18 - Xác kén
Bên kia sông, là nơi chôn nhau cắt rốn. Nếu đi từ đây đến nơi có chiếc cầu vắt ngang, chắc phải đến ba cây số. Bến đò ngày xưa, chỉ cách đây độ trăm thước. Vỗ vào chiếc nạng, Dân thầm nhủ, thôi thì đi đò. Tiếng lộc cộc đều đặn gõ xuống con đường đất nện ven con sông hiu hắt vàng nắng cuối ngày. Dò dẫm từng bước xuống bến, Dân vào cái quán cạnh bờ, gọi một bát nước chè xanh. Bà cụ mắt lèm nhèm ngước lên, toét miệng ra cười. Tay rót nước, bà thân mật:
- Lại phục viên! Ấy, sống được là may. Ðẩy bát nước về phía Dân, bà mở trạn lấy một thỏi kẹo lạc chìa ra - Tôi biếu!
Thấy Dân ngần ngừ, bà thật thà:
- Các anh xả thân cứu nước, mà lại chẳng có gì khao công...
Dân cười, lòng cảm động. Sau Hiệp Ðịnh Paris, Dân được chuyển từ bệnh viện 203 ở biên giới Lào vào khu an toàn để dưỡng thương. Y tá đo đạc để thợ thửa cho Dân một cặp nạng. Lần đầu, Dân ứa nước mắt, nhìn cái chân chỉ còn phần từ nửa đùi trở lên. Cô y công vỗ vỗ vào chiếc nạng, cố vui giọng, anh đi quen, nhiều khi còn nhanh hơn cả người lành. Đến khi đi lại được thì bệnh viện đưa Dân về Txê-pôn bên Lào đợi hồi hương.
Thương phế binh lên một giẫy cam-nhông ngồi như cá mòi, kẻ hớn hở, người lo âu. Ngồi cạnh Dân, anh bộ đội cụt hai chân và một tay, vừa khóc vừa gầm gừ ‘‘Tiên sư cha đời, thà chết mẹ nó đi! ’’. Anh rên hừ hừ, cứ thế lẩm bẩm suốt chặng đường mất gần một ngày mới vào địa phận Nghệ An. Dân an ủi, bảo sống khó, chết thì dễ thôi! Anh ta đáp, mắt đỏ lên ‘‘...còn có một tay, miệng cắn thì rút được kíp lựu đạn, nhưng có đâu nữa mà rút! ’’. Người ngồi bên phía phải độc miệng ‘‘...có răng, cắn lưỡi được!’’. ‘’ Sợ nhất là gặp lại vợ... ’’, anh phế binh lại nấc lên, giọng đứt quãng ‘‘...vợ thì mới đôi mươi. Tiên sư cha đời! ’’.
Trên đường về, đến đâu có dân là có tiếng reo hò. Mỗi khi xe ngừng, người ta đổ vào vây quanh, kẻ cho nước, kẻ mang hoa quả giúi vào tay bộ đội, miệng suỵt soạt những lời mừng, lời chúc. Có lúc nước mắt ứa ra, Dân bỗng cảm thấy sự hy sinh của mình và của những người đồng đội không phải là không có ý nghĩa. Xe qua Thanh Hóa, vào Ninh Bình. Nơi nào cũng chăng bảng chào mừng, chữ kẻ chói đỏ, chào mừng dũng sĩ diệt Mỹ. Dũng sĩ thương phế, thân thể không khác gì quốc lộ 1, chỗ bom trốc lên, chỗ bom khoan xuống, lồi lõm tang thương. Đoàn xe chạy như những con trâu lừ đừ, lúc chúi xuống, lúc xốc lên chồm về phía trước như chực phát rồ. Hai bên lộ, nơi bom đào thành hố nước phun lên chỗ đỏ ối chỗ đen xì, váng đóng trên mặt óng ánh dưới nắng chang chang.
Dũng sĩ ở địa phương nào thì về đó. Khi xe đến Nam Ðịnh, chỗ ngồi thoải mái, không cứ lèn vào nhau như cá mòi. Dân chợt nhớ đến Thắm, lòng se thắt lại. Chàng quay hỏi người ngồi cạnh ‘‘ Ý Yên ở phía nào hả anh?’’. Người đó chỉ tay, không nói gì. Dân nhổm lên. Người đó lại bảo ‘’ Chẳng thấy được đâu! Ðây vào đến Ý Yên, ít thì cũng ba mươi cây số’’. Dân ngồi xuống, người hững đi, mắt rưng rưng. Thắm nay ở đâu? Sống hay chết? Dẫu ký Hiệp Ðịnh, nhưng quân chỗ nào đóng chỗ ấy, thậm chí có những nơi bộ đội được lệnh phải tiếp tục lấn chiếm. Thế thì ai cho Thắm về? Chỗ nào khó, có thanh niên. Chỗ khó, hẳn cái chết dễ như lật bàn tay. Dân nhìn cái chân cụt, ống quần duỗi xuống bất lực. Chàng van xin ’’ Ðừng chết Thắm ơi!’’. Và bất ngờ, một ý nghĩ thoáng qua cứa như lưỡi dao lụt. Chàng thầm mong nếu sống Thắm cũng tật nguyền như chàng. Có thế, nàng sẽ không phụ rẫy. Nghĩ rồi Dân đau đớn, hỏi Trời ơi, làm sao con người có thể thấp hèn đến độ mong cho người yêu què cụt? Dân đưa tay che mặt như cố giấu nỗi đớn nhục với chính mình.
Bà cụ bán quán rót thêm nước cho Dân, ê a kể, thằng cháu trai độc nhất đi B viết thư báo chưa được về. Dân an ủi ‘’Chưa về, nhưng thế là sống bà ạ ’’. Mắt nhìn về phía con đò bờ bên kia đang chuyển động, Dân chống nạng đứng lên, lòng khấp khởi. Dăm phút sau, đò cập bến, đổ lên ba người đàn bà. Một người nhìn sững Dân rồi buột miệng rú lên:
- Ối, anh Dân đây này. Chạy lại níu tay Dân, người ấy hỏi - anh có nhận ra em không?
Dân nhìn, ngờ ngợ.
- Em là Duyên, em anh Thành đây!
À, thì ra thế. Thành kém Dân một tuổi nhưng đi nghĩa vụ trước Dân một năm. Ðám trẻ trong làng gọi là Thành ‘‘cối xay ’’ vì gia đình Thành phụ trách khâu xay gạo trong Hợp tác xã. Trong những ngày đói kém, chính Thành đã nhặt những hạt gạo sót trong cối, gom góp được nắm nào là giấu đưa cho Dân nắm ấy. Duyên tíu tít:
- Anh Thành nhà em về được hơn một năm rồi. Nhìn xuống chân Dân, Duyên tiếp, giọng bùi ngùi – anh ấy thì mất một tay, anh ạ!
Dân vội vã:
- Bà tôi. Duyên biết chứ, bà tôi nay ra sao?
Câu trả lời dẫu lí nhí của Duyên tác động chẳng kém gì bom đạn chiến trường. Dân choáng váng, chiếc nạng văng ra. Chàng ngã dập mặt xuống ven sông. Mắt nhìn mây trời trên dòng nước vỡ trôi theo đám lục bình dập dờ, Dân thảng thốt hỏi đi hỏi lại rồi lảm nhảm:
- Hả... Thật hả, trời ơi!
Con đò chở Dân sang sông. Duyên bỏ công việc đi kèm. Ông lão chèo đò đứng cuối mũi cong người đẩy mái chèo, chân chống vào thành đò, mắt nhìn Dân đăm chiêu. Mỗi lần có thương binh, ông không bắt đợi, chèo ngay qua sông vì biết sự háo hức bồn chồn của những người trở về. Nhưng lần này, lúc ông giúp Duyên dìu Dân xuống đò, ông nghe Duyên thì thào vào tai, khẽ thở ra, rồi uể oải cắm sào đẩy đò xa bờ nước. Im như thóc, ông chẳng buồn nói những câu vè xã đội phổ biến cho dân kiểu ‘’chào anh chiến sĩ vinh quang. Đánh thẳng Mỹ cút, đánh ngang Ngụy nhào ‘’. Dân dựa lưng vào thành đò, hai tay ôm lấy mặt, đầu gục xuống gối. Ðầu óc chàng lùng bùng ở trạng thái không biết mình mơ hay tỉnh. Nhắm mắt, sự trống rỗng ban đầu như hạt đỗ, lát sau to dần rồi mở ra hoang hoác, cứ mỗi lúc mỗi mênh mang. Cho đến khi sự trống vắng vượt quá tầm chân trời thì nước mắt Dân trào ra thứ mưa tầm tã đầu một mùa úng nước.
