19 - Cờ tàn
Ra khỏi phi trường, Nhân vẫy taxi. Thầm nhủ giờ này chắc mẹ chưa đóng cửa tiệm, Nhân bảo taxi chạy về Ngã Sáu. Hơn chục năm nay, Huyền mở một cơ xưởng nhỏ chuyên bọc đệm cho đủ loại ghế, yên xe gắn máy, xích lô... Nói là xưởng, nhưng thật ra là hai gian sau một căn nhà mặt tiền trên đường Lê Văn Duyệt. Thợ có dăm ba người. Chia nhau cắt da, nylông, vào khuôn, đạp máy khâu...họ loạch xoạch từ sáng cho đến khi thành phố lên đèn. Công việc xưởng khá chạy. Khách hàng là tài xế taxi, dân xích lô đạp, xích lô máy và một loạt hãng xe đò chạy đường Sài Gòn - Lục Tỉnh.
Taxi đi dọc đường Trương Minh Giảng. Vừa qua Ðại Học Vạn Hạnh, xe cộ chậm lại, còi bóp inh ỏi. Giữa những hai hàng xe đủ loại xuôi ngược, một ông già rách rưới đứng giữa đường, miệng hò hét, tay chỉ trỏ. Tài xế kêu ‘‘Lại ông nội nhà thơ!’’. Thấy Nhân ngạc nhiên, tài xế tiếp ‘‘...thì Bùi Giáng đó! Ổng khùng, đứng giữa hai làn xe huýt còi chỉ đường. Tháng trước, ổng bị đụng, nằm nhà thương. Ra, ổng lại zậy... Thiệt!’’. Xe taxi chờn tới. Anh tài xế hạ kính xe, vừa cười vừa la ‘‘Sư phụ!’’. Bùi Giáng quay nhìn, mắt kiếng hấp háy, hả miệng móm mém ra cười. Thình lình, Giáng nghiêm mặt, quát lớn ‘‘...cứ thế này thì bây đâm nhao chết hớt. Hiệp định Paris ký rồi mà bây lơ đi, bộ tính xuống âm phủ cả sao? ’’.
Vòng xuống, xe rẽ trái trên Lê Văn Duyệt. Ngang vườn Tao Ðàn, bỗng dưng Nhân hồi hộp. Khi ra khỏi trại tù binh, Nhân điện thoại ngay về nhà nói chuyện với mẹ, thoáng nghe tiếng ấm ức phía đầu máy bên kia. Nhảy xuống xe, Nhân bước vội vào cửa tiệm. U già xô ra:
- Ối, cậu Nhân đây rồi. Ôm choàng lấy Nhân, u ơi ới gọi... Mợ ơi! cậu Nhân về đây này!
Huyền tất tả từ dưới xưởng chạy lên. Ðứng sững ra nhìn, Huyền nuốt nước bọt kìm một tiếng nấc, nhưng nước mắt ứa ra. Từ ngày Nhân ra Huế là Huyền bặt tin. Nhờ người lên Bộ Tham Mưu hỏi, cả tháng sau Huyền được báo không có tên Nhân trong số lính dù thương vong. Và thế có lẽ là Nhân bị bắt. Bây giờ, Nhân bằng xương bằng thịt, gầy đi, đen đủi, nhưng nguyên vẹn. Huyền tiến đến, tay nắm chặt lấy Nhân. Vỗ nhè nhẹ lên tay mẹ, Nhân mỉm cười. Dẫu không son phấn. mẹ chàng vẫn còn nét sắc sảo của người đàn bà một thời hồng nhan. Huyền choàng tay ôm lấy vai Nhân, giọng dịu dàng:
- Con về nhà trước nghỉ một tí. Mợ sẽ về ngay.
Quay sang u già, Huyền dặn:
- U đi chợ nhớ mua những món Nhân nó thích!
U già ra cửa, đợi Nhân, miệng bỏm bẻm nhai trầu. ‘’U sẽ nấu cho cậu một bát canh thiên lý...’’, u nói, mắt nhìn trìu mến. Nhân cười, vẫy xích lô cho u già rôi thong thả khoác balô, dọc xuống Võ Tánh. Như ngày còn thơ ấu, Nhân vào cái ngách cạnh phở 79, đi tắt sang Lê Lai, lối Nhân thuộc làu. Mở khóa ngoài, Nhân đẩy cửa, miệng gọi Lương. Không có tiếng đáp.
Nhân lên lầu ba, vào căn phòng riêng nơi Nhân học, ngủ, mơ mộng... thời niên thiếu. Không có gì thay đổi, vẫn kệ sách đủ loại. Một bên sách y khoa. Bên kia là truyện. Tay vuốt ve lên gáy những quyển sách phớt bụi, Nhân thấy lòng mình êm ả lắng xuống. Dòng nước từ mạch ngầm một ngọn nguồn sâu thẳm từ từ ứa lên, tràn đầy, trong veo, ngọt ngào. Rút một cuốn sách. Lạ chưa, đúng quyển sách Bùi Giáng dịch Hoàng Tử bé của St-Exupéry. ‘’ Hãy vẽ cho em một con cừu!’’, hoàng tử hỏi. Tay phi công lạc lõng trong sa mạc ngạc nhiên: ‘’ Một con cừu?’’. ‘’ Đúng thế, một con cừu...’’.
