà mới xây cao như bây giờ. Lên mái nhà chúng ta đã là cao lắm. Ở đó, chúng ta nhìn thấy gác chuông Nhà Thờ Tân Định, thấy gác chuông Nhà Thờ Đức Bà, thấy từng lối đi giữa những ngôi mộ đá trong Nghĩa Trang Tư Bản, được gọi là Đất Thánh Tây. Đêm ấy cách đêm nay đã 1.380 đêm, 12 năm đã qua. Anh vẫn còn nhớ mãi những đêm tình yêu chan chứa ấy, giây phút em nằm mắt nhìn lên trời trăng sao, và anh yêu em. Khi anh cúi mặt nhìn xuống đất mà vẫn trông thấy trăng sao…

Trong bọn thiếu niên ở tỉnh về làng, chỉ có anh Lợi và tôi là sáng nước nhất. Và trong hai anh em tôi, anh Lợi hơn tôi về tất cả mọi mặt. Đáng kể nhất là anh đẹp trai hơn, học cao và giỏi hơn, tư cách hơn, bơi hay hơi, chơi nhạc cừ hơn.

Anh là một hướng đạo sinh gương mẫu trong lúc tôi cũng là hướng đạo sinh, nhưng là một thứ hướng đạo sinh bét nhất thế giới, không bao giờ thuộc hết morse, vụng về khi làm nút, dựng lều, không có duyên kể chuyện, đờn ca không ra gì. Anh Lợi là em con chú, con bác ruột với anh Dương Đức Hiền, nhưng khác chi. Bác Phán Hiệp người sinh ra anh Hiền, làm việc tại Phủ Toàn Quyền Hà Nội, nhưng cũng cư ngụ ở tỉnh lỵ Hà Đông như thầy tôi.

Tôi hiểu rõ sự thua kém của tôi trước anh Lợi khi nghe anh Dái phê bình:

– Chú thổi sáo cũng khá đấy… Nhưng chưa bằng chú Lợi… Chú Lợi thổi sáo tuyệt lắm…

Anh Dái phê bình tôi như vậy trong một đêm trăng. Tôi đang nằm trên một chiếc chiếu trải ở đầu sân gạch, nhìn lên trời cao xa, vút và trong vắt, trăng quê đang lúc sáng, có nhiều mầu xanh trắng hơn là màu vàng. Tôi công nhận lời so sánh của anh Dái là đúng, mặc dầu tôi cũng nhiều tự ái như ai, dù tôi có thể cãi bướng. Nếu tôi cãi là tôi không kém, anh Dái sẽ chiều tôi, sẽ nói lại. Nhưng tôi không cãi. Từ giây phút đó, tôi đã bằng lòng nhận rằng trong đời, tôi sẽ không bao giờ xuất sắc nhất về bất cứ một môn gì. Tôi có thể tự cho là tôi tài hoa về một vài trò, nhưng nói là nhất, là hơn hết mọi người về trò đó thì không. Vào một đám đông, tôi không đến nỗi chìm trong số những anh không được ai để ý, nhưng tôi cũng không phải là ngôi sao sáng trong đó.

Trên những cánh đồng trồng đậu, ngò xanh rờn bên bờ sông Đuống, tôi yêu lần thứ hai trong đời.

Tôi yêu đúng vào người con gái quê mà anh Lợi đã yêu trong mùa hè năm trước. Anh Lợi đã về quê ở trước tôi một năm, và anh hơn tôi một tuổi, tôi đã nói, tất cả, Lợi đều hơn tôi.

Lại một mối tình hoàn toàn không có sự đụng chạm của xác thịt.

Người gái quê đó đã yêu Lợi thì đúng hơn. Hoặc phải nói, Lợi không yêu người gái quê đó bằng nàng yêu Lợi.

Trong năm ấy, Tú có lẽ là người con gái đẹp nhất trong số những cô gái 17 tuổi của làng Bụi. Chị Tú. Tôi phải gọi là chị, vì nàng có họ với tôi.

Nhưng chi họ Dương nhà nàng với chi họ Dương nhà tôi đã khá xa nhau. Tôi đã nói họ Dương trong làng Bụi quá lớn, chiếm đến 80 phần trăm tổng số dân làng, cho nên trai gái họ Dương khó lấy vợ, lấy chồng. Nhìn quanh, tôi chỉ thấy toàn các em gái, các bà chị.

Một buổi sáng, đang ngồi câu cá ngoài bờ ao, tôi thấy thằng Cò Quay – một thằng bé độ 12 tuổi, con một chú nghèo làm rẽ ruộng nhà tôi – dắt hai mẹ con con bò đi qua vườn.