Ðò cặp bến. Hai đứa bé vắt vẻo trên mình trâu nhìn xuống. Duyên đỡ Dân, vai quàng chiếc ba-lô, chập choạng lên trước. Con đò tròng trành. Ông lão chèo đò vẫn im lặng. Một đứa bé thấy Dân kẹp vào nách cặp nạng, hò lên ‘‘Dũng sĩ diệt Mỹ...’’. Ðứa kia chạy biến đi. Dân không cất lời, cắm cúi khập khiễng theo chân Duyên, tiếng nạng gõ vào mặt đường đất nện nặng chình chịch. Chàng chẳng buồn nhìn quanh, miệng nuốt những tiếng ừng ực xuống bụng, răng cắn lại. ‘‘Dũng sĩ...’’, đứa bé chỉ trỏ. ‘‘Hoan hô anh hùng chống Mỹ cứu nước!’’, đám trẻ con không biết thế nào đã ùn ùn kéo tới. Lát sau, một số dân quân tự vệ cũng ào ra, đi đầu là Kiên, người phụ trách Thường Vụ của Uỷ Ban xã.
- Xin chào mừng đồng chí hồi hương! Tay chìa ra, Kiên tiếp - Mời đồng chí lên ngay Ủy Ban để làm thủ tục. Xã ta vẫn chưa được thông báo, đồng chí thông cảm.
Lòng nát dạ tan, Dân chưa biết nói gì thì một người ở đâu xồ đến, miệng reo:
- Dân hả? Thành đây, có nhận ra tao không?
Nhìn lên, Dân khẽ gật. Ðồng chí Thường Vụ Kiên cũng chạc tuổi Thành, lại lập lại yêu cầu. Duyên nhỏ nhẹ:
- Anh ấy mệt lắm, sao không để thư thả đã...
- Không, không được. Cứ phải thủ tục cái đã...
Gạt nhẹ Kiên ra, Thành nắm lấy cánh tay Dân, giọng ngậm ngùi:
- Tưởng là chẳng bao giờ thấy nhau nữa! Quay nhìn Kiên, Thành tiếp - Anh ấy cụt một chân, chạy đâu được mà phải vội trình diện!
Một đám bộ đội phục viên đến vây quanh Dân. Họ vẫn mặc áo lính xanh rêu. Cả kẻ cụt chân, cụt tay lẫn người còn lành lặn đều hớn hở. Cả bọn đưa Dân trên con đường đi về nhà, mặc cho Kiên và dăm ba dân quân tự vệ đứng ngơ ngác một lúc rồi cũng bước theo.
Ðợi người trách nhiệm của Ủy Ban tới mở cửa, Thành dìu Dân vào nhà, quay lại nói với đồng bạn:
- Cho anh Dân nghỉ đã, mai lính sẽ tổ chức liên hoan với nhau.
Duyên vào theo. Ngồi xuống chiếc trõng tre, Dân đưa mắt nhìn quanh. Thoáng một cái, đã gần năm năm Dân xa nhà. Cảnh không đổi. Vẫn cái trạn ở góc nhà, dưới gầm là dăm cái nồi đất. Vẫn cái bếp, ba cục gạch sạm khói chụm đầu. Nhưng còn người. Nước mắt lại ứa ra, Dân thầm gọi ’’ Bà ơi, cháu về mà bà đâu rồi?’’. Tiếng gọi lắng xuống như bóng chiều rơi trên những mái rạ nhuộm tím không gian. Thành ngồi ở bực cửa, thỉnh thoảng nhìn Dân, cố làm vẻ như lơ đễnh.
Duyên về, rồi quay trở lại với vài cây nhang và một cây đèn dầu. Ngần ngừ, Duyên đưa mắt hỏi Thành. Lắc đầu, Thành nhìn ra ngoài. Trời phăng phắc gió, tiếng bọn trẻ đánh trâu về í ới gọi nhau, tiếng vẳng lên thúc giục. Dân buột miệng thở ra. Thành nhẹ giọng:
- Ði ra đốt cho bà nén nhang, trời sắp tối rồi Dân ạ!
Dân cố ngồi lên. Với cây nạng để cạnh trõng, Dân chống tay nghiêng người đứng dậy. Thành xốc nách Dân, đi sau là Duyên.Tiếng nạng lộc cộc buồn bã.Nghĩa địa ở ven làng ngổn ngang gò đống hiện dần trong tầm mắt. Xa xa, có đúng một con cò co chân đứng, bơ vơ, lạc loài.
Duyên bảo ‘‘ mả bà đây rồi!’’. Dân đứng lại. Sẫn sờ. Tê cứng. Dưới ba tấc đất kia là nắm xương con người thân thiết độc nhất của mình trên đời này ư? Dân ứa nước mắt. Không, Dân thầm nhủ. Mình còn mẹ và đứa anh em song sinh trong miền Nam. Ông bác ngày xưa còn bảo cha mình vẫn ở bên Liên Xô, thế nào rồi cũng về. Dân ngồi thụp xuống, tay vuốt ve lớp đất đắp mả. Duyên châm lửa vào những cây nhang, tay vẫy, miệng khấn rồi đưa cho Dân. Thành chắp tay, cúi đầu. Dân quì một chân, tay cắm nhang vào mô đất, miệng thì thào:
- Bà ơi! Cháu về với bà đây, bà linh thiêng bà nhận cho cháu ba lạy này...
Dân thì thụp gập người chắp tay lạy. Thấp thoáng một bóng người áo trắng quần thâm. Dân căng mắt ra nhìn. Người đó đứng, một cánh tay xụi thõng xuống, xa nên không rõ mặt.
Khi bóng đêm chụp xuống thế gian, ánh đèn sáng lên lập lòe trong làng. Duyên khẽ khẽ nói, về thôi. Thành lại xốc Dân dậy. Tiếng nạng lộc cộc. Ði và về, chỉ khác nhau ở một khoảng thời gian chẳng biết thực ảo thế nào. Lộc cộc. Lộc cộc. Cũng như tiếng đồng hồ tích tắc, tiếng lộc cộc từ nay hẳn đo được thời gian một đời thương phế? Chợt Dân ngoái về phía sau. Chỉ có màu đen thẫm như quầng mắt lo âu trũng xuống. Dân thì thào vào tai Thành:
- Cái người đứng trước mả lúc nãy đâu rồi?
Ngạc nhiên, Thành hỏi Duyên. Lắc đầu, Duyên đáp:
- Làm gì có ai! Chắc anh Dân mệt nên hoa mắt đấy!
Dân nghe Duyên nói, lòng vẫn ngờ, nhắc lại:
- Mình rỏ ràng thấy mà...
Tối hôm đó, Dân về nhà Thành. Bữa ăn chỉ có tép rang, khế thái nhỏ và cơm độn với sắn. Duyên giục, nhưng Dân không ăn được, miệng đắng ngắt.
Năm năm, thời gian đủ để đánh dấu đổi thay trong một cái làng thời chiến. Số trai tráng đi bộ đội chết hay mất tích không kể, bọn thương binh hơn ba chục mạng đếm ra là già nửa số phục viên. Nói cho đúng, phục viên không què cụt thì cũng tâm thần, phân biệt lành lặn với thương phế không phải hiển nhiên. Thằng An chẳng hạn, nó ở Tây Nguyên tám năm, đêm đêm cứ thức giấc là gào ‘‘...Pháo... chúng nó pháo... ’’, ban ngày gặp ai cũng dặn ‘‘ Bọn Mỹ chưa rút, phải cảnh giác, nghe không!’’
Trên Ủy Ban xã, bí thư bây giờ là một cán bộ Huyện phái xuống. Nghe nói, ông Bí thư thời Dân nhập ngũ lăng nhăng với vợ bộ đội đi B, tai tiếng đến độ cấp trên phải ‘‘đá’’ ông lên làm Ủy viên Thường vụ Huyện. Chủ tịch Ủy ban hành chính xã vẫn trụ lại. Vì có bà vợ, tên Quyên, rất đanh đá nên ông không dám hủ hóa. Bà được giao làm chủ nhiệm Hợp tác xã nhưng dân cứ gọi bà là Bà Chủ tịch, ý cho rằng ‘‘chỗ đứng’’ của bà là do ông, vốn thuộc thành phần cơ bản, lại có cha đã hy sinh trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Ðồng chí Thường vụ tên Kiên phụ trách an ninh xã là một cán bộ trẻ được đào tạo ở trường Công An tỉnh. Ðồng chí con một, được miễn nghĩa vụ, rất nguyên tắc và hô hào ‘‘ đánh cho Mỹ cút’’ đến cùng, khéo léo nửa úp nửa mở rỉ tai làng xã rằng mình đã xin đi chiến đấu nhưng ‘‘trên’’ không cho để bảo toàn cán bộ lãnh đạo tương lai. Ðồng chí hình như mặn mòi với Duyên, thường lai vãng làm thân với Thành, nhưng ông cụ cha Thành không ưa, ít khi mời vào nhà trò chuyện.