Nhân đẩy cửa phòng bước ra sân thượng. Nắng Sài Gòn chói chan trên mái nhà thờ Huyện Sĩ. Bên kia, ga xe lửa với những đường rai ngoằn nghèo và dăm toa tầu chơ vơ. Tất cả, vẫn còn đó. Vẫn vậy. Nhân khép hờ mi mắt, không tưởng tượng lại được cánh rừng vây quanh trại K7. Mái chuông nhà thờ La Vang. Bờ giao thông hào văng vẳng tiếng hô ‘‘ hàng sống, chống chết’’. Những đồi cát trắng xóa đầy xác người thối rữa, rồi tiếng đại pháo đủ loại cự ly... Tất cả biến mất, như khi mở mắt thức dậy sau một cơn ác mộng. Thì ra, Nhân thầm nhủ, vậy mọi chuyện chỉ là một cái chớp mắt. Kể cả chuyện tử sinh.
Thu xếp xong công việc, Huyền tất tả về nhà thì u già đi chợ cũng vừa đến đầu ngõ. Nàng lên phòng Nhân, thấy con thiu thiu ngủ, người vẫn mặc bộ quần áo rằn ri của binh chủng Dù. Xuống bếp, Huyền tự tay nấu, lòng thanh thản vơi được nỗi lo âu từ ngày Nhân lên đường ra mặt trận Quảng Trị. Quay đi quay lại, thế mà đã gần một năm. Ðêm Giáng Sinh, Huyền quì dưới chân tượng Ðức Mẹ cầu nguyện cho hòa bình và xin ơn trên che chở để Nhân bình yên. Khi đó, Hà Nội bị bom B-52. Trên đài truyền thanh Sài Gòn, thông tin về chiến sự bỗng mang giọng điệu gỡ gạc của một tay cờ bạc về sáng chưa đến độ trắng tay. Người ta đồn, thế là Mỹ không ký Hiệp Ðịnh Paris. Ít lâu sau, có tin Kissinger qua Paris. Dân Sài Gòn xì xào Cộng Sản Bắc Việt xin hàng. Và ký kết Hiệp Ðịnh Paris, người ta bàn, chẳng qua chỉ là chuyện ngưng bắn, Mỹ không thể bỏ Việt Nam được.
Ðến trưa, Lương đi học về. Biết Nhân trên lầu, Lương nhảy ba bước một lên. Lát sau, hai anh em xuống nhà dưới. Nhân đã tắm rửa, mặc quần áo dân sự, trông khác hẳn. Bữa cơm gia đình từ lâu vắng mặt Nhân hôm nay rộn rã tiếng nói cười. Trừ một thoáng. Ðó là khi Lương buột miệng:
- Chà, em cũng muốn đi lính!
Huyền tái mặt, buông đũa xuống. Vờ như không nghe, Nhân lảng chuyện, hỏi mẹ xem có ai tìm thăm mình trong thời gian vắng mặt không. Ðứng dậy vào phòng riêng, lát sau Huyền ra, đưa vào tay Nhân một lá thơ. Nhìn qua, Nhân nhận ra nét chữ Dao Ánh. Huyền nhẹ giọng:
- Thơ của Ánh, mợ không mở. Hai tháng sau thì Ánh viết cho mợ, rồi thỉnh thoảng gọi điện thoại về hỏi tin con.
Nhân ngập ngừng:
- Ánh có nói gì về Thuyết không?
Huyền lắc đầu. Nàng biết chuyện Thuyết ‘‘nhảy núi’’ và mập mờ đoán được tình cảm giữa ba người thuở họ còn là sinh viên dăm năm trước. Nhìn Nhân lẳng lặng nhét vào túi áo bức thư, Huyền động lòng thương con. Nàng quay mặt đi. Hàng lông mép lưa thưa khẽ run rẩy khi Huyền mím môi, phản ứng lâu ngày thành nếp mỗi khi Huyền phải kìm xúc động.
- Con được ở Sài Gòn bao lâu? Huyền hỏi.
- Dạ... chắc chừng một tuần. Mai con lên trình diện trên Quân Y, đợi lệnh về đơn vị.
- Con về đơn vị cũ?
Nhân gật đầu. Huyền gặng:
- Vẫn Nhảy Dù?
Nhân lại gật, giọng nhẹ nhàng:
- Chắc vậy! Nhưng đại đội cũ ‘’ tan hàng’’ rồi. Vẫn Dù, nhưng con không biết chắc đơn vị nào...
Ghìm một tiếng thở dài, Huyền đứng lên:
- Thôi, nghỉ ngơi ít hôm, sau hãy hay, con ạ!