Tôi hỏi một câu ngớ ngẩn:

– Mày đem bò đi đâu thế?

– Em đưa ra đồng cho nó ăn cỏ…

– Tao đi với…

Tôi dựa cần câu vào gốc cây sung, lên đường và dành việc dắt bò. Thằng Cò bẻ cho tôi một cành tre, tôi bảo nó:

– Ngồi lên lưng nó được không mày?

– Được chứ….

Nó nhẩy phốc lên lưng con bò lớn, nhìn tôi nhe hàm răng sún ra cười.

– Xuống cho tao cưỡi…

Nó nhẩy xuống ngay.

Nhưng tôi ngán quá không dám nhẩy lên lưng bò như nó. Lúc ấy, chúng tôi vẫn còn đi trên đường trong làng. Đường lát gạch, bề ngang chưa bằng một thước tây, một bên lại có bụi tre cành lá xòa ra đường, một bên là ao bèo.

– Sao mày cưỡi được mà tao cưỡi không được…

– Anh cứ nhẩy lên. Không sao đâu. Nó hiền lắm. Để em giữ nó lại cho anh cưỡi…

Thằng Cò bắt bò đứng lại. Tôi nhẩy lên lưng bò. Bò đứng lại thì được, nhưng lúc thằng Cò quất roi cho bò đi, tôi thấy ngồi nhấp nhổm ghê quá. Tôi chỉ chực ngã:

– Cho tao xuống…

Thấy tôi quá nhát, thằng Cò khuyến khích tôi:

– Tại đường hẹp anh sợ… Để ra đồng, anh tha hồ cưỡi…

Từ lưng con bò bay lên mũi tôi một mùi hôi hôi đặc biệt của loài hò. Với tôi, đó là một mùi lạ. Tôi nhớ đến bài «Ai bảo chăn trâu là khổ…? Không, chăn trâu sướng lắm chứ…» trong Quốc Văn Độc Bản. Chăn trâu đã sướng, nhưng chăn bò còn sướng hơn. Bò sạch hơn trâu nhiều. Ở những ruộng chiêm, người dân quê mới dùng đến trâu để cầy bừa. Làng Bụi đất cát, xốp, trồng đậu và ngô nhiều hơn trồng lúa, nên làng chỉ có nhiều bò.

Tôi đi theo Cò Quay dắt bò ra khỏi làng. Làng tôi có 3 cổng: cổng trước, cổng sau và một cổng làng nhìn lên thôn trên nên được gọi là cổng thôn. Chúng tôi đi ra cổng trước, theo con đường men theo bờ tre, ra bãi tha ma ở ngoài làng.

Bọn trẻ con trong làng tụ tập ở đó chừng hai mươi đứa. Trong số có cả những đứa lớn lộc ngộc đến 18 hay 19 tuổi. Chúng thả bò trên bãi, bầy trò chơi làm đình, đánh khăng với nhau. Chúng chỉ canh cho bò đừng xuống ruộng, đừng đi xa lạc mất. Còn thì cả buổi là một cuộc chơi dài.

Tú nổi bật giữa bọn gái quê như một bông hoa hồng giữa một đám hoa nước rẻ tiền. Nàng tương đối là con nhà giầu.

Ông thân của nàng –tôi phải gọi bằng Bác– có khá nhiều ruộng, ông lại làm phụ cái nghề lang thuốc ta. Ông thường đi xem mạch, bốc thuốc cho người trong làng. Đôi khi, ông cũng được mời sang các làng bên để trị bệnh.

Nàng mặc áo cánh màu nâu non, quần đen, chít khăn vuông mỏ quạ. Trước đôi mắt thiếu niên của tôi, đôi mắt mới bắt đầu nhận xét đàn bà, Tú là người thôn nữ đẹp nhất đời, một người mà tôi chỉ mới thấy tả trong tiểu thuyết.

Tôi bị Tú thu hút như một cục sắt chịu sức hấp dẫn của nam châm. Nàng xinh xắn, gọn gàng và vui vẻ, nói cười luôn miêng. Nàng chỉ là gái quê ở làn da hơi đen, bàn tay nàng hơi dầy. Tôi biết chuyện đó vì có lần nàng đưa tôi đi từ bãi tha ma vào chùa chơi, tới đây nàng nắm tay tôi dắt đi, như sợ tôi bị lạc.