Sinh hoạt của xã không thay đổi. Sáng, đánh kẻng để xã viên trong Hợp tác xã ra đồn. Vẫn con trâu đi trước, cái cày theo sau. Vẫn bừa, vẫn cuốc. Ruộng tốt thì lúa, ruộng cằn thì màu, trồng ngô, khoai, sắn. Ngô khoai sắn nấu độn với gạo ăn vì nguồn viện trợ từ Trung Quốc đã bắt đầu bị cắt giảm. Khẩu hiệu ‘‘ hạt gạo cắn ba chia cho hai nước anh em Lào và Campuchia’’ không ai nhắc lại. Nhưng Mỹ đi, Ngụy còn. Muốn Ngụy nhào để thống nhất đất nước, nhiệm vụ của hậu phương vẫn cứ là dành tất cả cho tiền tuyến. Ông Bí thư xã nói với Dân như vậy. Ngắm nghía Dân, ông tiếp:
- Ðồng chí phục vụ tốt, được kết nạp, lại cấp úy trong quân đội và có trình độ văn hóa cấp ba. Tôi đã hội ý với lãnh đạo, đề nghị đồng chí phụ trách sổ sách cho hợp tác xã. Với lại, nhìn chân Dân, ông tiếp - có muốn thì đồng chí cũng chẳng vào khâu lao động tăng gia được!
Dân mỉm cười, lòng chua xót. Lao động hồ hởi nhất lúc đánh kẻng vào xế chiều. Về, là chúi mũi vào ‘‘kế hoạch bồi dưỡng gia đình’’, nuôi con gà con vịt, trồng mớ rau, mớ cỏ. Ông Bí thư cũng loại con một, về xã để nhấp nháy chờ đến lượt được thăng quan lên huyện, lên tỉnh. Nghe nói ông từng học trường Trung cấp Nguyễn Ái Quốc, lẽ ra không phải xuống cấp xã nhưng ông tự nguyện để đi sâu đi sát với quần chúng nông dân. Không như đồng chí Kiên Thường vụ, ông kín đáo hơn, và nhất là không để mất lòng một ai trong đám cán bộ đảng viên. Nhìn ông đang ngửng lên đợi một câu trả lời, Dân thong thả:
- Cám ơn đồng chí chiếu cố. Nhưng xin đồng chí cho tôi được dưỡng sức ít ngày đã...
- Dĩ nhiên, ông Bí thư cười cười, bây giờ chớm đông, chẳng mùa màng gì nên không phải vội. Phân công người tốt việc tốt là lên kế hoạch cho quí tới thôi, đồng chí khỏi phải lo, cứ nghỉ ít lâu đã...
Dân về nhà Thành, kể lại câu chuyện trên Ủy ban với ông Bí thư. Bố Thành năm nay bảy mươi mốt tuổi, móm mém buông một câu:
- Làm thư ký Hợp tác xã phải lo việc chấm công và chia công điểm. Người nhiều của ít, thế nào cả làng cũng sẽ chửi bố lên cho!
Thấy Dân ngỡ ngàng, ông tiếp:
- Thời thế bây giờ, khác hồi Tây. Xưa, kể từ Lý trưởng xuống đến thằng Mõ, làng nuôi chừng chục người. Bây giờ, cứ đếm khắc biết, từ Ủy ban đến dân quân đâu cũng cả trăm, ăn không ngồi rồi, đi đi lại lại... Ðã thế, cầy bừa thì lúc bom, lúc đạn, lúc thiếu phân, khi thiếu nước nên ra đồng là ra cho có mặt. Người nhiều của ít, chỉ một vốc gạo cũng kèn cựa, nào ruộng xấu ruộng tốt, thế nọ thế kia, điều tiếng lung tung...
Thành xen vào:
- Ðấy, tao làm thư ký đúng một vụ rồi phải xin nghỉ. Nhìn Dân, Thành tiếp - mày đảng viên, chắc Bí thư xã nghĩ người ta vì nể hơn...
- Cứ có miếng ăn vào, chẳng ai vì nể ai cả. Ông bố Thành ngắt - Ðảng hay không đảng, cũng thế! Ðấy, tôi đã bảo thằng Thành ngay từ đầu, nhưng nó trứng khôn hơn rận, cho là tôi ’’ tồn cổ’’, không tranh thủ phấn đấu trong xã hội mới!
Thành bẽn lẽn:
- Thầy cứ nói, có ai bảo thế đâu...
Bị thương ở chiến trường An Lộc, Thành về làng trước Dân gần một năm. Sau vụ mùa, Thành thôi Hợp tác xã, xoay sang làm dịch vụ nuôi thỏ bán lên Hải Phòng. Nhưng chỉ ít lâu sau thì thỏ lăn ra chết cả đàn. Từ đó, thỉnh thoảng Thành đi buôn chè Thái Nguyên và sắn sấy khô, vất vưởng sống qua ngày với cái đồng lương bộ đội phục viên mỏng mảnh ăn không đủ nửa tháng. Ðể an ủi mình, Thành có dịp là lạc quan ‘‘ để cho Mỹ cút Ngụy nhào xong, cả nước sẽ công nghiệp hóa, sướng cho mà xem!’’.
Dân cười phân vân. Duyên ở ngoài đi vào, tươi tỉnh:
- Có mớ tép với hai con rô. Anh Dân xơi cơm với thầy em nhé...
- Thôi, để khi khác Duyên ạ...
Dân chào rồi đi ra ngoài cửa. Thành theo sau, tay khoác vai Dân.
- Sao? Làm thư ký cho Hợp tác xã phức tạp lắm hả? Dân hỏi.
Thành kể, xã có ba đội sản xuất. Mỗi đội lại chia thành tổ, tối tối tổ họp lại để khai công ghi điểm. Ðội đưa điểm lên Hợp Tác xã, thư ký tưởng chỉ có việc cộng lại là xong. Nhưng nào có đơn giản như vậy đâu! Khổ là vì móc nối khai gian, chuyện chia công nặng nhẹ vô nguyên tắc. Rồi chuyện không chiếu cố đúng mức những gia đình neo đơn, gia đình con đi bộ đội, gia đình liệt sĩ... Ngừng lại nuốt nước bọt, Thành chép miệng:
- Cuối vụ, tính toán thu hoạch thì Ủy ban khi nào cũng đòi vượt kế hoạch để khai báo thành tích tìm cơ cho các ông các bà cán bộ thăng tiến. Càng vượt, càng thuế, càng đóng góp nghĩa vụ. Phần còn lại để chia cho nông dân lại càng ít. Làm mà không có ăn nên người ta bảo nhau lãng công, có mặt để có điểm, giữ sức về mà làm kinh tế gia đình. Ai cũng chân trước chân sau, chờ kẻng đánh là lỉnh, kẻ về lo con gà con lợn, người sắn tay cầy cuốc trên đất khoán cho tư nhân...
Dân chặc lưỡi:
- Thế không ai có ý kiến gì để khắc phục à?
Thành chép miệng, lắc đầu:
- Không phải đơn giản như ở chiến trường, tiến là tiến, lui là lui. Ðời thường lắm lúc có lúc lui là tiến, và khi nhìn như tiến thì lại hóa lui. Bộ đội chúng mình ngây thơ lắm...
Dân ngắt, chua chát:
- Có ngây thơ thì mới thằng thí cái chân, thằng thí cái tay cho cái cuộc chiến thần thánh kia chứ! Nhưng bây giờ, phải ổn định để mà sống. Mày lêu bêu mãi thế này sao được!
Thành thở dài:
- ...thì tao cũng biết, nhưng chưa nghĩ được ra con đường nào! Thầy tao ngày nào cũng giục tao lấy vợ. Ðéo mẹ! Ốc chưa lo được mình ốc, đèo bồng nữa thì chết. Trên Ủy ban, người ta khuyến khích phụ nữ ‘‘xây dựng’’ với bộ đội thương binh. Trai thiếu, gái thừa nên đám quá lứa thì què cụt nó cũng lấy, cần gì ai khuyến khích!
Dân ngẫm nghĩ, im lặng. Ðến chỗ cái miếu thờ Thành Hoàng, Thành chia tay Dân. Ði ngược được một khúc đường, Thành ngưng bước, tai lắng nghe.