Nàng hỏi thăm tôi về Lợi. Năm nay, sao Lợi không về quê nghỉ Hè? Tôi có gặp Lợi luôn không? Lợi hiện ở Hà Đông hay Hà Nội? Nàng gọi tôi bằng cậu!

– Cậu có biết bơi không? Cậu có bơi giỏi bằng Lợi không?? Ở Hà Đông, cậu có hay đi bơi với Lợi không???

Qua lời Tú, tôi được biết mùa Hè năm ngoái, sau những cơn mưa lớn, cái ao lớn nhất trong làng tôi đầy nước, Lợi đã mặc Slip – loai Slip bơi đặc biệt bằng vải dầy, thường là mầu xanh đậm do chúng tôi nhờ cắt và may ở Hà Đông – ra đó biểu diễn « plongeon » và bơi đủ kiểu. Tú mê mải đứng trên bờ ao cả buổi xem Lợi biểu diễn bơi lội. Nhìn xem và thán phục. Tôi biết Tú yêu Lợi. Yêu theo cái lối mà người nhà quê gọi là «phải lòng mặt». Nghĩa là ngày nào cũng phải gặp nhau, không thì nhớ nhung, vẩn vơ. Tôi biết thế nhưng tôi không ghen tức gì cả.Có lẽ vì không có mặt Lợi ở đây. Nếu có anh, khi thấy anh sáng nước hơn tôi về đủ mọi mặt, khi nhận rõ mình chỉ là người số hai có mặt cũng được, vắng mặt cũng được có lẽ tôi đã ghen, tôi đã bỏ đi.

Tôi đã «phải lòng mặt» Tú. Ngày nào tôi cũng dắt bò đi chăn. Vì Tú có nhiệm vụ đem mấy con bò nhà nàng đi chăn. Tôi cần gặp mặt nàng. Tôi đã vẩn vơ nghĩ đến chuyện tôi và Tú lấy nhau, thành vợ chồng, đến những khó khăn, trở ngại mà chúng tôi sẽ gặp khi lấy nhau, vì hai đứa là chị em họ.

Những ngày mùa xuân ở cánh đồng làng Bụi, tuy tên là Bụi nhưng không có một ly ông cụ bụi cát nào, đất đỏ, lá ngô, lá đậu xanh mươn mướt, mưa bụi phơi phới bay, tình yêu đến tâm hồn tôi với tất cả mộng mơ và quan trọng. Người chị họ xinh xinh, nước da ngăm ngăm đen, bận áo cánh nâu non, quần đen, thỉnh thoảng thêm một đường khăn vuông mỏ quạ, nàng bắt đầu tập ăn trầu. Môi nàng cắn chỉ. Tôi quên một điều quan trọng: Tú răng đen. Ba mươi năm nữa đây, khi những bà mẹ Việt Nam như mẹ tôi, rời bỏ con cháu ra đi, nước Việt Nam có tục xâm mình, nhuộm răng, ăn trầu sẽ không còn ai nữa. Sẽ hết, sẽ mất. Con cháu chúng ta sẽ có thể trông thấy những hình vẽ xâm mình trên thân thể những ông thủy thủ Âu Mỹ, nhưng sẽ không có thể tưởng tượng thế nào là một hàm răng nhuộm đen – đen lánh hạt huyền – trầu cau cũng sẽ trở thành vô dụng. Trầu cau có lẽ sẽ còn chỉ được dùng đồ làm một thứ thuốc Nam nào đó. Môi Tú ăn trầu cắn chỉ đôi khi và tôi nghĩ đến chuyện vì hai chúng tôi là chị em, họ hàng sẽ không bao giờ chấp nhận cho chúng tôi trở thành vợ chồng, tôi sẽ cùng nàng đi xa, đi đến một nơi nào xa lắm để yêu nhau, để trở thành chồng vợ.

Ngày mới lớn chúng ta có những vấn đề quan trọng để đến năm ba mươi tuổi, hồi tưởng, ta thấy chúng chỉ là những vấn đề trẻ con. Nhớ chuyện ngày xưa tôi yêu người chị họ và tính chuyện đem nàng đi xa – xa như vào tận Saigon chẳng hạn – để chung sống với nàng, tôi hiểu tại sao vẫn có những người con trai, con gái, mười sáu, mười bẩy tuổi, chết vì những cuộc tình trẻ nít.

Chiến tranh tàn, Nhật Bản bại trận, đầu hàng. Các trường học mở cửa lại. Tôi phải trở ra Hà Đông để đi học, nhưng vì vui chơi ở quê, vì đang «phải lòng mặt» Tú, tôi nhất định không theo chị tôi ra Hà Đông. Dỗ dành, đe dọa mãi không được, chị Thìn ra Hà Đông một mình báo cáo với thầy tôi việc tôi từ chối học hành để ở nhà quê chăn bò. Tôi ở quê một mình. Các cô, bà thím tranh nhau mời tôi đến ăn cơm. Ai cũng chiều chuộng tôi.

Đến một buổi trưa, nằm khểnh trong nhà đọc cuốn truyện vừa mới ra Phú Thụy mượn về được, tôi nghe lẫn trong tiếng kẽo kẹt của bụi tre đầu ngõ có tiếng giầy tây gõ lộp cộp. Tôi nhìn ra sân: thầy tôi về. Ông cụ phải thân hành về quê để bắt tôi ra Hà Đông. Thầy tôi chỉ về có mỗi một việc đó. Ông chỉ vào nhà và ở lại nhà có mười phút, đủ thời gian để hút hai điếu thuốc lào, uống một ly nước trà và đi tiểu. Tôi ngoan ngoãn theo ông ra chiếc xe xích lô chờ ở đầu làng.

Mối tình của tôi với Tú đến đó là chấm dứt. Một năm sau, khi cuộc chiến tranh Việt Pháp (bùng nổ), khi tôi theo gia đình tản cư về làng, gặp lại Tú, tôi thấy nàng quê, trơ khấc và tôi chán nàng như chán cơm nếp nát.

Tôi muốn viết lại cuộc đời tôi từ những ngày thơ ấu cho tới bây giờ. Tôi tạm ngừng ở đây, chờ đợi một ngày nào tới sẽ viết tiếp. Sẽ có một ngày tôi viết tiếp. Tập truyện này có thể được đặt tên là «HÀ ĐÔNG», hoặc « HÀ ĐÔNG VÀ NHỮNG NGÀY MỚI LỚN ». Sẽ có ngày tôi viết về cuộc đời tôi khi tôi đi kháng chiến, những ngày đầu làm báo, những ngày viết văn, tôi hy vọng sẽ có ngày bạn gặp lại tôi trên những trang giấy có những dòng chữ đó.

Có một hôm, có một người Hà Đông nói với tôi: Cậu chỉ mới viết về Hà Đông riêng của cậu. Cậu chưa viết gì về Hà Đông đau thương trong chiến tranh, nghĩa là Hà Đông trong những năm 1946,1947, khi Hà Đông trở thành cửa ngõ của đồng bào hồi cư về Hà Nội, thời gian bọn hung thần Việt Gian không biết từ những nơi nào tới đó gieo rắc kinh hoàng và chết chóc, những tên mật thám đi hỏi vợ bằng một mâm tạc đạn, cưỡng hiếp phụ nữ và dí dao vào ngực, đâm cho chết rúm lại lúc nó khoái lạc… những tên chỉ cần mình đi ngoài đường, nhìn nó là nó đánh mình.

Chứng nhân của Hà Đông đau thương, tang tóc những ngày bi thảm đó vẫn còn sót lại ở Sàigòn. Trong một tiệm thuốc phiện mới đây, tôi có gặp một tên trong bọn hung thần Việt Gian súc vật đó. Bây giờ tên đó hết thời, hết tiền, nghiện hút và vì không có tiền hút nên nằm nhầy nhụa trong tiệm làm bồi tiêm và đi mua vặt cà-phê thuốc lá cho khách lấy tiền bố thí. Có thời tên này nhận tiền của Mật Vụ nhà Ngô, cạo trọc vào chùa tu để dọ thám nên người ta gọi đùa nó là Ông Đạo, là Thượng Tọa. Tôi có thể đến đó tìm nó, cho nó hút và nằm nghe nó kể chuyện Hà Đông trong trí nhớ và mắt thấy, tai nghe, về những thằng Việt Gian chó má đã làm cho Hà Đông yêu dấu của tôi trở thành địa ngục cho tôi nghe. Nhưng chắc tôi sẽ không làm thế. Hoặc nếu có, tôi cũng chỉ viết rất ít về Hà Đông của tôi những ngày đó mà thôi.

Bởi vì tôi không sống ở Hà Đông những ngày đó, tôi không cảm động, và khi đã không sống, không cảm, không ai có thể viết hay được. Hà Đông của tôi vẫn muôn đời là thành phổ nhỏ, hiền lành, êm đềm và thơ mộng nằm ven dòng sông Nhuệ. Hà Đông của riêng tôi, Hà Đông trước mắt tôi, trong tâm trí tôi, trong dĩ vãng tôi, không bao giờ tàn nhẫn.