Lộc... cộc...lộc...cộc...lộc cộc!
Ôi chao!
Tiếng nạng nện trên đường nghe sao mà khô khốc đến vậy!
Nghe tiếng kẻng, Dân mở cửa. Sáng tinh mơ, gió sớm chở hơi sương lùa cái lạnh qua lớp vải cái áo lính cồm cộm. Nắng nhợt nhạt như kẻ nằm bệnh ngả xuống cánh đồng làng đã trơ gốc rạ. Dân chậm rãi bước. Ngày còn thơ, qua làng bên Dân vù một mạnh đi chỉ mất nửa tiếng. Bây giờ, Dân nhẩm trong đầu, thời gian chí ít cũng gấp ba.
Con đường làng không khác gì thời Mỹ chưa ném bom. Dấu vết chiến tranh chỉ để lại dọc sông Văn Úc, con sông dẫn ra biển như một trong những trục giao thông, nhiều lần bị đánh phá. Thỉnh thoảng, Dân mới gặp người làng. Kẻ chào một câu, người cười, tay vẫy. Họ hồn nhiên, mặc dầu chẳng gia đình nào là không tang tóc. Dân chợt nhớ lại thời mình ở Bàu Bính và những mảnh đất đào xuống lòng cát để có thể trồng khoai, trồng củ. So với lính, dân khổ nhưng chẳng kêu ca. Và họ bị quên lãng dẫu chính họ mới là những con người phải được phong anh hùng trong những chiến công ghi lại bằng những tấm huân chương gắn trên ngực lính.
Dân đến trước căn nhà bà Nhiều khi sáng bảnh mắt. Ði lại với bà mình từ thuở Dân tấm bé, nghe đâu bà Nhiều có họ hàng xa. Con trai chết trong chiến dịch Ðiện Biên, bà sống với con dâu và hai đứa cháu, một đi B trước Dân hai năm. Dân gọi cửa. Tiếng guốc lẹt quẹt đáp lại.
- Ai đấy hử? Tiếng khàn khàn cất lên.
- Có phải bà Nhiều đấy không? Dân hỏi
Cánh cửa hé ra. Bà cụ trong nhà hấp hấp mắt:
- Ai đấy?
- Cháu là Dân đây, bà có nhớ không?
- Giêsu ma lạy Chúa tôi. Bà Nhiều reo khẽ, tay mở rộng cửa - Dân đấy hả? Có thật không?
Dân nắm tay bà Nhiều, cổ họng đắng chát. Bà còm hẳn xuống, đầu chít khăn mỏ quạ, mắt kéo màng gần như chẳng còn nhìn thấy gì. Nghe tiếng nạng lộc cộc, bà hỏi:
- Què hả cháu?
Không kìm được, bà nức lên:
- Thằng Tự cháu bà chết ở Quảng Trị mất rồi... Nó được phong liệt sĩ, Chúa tôi ơi!
Ðợi cho bớt xúc động, bà tiếp:
- Què còn hơn liệt sĩ, cháu về được là bà mừng lắm! Lạy Chúa lòng lành!
Chợt có tiếng khóc oe oe đằng sau. Bà Nhiều đứng lên:
- Chắt bà đấy, con thằng Lập, may mà nó không phải vào bộ đội...
Bà tất tả vào căn buồng cuối nhà. Tiếng khóc im dần, võng đưa kẽo kẹt. Lát sau bà ra. Dân bấy giờ mới hỏi:
- Bà cháu lúc qua đời chắc chỉ có bà là người gần gụi?
Bà Nhiều gật đầu. Bà chậm rãi:
- Lúc đó là tháng tư. Sau khi chôn cất ông bác thì bà cháu bị cảm hàn, thuốc men chỉ có thuốc Nam, toàn rễ với lá, uống chẳng ăn thua gì...
- Ông bác nào, hả bà? Dân ngắt.
- Thì cái ông anh của cha cháu, cái ông ở Hà Nội ấy mà! Ông ấy về thăm bà cháu rồi nghe đâu đi Hưng Nguyên ít lâu. Cuối năm, ông ấy quay lại, trước dịp Giáng Sinh dăm ngày. Lúc đó, Mỹ ném bom khắp nơi. Thế là ông ấy ngã bệnh, đâu độ ra giêng thì mất. Bà cháu bảo ông ấy chẳng muốn sống nữa, cơm không ăn, nước không uống...Chết, bà con làng nước chôn ông ấy ở nghĩa địa làng cháu. Lúc chôn là lúc Mỹ đánh phá ác liệt. Chôn rồi, Ủy ban xã đi sơ tán ở đâu mò về, bắt ne bắt nét bà cháu...
Bà Nhiều thở dài, tiếp:
- Sau, là đến lượt bà cháu. Bà cháu ốm, không có ai săn sóc, nhờ người qua nhắn. Bà qua, nhưng cũng già rồi, đi đi về về khó khăn, cứ dăm ngày một bận, mỗi lần đến thì ở qua đêm. Khi chắc không qua được, bà ở lại với bà cháu những ngày cuối cùng. Bà cháu đưa cho bà một cái bọc, dặn thằng Dân sống mà về được thì trao lại, và nhớ bảo nó đi Hưng Nguyên tìm cha Nguyễn Trường Tín ở Giáp Ðoài có chuyện hệ trọng...
Nói đến đó, bà Nhiều vào buồng trong lục lọi một lúc rồi ra trao cho Dân cái bọc vải. Dân ứa nước mắt, tay gỡ nút buộc. Trong bọc, có quyển Kinh Thánh, cây thập tự làm bằng hai đốt tre buộc lạt. Và dăm bức ảnh có Dân, có Nhân khi còn thơ, có mẹ chàng lúc ấy chỉ mới quá đôi mươi, tóc để chấm vai, đứng cạnh hình một người ảnh bị cắt một nửa nên không thấy mặt. Bà Nhiều thẫn thờ:
- Tội cho bà cháu, lúc mê sảng cứ hỏi con Huyền đâu, thằng Dân đâu...Giêsu ma lạy Chúa lòng lành! Cuối cùng thì chính bà vuốt mắt, đọc Kinh Vực Sâu cho bà cháu đi yên ổn...
Dân ù tai, không nghe thấy gì nữa. Hình ảnh bà choáng ngợp khiến Dân bất động, tay chân tê cứng, nỗi xót xa trào lên nhận cho chìm cả thế gian. Tấm hình mẹ nhập nhòa hư thực. Dân nhớ mình từng mưu tính đầu hàng trước ngày dạt đến Bàu Bính, với cái hy vọng gặp lại mẹ trong miền Nam. Nhưng thế, có nghĩa là chàng đã có ý định bỏ mặc bà mình bơ vơ ở cái xã hẻo lánh đất Kiến Thụy này. Một niềm ân hận buốt nhói đâm vào tim Dân, mặc dầu rồi cuối cùng chàng có làm được thế đâu.
Tiếng bà Nhiều lại cất lên:
- Nhớ đi Hưng Nguyên, như lời bà cháu dặn, Dân nhé!
Dân nắm tay bà Nhiều, gật đầu, quên mất bà đã lòa chẳng thể thấy gì trong cái cõi người khốn khổ này. Ðứa bé lại khóc. Bà Nhiều ra sau, ru nó:
‘’ Bé bé mày ngủ cho lâu
Mẹ mày đi lội đồng sâu chưa về
Bắt được con trắm con trê...’’
giọng bà kéo dài ra lê thê như những ngày trước mặt. Ðêm hôm ấy, Dân lại nằm mơ. Cơn ác mộng chiến tranh trở lại, với tiếng hò hét ở Ngã Ba Máu. Dân quát lính ’’ nằm yên, khi hết pháo sáng là quơ tay, mũ sắt thì đâm, nón cối là ta!’’. Rồi Dân quơ tay, nhưng chỉ thấy tóc. Ðâm hay không đâm đây? Ðùi Dân bỗng đau nhói lên. Một người lớn tuổi, tay xụi xuống, đứng bên nhìn Dân thương xót trong tiếng kim khí lách cách.
Duyên ra hiên ngoài, nhìn quanh quẩn rồi cất tiếng gọi. Nghe Thành đáp, Duyên vòng ra sau vườn. Ngồi xổm, Thành cắm cúi nhổ cỏ dại, lưng quay về phía cầu ao sóng sánh nước ánh lên xanh biếc trong nắng hanh.
- Có việc gì vậy Duyên? Thành hỏi.
- Ngưng tay đã! Cầm bát nước chè đưa Thành, Duyên giọng hậm hực - em hỏi tí chuyện...
- Chuyện gì?
- Cái nhà anh Kiên Thường vụ xã ấy mà... Anh ấy hỏi thanh nữ cả xã đang xung phong ’’ xây dựng’’ mà em thì cứ lảng. Vậy muốn lấy lành hay lấy què?
Thành bật cười:
- Nó chớt mày đấy mà. Thế mày bảo nó sao?
- Em bảo em lấy què! Anh ấy gằn giọng hỏi, có phải anh Dân không? Em tức, em gật đầu...
- Cái con này, đoảng! Người ta đùa mà mày hỗng... Thế nó nghe, nó phản ứng thế nào? Thành hỏi.
- Anh ấy quầy quả bỏ đi, mặt tím lại - Duyên cười - Thật cho đáng đời, ai bảo...
Thành ngẫm nghĩ. Cả xã biết Kiên lân la với Thành là vì Duyên. Làm Kiên mất mặt, đúng là chuyện không nên. Giọng có chút lo ngại, Thành nhìn em:
- Mày nói thế, có ai nghe thấy không?
- Ờ, lúc đó có mấy đứa con gái. Chúng nó rũ ra cười! Duyên thích chí, tiếp – Có đứa còn ré lên, lấy què lấy cụt là phấn đấu đúng chính sách, đồng chí ơi...
Không nói gì thêm, Thành lẳng lặng châm thuốc lá. Cụt một tay như mình, Thành có thể đi cấy, thậm chí khỏe thì chân dẫm lên cái cày tay giong trâu cũng được. Cụt chân, còn hai tay thì đan rổ, rá, nong, nia. Hoặc làm gạch. Ông bố cứ giục Thành lấy vợ. Nhưng lấy ai? Thành sợ nhất là lòng thương hại. Và nhất là sự ngu ngơ của những cô gái quê cứ hay phấn đấu để được làng xã vỗ tay hô tiên tiến. Thình lình, Duyên cất tiếng:
- Anh Thành này, em hỏi cái này nhé!
- ...
- Lấy chồng cụt chân, liệu khi đẻ con nó có bị di truyền không?
Thành đang trầm ngâm mà cũng phải phá lên cười. Thương hại em, Thành nhịn cười, bảo:
- Không! Không sợ con cái cụt chân đâu! Nếu di truyền thế, thì cái đất nước anh hùng này sẽ đẻ ra toàn là bọn tật nguyền à! Nhưng mà mày phải suy tính chứ đừng nghe chị em xui dại. Lấy chồng thương binh thì sẽ vất vả lắm đấy, chẳng trông cậy gì được nhiều đâu!
Duyên vênh mặt:
- Em thì em chẳng sợ! Cứ thuận vợ thuận chồng, tát biển đông cũng cạn!
Thành buồn bã:
- Như tao, chỉ tát cái ao sau vườn cũng khó... Thôi, đừng nói chuyện trời biển nữa!
Nhìn Duyên đi khuất, Thành ngẫm lại cách em mình đối đáp với Kiên. Có lẽ nó nói thật chăng? Từ ngày Dân về, nó lăn xăn giúp Dân, mang khoai về ủ trong bếp nhà mình. Thỉnh thoảng vét được ít tôm ít tép, nó xẻ ra một ít, kín đáo mang sang nhà Dân, nói bố em bảo chia cho anh đấy. Chắc chắn là Kiên biết. Nhưng thế rồi sẽ rách việc. Công an xã vẫn là công an. Chúng nó kiếm chuyện thì có là Dũng sĩ diệt Mỹ cũng mệt chứ chẳng chơi.
Thành đứng lên rồi đáo qua xem cửa ngõ nhà bạn. Dân đã đi Hưng Nguyên mười hôm nay, nhờ Thành trông nhà hộ. Thật là tội, Thành thầm nghĩ. Xưa nay, Dân chỉ có bà ngoại. Này bà mất rồi, Dân lủi thủi vào ra như chó vắng chủ, lắm khi trông như người bị hớp hồn. Khi ngồi nói chuyện với nhau về tương lai, Dân chỉ thở dài. Một hôm, Dân bảo:
- Khi xong cấp 3, tao chỉ muốn đi học tiếp. Nay chẳng hiểu có được không?
Thành chua xót:
- Còn tao, xung phong đi bộ đội lúc học hành chưa ra đâu với đâu. Bây giờ, chẳng nhẽ lại cắp cặp đi học lớp 8 với mấy đứa trẻ con?
- Què cụt thì phải bù trừ bằng cái đầu, mày ạ! Tạm thời, tao sẽ nhận làm cho Hợp tác xã... Ông cụ mày bảo chuyện chấm công phức tạp là phức tạp thế nào?
- Mày biết, dây mơ rễ má với cán bộ trong Ủy ban rất là đông trong xã mình. Ai cũng muốn có phần hơn, nhất là bà Chủ tịch. Gay nhất là đất Hợp tác xã, năm phần trăm chia để nông dân canh tác kiểu tư hữu. Chia đất, toàn là chia cho gia đình có liên hệ với cán bộ xã. Ruộng năm phần trăm xanh rì, trong khi đất Hợp tác xã thì lắm lúc như bỏ hoang. Đến khi thu hoạch, Hợp tác xã làm chẳng được bao nhiêu, chia công điểm cuối vụ là cả xã so bì, rối tinh lên...Mà của đáng tội, có được bao nhiêu đâu! Toàn chuyện gà què ăn quẩn cối xay thôi, nhưng nhức đầu lắm. Có lẽ tay Bí thư thấy mày chỉ có một mình, lại Ðảng viên, nên cho rằng sẽ ít điều tiếng. Khi tao làm, thì dân xã đổ vấy cho tao là tao thiên vị chấm công nhiều cho nhà cái Tình để ve vãn lấy nó. Thế là sau vụ gặt, nó xấu hổ trốn lên Hải Phòng...
Nhìn qua song cửa nhà Dân, Thành chua chát, rớt mồng tơi thì có gì mà phải sợ trộm với cắp. Bỗng có tiếng gọi. Quay lại, Thành thấy Kiên đi tới, miệng hỏi:
- Anh có biết anh Dân đi đâu không?
- Biết!
- Anh ấy đi gặp ai nhỉ?
- À, đâu là một ông chú họ xa...
- Tên ông ta là gì?
Thành đáp không rõ, rồi chột dạ nhớ lại câu chuyện Duyên mới kể. Quàng tay lên vai Kiên, Thành nói giọng khẩn khoản:
- Cái Duyên em mình nó dại mồm, cứ bộc tệch bộc toạc. Vừa rồi, mình đánh cho nó một cái tát, dặn phải đi xin lỗi cậu. Nay gặp, để mình thay nó xin cậu đừng chấp!
Ðược báo, cha Tín tất tả từ ngoài đồng về nhà Chung. Nhìn qua song cửa, Tín chỉ thấy lưng một người mặc áo bộ đội, đầu gục trên cánh tay, chân duỗi ra. Tín nhẹ nhàng bước vào. Nghe tiếng ngáy, Tín rốn rén bước tới. Trên một nửa khuôn mặt người nằm ngủ, râu ria đâm ra tua tủa. Mắt nhắm nghiền, anh ta thở phì phò. Tín lẳng lặng ngồi đợi. Lát sau, anh ta cựa mình, tay đụng vào chiếc nạng, tiếng rơi đập vào sàn gạch khiến anh ta nhổm dậy. Tín bấy giờ mới thấy hết khuôn mặt. Một nét thân quen khiến Tín xáp lại, giọng bồi hồi:
- Có phải là Dân đấy không?
Nhìn Dân lúng túng gật đầu, Tín hai tay nắm lấy vai, nhìn vào tận mặt, miệng mím lại:
- Chú đây... Chú là Văn, em của cha con tên là Nguyễn Trường Võ ở Bùi Chu. Bà ngoại con có bao giờ nói cho con rõ không?
- Không! Võ thì không phải. Tên cha tôi là Phan Thượng Chính!
- Thôi, thế là đúng rồi! Võ đi làm Cách Mạng đổi tên là Chính. Còn mẹ con, tên là Huyền, phải không?
Nhìn Dân gật đầu, Tín bấy giờ ôm chầm lấy, nước mắt ròng ròng, cắn răng kìm xúc động. Buông Dân ra, Tín lùi lại nheo mắt ngắm. Bấy giờ, Dân mới nhìn Tín, ngờ ngợ như đã từng gặp. Tín nhặt chiếc nạng dưới đất, bùi ngùi:
- Con bị thương hả? Bao lâu rồi?
Dân đáp. Tín trầm ngâm, hỏi:
- Thế con đã về Kiến Thụy gặp cha con chưa?
Ngớ người ra, Dân kể từ ngày tấm bé, bà ngoại chỉ bảo cha mình đi Liên Xô rồi không về nữa. Còn khi Dân trở lại Kiến Thụy thì bà đã mất, chỉ trối lại dặn là phải tìm cha Nguyễn Trường Tín có việc quan trọng, không hiểu là việc gì. Dân nhấn mạnh:
- Tín, chứ không phải là Văn...
Tín cắt ngang:
- Xưa tên chú là Văn, sau mới đổi thành Tín. Nhưng cha con không ở Kiến Thụy thì đi đâu?
Dân đáp, có ông bác nhưng chết trước bà, chính tay bà chôn cất. Chợt hiểu ra, Dân giật bắn người, thất thanh:
- Thế thì ông bác đó là cha con rồi chứ còn ai vào đấy nữa!
Tín lặng đi, lẩm bẩm:
- Lạy chúa tôi, thế là xong... Chúa tôi cứu rỗi cho!
Ngả người vào lưng ghế, Dân cứng ra, cổ họng nghẹn lại. Nhắm mắt, Dân cố tìm lại hình ảnh ông bác. Dịp Tết ngày nào bỗng chập chờn. Chiếc tàu thủy làm bằng nhôm thả trên ao nước chạy quanh quanh. Dân hò, ra khơi nào, ra khơi. Và ông bác, lúc nào cũng trầm ngâm, nhìn mình với cặp mắt buồn rười rượi. Ô, thì ra ông bác là cha mình. Nhưng tại sao bà lại không nói, mà bảo cha ở Liên Xô? Có phải đó là điều bà dặn là quan trọng? Dân níu lấy tay Tín, miệng hỏi dồn dập, mắt trợn lên trừng trừng. Tín gỡ tay, lẳng lặng đến quì trước bức tượng Giêsu treo trên bức tường vôi trắng ố những vết nước mưa lâu ngày chưa quét lại, miệng lẩm nhẩm cầu nguyện.
Ðêm hôm đó là một đêm dài nhất đời Dân. Tín kể lại Chính, cha Dân, đã về Hưng Nguyên quí cuối năm 72, ở mươi ngày rồi ra Kiến Thụy. Khi chia tay, Chính nói với Tín rằng mình chỉ còn mong ước độc nhất là chiến tranh chấm dứt để có hy vọng gặp lại Huyền, Nhân và Dân. Viễn vọng ký kết Hiệp Ðịnh Paris tiếp cho Chính một nguồn sinh lực tưởng đã cạn kiệt sau hơn mười năm đi tù vì cái tội đã không ủng hộ đường lối giải phóng miền Nam bằng bạo lực Cách Mạng. Tín ngưng một lát sau, rồi thì thào:
- ....Có lẽ khi Mỹ tái oanh tạc miền Bắc, cha con đã tuyệt vọng chăng? Nói như nói một mình, Tín thả mắt nhìn vào khoảng không trước mặt.
Nghe Dân hỏi, Tín kể chuyện trận đánh cướp trại lính Nam Ðàn hơn bốn mươi năm trước khiến Nguyễn Trường Võ lấy tên Phan Thượng Chính, một đảng viên Tân Việt đã hy sinh. Sau, Chính theo Quốc Dân Ðảng, tham gia khởi nghĩa Yên Bái, rồi trở thành đảng viên Ðảng Cộng Sản Ðông Dương trong nhà tù Sơn La. Thời Cách Mạng tháng Tám, Chính là một trong những cán bộ chủ chốt giành chính quyền ở Thủ Ðô, sau lên Việt Bắc tiếp tục kháng chiến chống Pháp. Tín thở dài:
- Trước chiến thắng Ðiện Biên Phủ, bà nội bị qui địa chủ. Chú tin để cha con về cứu bà, nhưng cha con không làm được, lại suýt bị mất mạng, may mà chỉ bị đánh đến xụi một cánh tay...
- ...xụi một cánh tay!
Dân nhắc lại, kinh hoảng. Chàng nhớ lại ngày chàng bị cưa chân mà không có thuốc mê ở bệnh viện 203, gần đường 9 Nam Lào. Trong cơn đau đớn cùng cực, chàng đã thấy một người xụi một tay đứng nhìn mình thương xót. Rồi mới hôm nào ở nghĩa địa làng, cũng hình ảnh người đó thoắt hiện thoắt biến khi chàng ra thăm mộ bà ngoại.
Tín vào căn phòng bên cạnh, lát sau đi ra, tay cầm một cái phong bì. Ngồi xuống trước mặt Dân, Tín chậm rãi, giọng ngậm ngùi:
- Cha con dặn chú nếu sau có gặp con, hay gặp Nhân thì trao tận tay. Ðây là tất cả những gì cha con để lại!
Hai tay, Dân đỡ lấy. Gia tài của chàng chỉ có vậy, nhưng sao một cái phong bì mà nó nặng đến độ chàng sụp người quị xuống. Ðêm hôm ấy, Dân đọc một bức thư tuy dài nhưng vẫn chẳng đủ để đo hết nỗi cay đắng một người không mang lương tri mình ra làm trò thỏa hiệp.
Tiếng nổ òa ra, không khí thành sóng. Dân cố mở mắt, nghe mình gọi tên Tạ nhưng âm thanh cứ loang xa như những gợn nước. Không biết bao lâu sau, Dân choàng dậy. Nhìn lên, những hòn đá tảng. Bên cạnh là công sự, bao cát xếp chồng lên nhau che được nửa thân người. Vẫn tiếng pháo, nghe như pháo không giật 106 ly. Như vậy, mình không còn ở Ngã Ba Máu nữa rồi. Có lẽ trung đội đã lùi về Cổ Thành. ’’ Tạ, Tạ ơi!’’ Dân lại gọi. Tiếng đại liên M-60 át đi. Rồi F-4 xẹt ngang. Lửa na-pan bốc lên đỏ rừng rực. Dân định lăn người, nhưng đau, đau không thể tả xiết. Có lẽ ’’ bị’’ rồi. Dân cố, một nửa người nhói lên, mắt nổ đom đóm.
Ðến lúc tỉnh dậy, người Dân trồi lên sụp xuống dập dình trong tiếng lội nước bì bõm. Ai đó bảo ‘’năm mươi thước nữa là đến bờ’’. Bờ nào? Chẳng lẽ mình đang băng sông Thạch Hãn? Ðêm âm u. Chợt pháo sáng lóe trên trời cao. Dòng sông bỗng lấp lánh hàng hàng những chấm sáng. Tiếng trực thăng quạt gió. Súng nổ hàng tràng. Pháo sáng tắt. Ðêm đen làm nền cho những luồng đạn đỏ tua tủa cắm xuống mặt nước, mang hình chiếc nón chụp xuống dưới. Vẫn tiếng bì bõm. Dân có cảm tưởng mình bị nhấc bổng lên. Một tiếng trong trẻo cất lên ‘’...các đồng chí theo tôi. Từ đây đến đường 9, ta đi lối tắt’’. A, ôi cô giao liên. Bài hát ca ngợi người chiến sĩ đó vẳng lại, thắm thiết nhưng hùng hồn. Dân nghe thấy mình hỏi ‘’ Ði về đâu thế, đồng chí?’’ nhưng không ai trả lời. Lát sau, tất cả bất động. Dân mở mắt, trời hằng hà sao lấp lánh. Sao Bắc Đẩu nằm chỗ nào? Còn chùm Ngưu lang - Chức nữ đâu? Có ai đó động vào người Dân. Lại đau. Miệng Dân khô ran, hả ra nhưng không hỏi xin nước được. Tiếng ồ ồ bên tai ’’Anh tiêm cho thương binh này thuốc cầm máu. Xem nhịp mạch, nếu quá yếu thì tiếp một ít huyết thanh’’.
Trời sao lơ lửng trôi theo nhịp cáng cứu thương. Ði, cứ đi. Suốt đêm. Dân khi tỉnh, khi mê. ’’ Sống mà về được thì tìm em ở Ý Yên nhé’’, tiếng Thắm văng vẳng. Khỏi phải nói, anh không về Ý Yên thì về đâu, hả Thắm. Anh sẽ sống, không như Sơn ở Bầu Bính. Em sẽ sống, không như Giang ở Bàu Bính. Và anh sẽ đi tìm những cánh bướm đẹp nhất xuyên con đường xẻ dọc Trường Sơn. Nhất là, anh hứa, anh sẽ tìm ra loài bướm cánh đen trên có một trái tim màu đỏ. Chính Ủy đơn vị có kiểm điểm cũng mặc. Chưa yêu thì khoan yêu. Giời ơi, khoan thế nào, hả Thắm.
Sáng ra, Dân có cảm tưởng mỗi lúc lên một cao. Trong đoàn tải thương, một người nói ‘‘...bên kia là Trường Sơn Tây, sẽ giao ban với một đơn vị mới’’. Thương binh nay phải buộc cho thật chắc vào cáng đang di chuyển trên những dốc đá tai mèo. Đội cáng thương nay là những cô gái người dân tộc. Chân trần, họ vẫn bước băng băng, hồn nhiên cười cứ như chiến tranh dưới kia không liên quan gì đến họ. Ðoạn đường khó nhất là khi leo lên đỉnh núi. Dân mở mắt. Thân gần như dựng đứng. Dân nhìn, ở dưới kia, ôi chao, cây xanh và vực sâu. Chỉ một cái trượt chân, hỡi hai cô gái cáng thương, là cả ba chúng ta sẽ hiến mình cho thần chết. Dân nhắm mắt lại. Thôi, nhìn làm chi. Vực đủ rộng và sâu để chôn những người hụt bước vì quên cái chết tinh quái rình mò. Cứ thế leo trên lưng tử thần. Leo, leo, chân bám chặt vào đất, mắt ngẩng nhìn lên cho đỡ chóng mặt. Đến quá trưa, đoàn lên đến đỉnh. Bên kia là lãnh thổ Lào, yên ổn hơn nhưng vẫn bị bom và không kích, nhất là ở những tụ điểm có kho vật liệu. Nghỉ được hơn một tiếng.Viên bác sĩ giọng ồ ồ đến cạnh Dân, tay bắt mạnh, mắt nhìn đồng hồ. Lát sau, thêm một y tá trợ y. Lại tiêm. Thuốc tê. Thuốc cầm máu.Và tiếp huyết thanh. Dân định hỏi, nhưng không mở miệng được. Dân vẫn chưa biết đích xác phần cơ thể nào của mình bị thương.
Lên đường. Lệnh phát ra, đoàn cứu thương tục tục sửa soạn. Lần này, xuống dốc Tây Trường Sơn. Eo ôi, xuống dốc mới khổ. Người cáng thương đi trước phải ngả lưng về phía sau ghìm, trong khi người đi sau co người kéo ngược cáng lên, chân vẫn từng bước bám vào con đường đá nhọn tua tủa. Bụng Dân thót lại. Như một phản ứng tự động, Dân khẽ xoay người. Cô gái người dân tộc đi trước trọ trẹ kêu ’’... Đừng! Nhằm mắt lại anh chiến sĩ!’’. Các cô đã quen công việc tải thương, bình tĩnh tiếp tục xuống những con dốc định mệnh, miệng vẫn cười tươi tắn. Xuống hết con dốc gần như thẳng đứng mất ba giờ. Ở dưới, một đội tải thương khác tiếp tục công việc. Vị bác sĩ phân loại thương binh, trường hợp cấp cứu có xe trở đi. Dân lên xe, và nửa đêm thì đến được một bệnh viện nằm trong rừng. Từ đó, Dân hôn mê. Khi tỉnh lại, Dân có cảm tưởng hàng nghìn con kiến lửa đốt lục phủ ngũ tạng. Dân nghe loáng thoáng ‘’nhiễm độc mất rồi!’’. Một bác sĩ đeo kính vạch mắt Dân ra chiếu đèn pin vào. Ông ta quay lại nói với trợ y ‘’... Phải mổ ngay. Sửa soạn tiếp máu’’. Dân lại thiếp đi. Chàng lơ mơ, nghe mình gọi tên Thắm. Ai đó đến cạnh, mắt nhìn chàng thương xót. Chàng không rõ mặt nhưng người đó xụi một cánh tay, chỉ nhắc đi nhắc lại ’’...Phải sống! Nhất định sống! ’’. Rồi trời ơi, chưa bao giờ có một nỗi đau ghê gớm đến thế. Mắt chàng nổ hàng vạn con đom đóm đỏ. Còn đầu, nó như vỡ ra rồi văng lên như cát bay túa lên từ mặt đất bị bom xới lên. Người đàn ông xụi một cánh tay vẫn đứng đó.
Dân vùng dậy, quơ tay kêu ‘‘Cứu tôi với! ’’, đụng vào ai đó đang nắm lay chàng. Tín kéo cho Dân ngồi lên, giọng thân ái:
- Con nằm mê đấy! Gớm, mê gì mà cứ hét lên như vậy?
Ðưa tay xoa mặt cho tỉnh, Dân nhìn ra. Bấy giờ, Dân thấy Tín chẳng khác gì người đàn ông xụi một tay. Chàng lẳng lặng gấp bức thư cha chàng viết, bỏ vào chiếc phong bì, thẫn thờ:
- Thưa chú, lại một cơn ác mộng của lính!
Thầm nhủ có lẽ cha chàng - người đàn ông xụi một tay - từng có mặt trong nhưng giây phút hiểm nghèo nhất của đời mình, Dân áp phong bì vào lòng, cảm thấy bớt cô độc. Tín thủng thỉnh:
- Chú phải đi dâng lễ!
- Ngay bây giờ? Dân ngạc nhiên.
- Ừ, lễ sớm lắm, trước kẻng Hợp tác xã gọi ra đồng! Giáo dân đi lễ vì thế ít, nhưng vẫn có!
Tín và Dân sang nhà nguyện. Giáo dân, chỉ có hai đang khom người quì. Một ông cụ và một bà cụ. Cả hai lưng đã còng, đứng lên khi Tín bước vào. Dân ngừng lại ở ngưỡng cửa, không làm dấu thánh. Tín nhìn Dân, nhưng Dân lắc đầu. Tín hiểu, chỉ nói:
- Thôi... Chúng mình chắc còn thời gian và nhiều điều để nói.
Tín đưa Dân về thăm mộ phần họ Nguyễn ở thôn Bùi Chu. Chỉ vào mộ ông cố, Tín dịch nghĩa câu chữ Nho khắc bia:
Anh hùng dụng võ phi vô địa
Chiến thắng thành công tắc hữu thiên
là kẻ anh hùng chớ sợ không đất dụng võ, nhưng thành bại ra sao thì cũng tùy Trời. Tín kể đây là hai câu ông cố Nguyễn Trường Tộ làm khi viếng mộ Hạng Võ, và nói cho Dân nghe về những bản điều trần của ông thời Tự Ðức. Ðến đời Đồ Cửu, Tín tiếp, nước mình thành thuộc địa, và như mọi người yêu nước, ông Đồ cũng tham gia công cuộc giành độc lập.
- Khác với cha con, ông không chấp nhận con đường bạo động đề xướng bởi Phan Bội Châu mà chủ trương theo khuynh hướng ‘‘chấn dân khí - hưng dân trí - hậu dân sinh’’ của Phan Chu Trinh... Còn đây là mộ bà nội. Bà con chết trong Cải Cách Ruộng Đất...
Làm dấu thánh giá, Tín hồi tưởng ngày bà đồ chết độc chỉ có một con chó bên cạnh. Thời gian đó, Chính đang trên đường về Thanh Hóa. Tín kể cho Dân nghe về Xoan, người vợ cả của Chính. Ngậm ngùi, Tín chép miệng:
- Con có một người chị, tên Bình Minh, nhưng đã hy sinh trong chiến dịch Ðiện Biên. Chị con chết mất xác...
Dân bàng hoàng, không ngờ gốc tích của mình lại là từ cái thôn Bùi Chu hoang vắng và những nấm mồ nằm đây. Nhưng còn một điều khiến chàng trăn trở. Mím môi, Dân hỏi:
- Chú có biết vì sao mẹ con mang Nhân đi Nam không?
- Ðến cha con cũng chẳng biết. Khi cha con về đây, chú hỏi thì cha con cũng chịu...
Một niềm tủi hận Dân giấu kín trong lòng suýt bật ra thành lời hờn oán. Dân kìm lòng, quay mặt nhìn ra xa, thở dài:
- Chắc ‘‘hoàn cảnh’’ lắm! Mẹ con và Nhân ở Sài Gòn có lẽ yên ổn chứ không đến nỗi nào, nhưng tin tức thì con vẫn chưa hề biết...
Hai chú cháu lững thững đi về Giáp Ðoài sau khi quét dọn những ngôi mộ cho sạch sẽ. Vừa bước, Tín vừa hỏi:
- Dân định thế nào? Nay Dân tính toán tương lai ra sao?
Dân nói về dự định xin đi học và kể được phổ biến chính sách Nhà Nước đặc biệt dành ưu tiên cho thương binh. Tín chặc lưỡi:
- Thế còn lý lịch? Nhất là chuyện cha con...
Kể cho Tín nghe khi về Kiến Thụy cha chàng đã cẩn thận không tiết lộ tung tích, Dân đăm chiêu:
- ...chắc xã cũng chưa xác định được vì khi chôn cha con, Ủy Ban xã đi sơ tán, lúc về thì vẫn phải đối phó với bom đạn là chính, không quan tâm gì...
- ...Thế cũng tạm ổn, lạy Chúa. Nhưng còn cái gốc công giáo?
Nhớ lại lúc Dân từ chối không vào dâng lễ, Tín chua xót tiếp:
- Ờ, cái gốc ấy nay cũng phai nhạt lắm rồi. Bây giờ, tôn giáo là tôn giáo mới của giai cấp vô sản, cái kiểu vô sản mất thì không mất gì mà được, là được cả thế giới, nghe hấp dẫn hơn Thiên Ðàng nước Chúa nhiều! Dân có tin là thế không?
Dân lắc đầu, lẳng lặng nhìn lên trời. Mây tụ lại tạo ra đủ loại hình khối, lúc là những con thú nhe nanh múa vuốt, khi thành những con người há miệng, lưỡi lè, trợn mắt trừng trừng cắm xuống mặt đất cái nhìn hung hãn. Không! Trải qua cuộc nghiệm sinh của thân mình, Dân chỉ thấy mất, chẳng được một chút gì dẫu Dân nay hiển nhiên là một thứ vô sản chính cống. Thế mà lạc mẹ, mất cha, đến khi xin đi nghĩa vụ để tìm đường tiến thân cũng phải biếu bà Bí thư ngày xưa cái nhẫn mẹ để lại như kỷ vật duy nhất. Rồi năm năm, lúc nào cũng phân biệt địch - ta, một bên thì hò bảo vệ tự do, bên kia hô giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, hỏi ai - thắng – ai với đủ thứ súng đạn ngoại bang. Dân chống mạnh chiếc nạng xuống đất, nhìn ống quần phất phơ quanh cái chân bị cụt, lại lắc đầu. Chúa ơi, nếu thực sự Người quyền năng vô biên thì tại sao trái đất này lại đầy rẫy những khổ đau như thế? Hay là Chúa tôi cũng bất lực để những kẻ tông đồ mang những huyễn vọng ra mê hoặc hòng thu vào trong tay cái quyền lực trần gian làm bằng máu và nước mắt? Dân ngừng bước. Nhìn vào mắt Tín, Dân thình lình hỏi:
- Thiên Chúa là gì? Và đã mang lại được gì cho nhân loại?
Tín ngạc nhiên, không ngờ Dân tra vấn quyết liệt đến thế. Nhỏ nhẹ, Tín đáp:
- Thiên Chúa là tình nhân ái! Ðiều mang lại cho mỗi con người là điều chỉ thấy được khi cái sống kề cận sự chết, nói cho gọn...
Dân nhìn chú, không giấu được ánh mắt hoài nghi. Hai người lại tiếp tục đi. Về đến Giáp Ðoài, trời đã xế trưa. Nghe một giáo dân thường giúp việc cho nhà thờ đến rỉ tai, Tín bước vội vào nhà nguyện. Lưng quay về phía cửa, bà cụ lưng còng đang quì, tay lần tràng, miệng lẩm
nhẩm đọc kinh. Nghe tiếng động, bà chậm rãi đứng lên, mặt thư thản, miệng nhếch lên chào. Tín lại gần rồi cúi xuống. Bà cụ thì thào, chỉ thấy Tín gật đầu. Ðợi bà cụ đi ra xong, Tín bước đến cạnh Dân, giọng xúc động:
- Ông cụ chồng bà vừa ở đây sắp về nước Chúa. Dân sẽ thấy điều Thiên Chúa mang lại tận mắt...
Tín vào buồng, lát sau ra mang theo một cái bọc, ra dấu cho Dân đi theo. Tín nay mang trang phục một vị linh mục, một tay cầm Kinh Thánh, tay kia cây Thánh Giá bằng gỗ mun có nạm đồng. Bà cụ ngồi cạnh chiếc trõng, mái tóc bạc phơ tỏa sáng một góc nhà. Trên trõng, ông cụ nằm, chiếc chăn trải từ ngực xuống phủ hai chân. Tín đến bên, cúi xuống. Một nỗi vui chợt lóe trên cặp mắt nửa khép nửa mở.
Tín vẩy nước thánh, chậm rãi ngồi xuống chiếc ghế để sát bên trõng. Mở cuốn kinh, Tín bắt đầu đọc. Nét mặt ông cụ hấp hối thư giãn dần. Dân không hiểu gì, để hồn mình lắng vào tiếng trầm bổng buổi rửa tội cuối cùng một đời người. Thật lạ, bà cụ bình tĩnh chứ không kêu khóc như những người đàn bà sắp mất một kẻ thân yêu. Bà cụ cũng lẩm nhẩm cầu kinh. Dân nghe loáng thoáng bà kêu Ðức mẹ Maria. Tín nghiêng người, làm dấu Thánh trên khuôn mặt nhăn nheo của một trong số hiếm hoi vài giáo dân còn đi lễ vào lúc tinh mơ trước khi Hợp tác xã đánh kẻng.
- Nhân danh Cha, và Con, và Thánh Thần... Amen.
Dân nhìn qua vai Tín. Ông cụ nhếch cười, cái cười hạnh phúc. Bà cụ đến nắm tay ông, cũng cười, nhẹ nhàng. Tín quay sang Dân, thì thầm:
- Sống nhân ái thì khi chết, thanh thản về bên Chúa. Đức tin khi đó cứu rỗi phần hồn. Ðó là điều Thiên Chúa mang lại cho con người trong giây phút trọng đại nhất của mỗi đời sống, là lúc chạm mặt với hư vô, lênh đênh vào cõi không ai biết, không ai hay...
Tiếng lộc cộc trên con đường làng khiến bụng Duyên thắt lại. Không nói không rằng, Duyên tung cửa chạy ra đồng tìm Thành, miệng reo, anh Dân về rồi. Vắng Dân cả tháng, Duyên khám phá ra là mình thấp thỏm chờ đợi một điều gì chính nàng cũng không biết chắc. Rửa hai bàn chân đầy bùn, Thành xỏ đôi dép Bình-Trị-Thiên, tất tả đi về. Xồng xộc đẩy cửa vào nhà Dân, Thành gọi thì Dân ở sau vườn bước lên.
- Chuyện làng xã có gì mới không? Dân hỏi.
- Cũng vẫn vầy vậy! Trừ một chuyện...
- ???
- ...từ từ, rồi tao sẽ kể! Tối nay qua nhà tao ăn cơm. Ông cụ nhà tao cứ nhắc mày. À, anh Cự xưa ở đơn vị mày đã về Nghi Dương, ghé đây hỏi thăm mày!
Dân nhớ ngày mình được kết nạp và thành Trung Ðội trưởng. Không có Cự là người đề bạt thời đó, chắc gì Dân đã thành đảng viên hôm nay. Hình ảnh Thắm chợt ập về, như một cơn giông. Giữa tiếng mưa ngày nào, tai Dân lại văng vẳng tiếng Thắm réo lên ở Vĩnh Mốc gọi mình ngày chia tay. Xua tay để trở về thực tại, Dân hỏi Thành:
- Anh ấy nguyên lành hay cũng sứt mẻ như bọn mình?
- Nguyên lành, chỉ có cái là cứ ho sù sụ. Anh ấy bảo xưa bị sức ép của bom nên bây giờ thở có chút khó khăn!
- Thế là may, Dân thở ra.Ðược, tối tao qua chào ông cụ nhà mày!
Dân vào nhà lấy quần áo rồi ra sau vườn múc nước chum tắm giặt. Sạch sẽ, Dân đi ra nghĩa địa tìm mộ cha. Nơi mộ phần chôn người ‘‘ngoài’’ là chỗ giáp với con đường dẫn qua làng bên. Trông đám gò đống, thật khó biết mộ ai. Dân vạch cỏ, và không biết vì sao chàng thụp xuống một nấm đất cỏ vàng mọc quanh, linh cảm là mộ cha. Rút bó nhang ra, chàng châm lửa, khấn cha có linh thiêng xin về chứng giám trước khi cắm vào lòng đất. Một cơn gió thốc từ trời thổi xuống thế nào khiến đầu những cây nhang đã tắt lửa chợt bùng lên cháy. Ngạc nhiên, Dân nhìn theo những làn khói mỏng nhuộm xanh không trung, hy vọng sẽ thêm một lần thấy h?