Buổi chiều, Nhân tạt qua chào chú Hoàng. Từ lâu, chú ở một mình. Nhà chú trong hẻm đường Bùi Thị Xuân, sát cổng xe lửa số hai, ngày ngày giờ giấc được đánh động bằng tiếng xe rầm rập nghiến trên đường sắt. Mười ba năm trước, sau khi Huyền hét ‘’... đàn ông chi mà vậy’’ thì hai người chia tay. Nhìn chú ủ rũ chẳng khác một con gà rù, Nhân giúp chú xếp hành trang lên một cái xích lô, không biết nói gì và cũng chẳng dám hỏi tại sao. Từ đó, chú hút thuốc phiện, viết báo và tiêu dần số vàng gia đình chú mang từ Hải Phòng vào. Mẹ Nhân không nhìn mặt chú, có việc liên quan thì Nhân sang nhắn, và từ khi Lương lớn, Lương thay Nhân làm cái việc đưa tin. Dẫu sao, Lương cũng là con chú Hoàng. Và Huyền không bao giờ cấm Lương qua lại thăm chú, nhưng chẳng hề hé miệng nói gì.
Nhân gõ cửa. Tiếng dép loẹt quoẹt kéo lê trên sàn đá lát. Cửa hé ra cùng với tiếng ho khục khặc. ‘‘A, Nhân đấy à!’’, chú Hoàng reo lên, tay kéo Nhân vào nhà. Chú cười, giọng vui vẻ, ‘‘ khi Lương báo không có tin Nhân, chú đã sờ sợ. Lúc Hiệp Ðịnh Paris ký kết thì chú chỉ có mỗi một hy vọng, là gặp lại được Nhân lành lặn, an bình... Mọi chuyện khác, chú coi là xong tất! ’’.
Bước vào nhà trong, Nhân thấy bác Quỳnh, bạn chú Hoàng, ngồi trên tấm phản, lưng dựa vào tường, trước mặt là khay thuốc. Bác gạt cái tẩu sang một bên, tay vẫy miệng nói:
- Thế nào chiến sĩ, được thả hả?
Nhân vui vẻ gật đầu. Ðẩy cho Nhân ngồi xuống, chú Hoàng hỏi:
- Ðánh đấm ra sao mà bị bắt?
Thình lình, những đồi cát vùng Quảng Trị hiện về như một lời nguyền độc. Cánh rừng che căn nhà đầy trẻ con với một ni cô già, đầu bức tượng Ðức Mẹ La Vang trên nền đất, điếu thuốc cuối cùng và phát súng của Ðại úy Hiển kết thúc đời mình... Tất cả đồng hiện, xen vào nhau, xòe ra rồi tụ lại muôn vàn hình ảnh trên một chiếc gương vỡ thành mảnh nhọn châu đầu đâm vào một tụ điểm. Tất cả lại đồng biến, bỏ lại đằng sau một cõi mênh mông không có sự sống đe dọa. Bác Quỳnh giục, Nhân đáp lấy lệ, thần trí bỗng giãn ra đến gần như chẳng còn trí nhớ. Chú Hoàng chép miệng:
- Thời bác Quỳnh với chú đi kháng chiến chống Pháp, chỉ đến Bazoka là cùng chứ đâu có đủ thứ đồ chơi giết người hiện đại như bây giờ. Thế mà nghĩ lại cũng vẫn còn sợ nữa là...
Bác Quỳnh ngửng lên, giọng buồn bã:
- Với Hiệp Ðịnh Paris, về mặt chính trị thì còn tệ hơn những điều khoản của Genève năm 54. Nay, có thêm cái khoản miền Nam gồm hai bên, Việt Nam Cộng Hòa và Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Nhưng ai cũng biết Mặt Trận và miền Bắc là một. Nếu có bầu ra một chính phủ miền Nam thì còn đèo vào Lực Lượng thứ ba nữa. Như vậy, Việt Nam Cộng Hòa là thế thiểu số, tất sẽ thua... Trên chiến trường, với Hiệp Ðịnh thì Mỹ không trực tiếp can thiệp, nên không còn làm chủ được bầu trời. Dưới đất, ta thua trận thử lửa ở Hạ Lào. Việt Nam hóa chiến tranh để Mỹ đạt ‘‘hòa bình trong danh dự’’ kiểu Nixon, có nghĩa là Việt Nam Cộng Hòa thua một mình, chỉ trong dăm ba năm nữa là cùng...
Nhân nhìn bác Quỳnh. Tuy chỉ thỉnh thoảng gặp bác ở nhà chú Hoàng, Nhân từng được nghe nói nhiều về bác. Trước thế chiến, bác là một trong những nhà văn nhóm Hàn Thuyên. Thuở đi kháng chiến, khi có kẻ gọi bác là đồng chí trong một buổi họp Văn Nghệ Sĩ trên chiến khu, bác sẵng ‘’... tôi không là đồng chí các anh. Tôi kháng chiến chống Pháp như một người quốc gia’’. Năm 52, bác dinh tê, vào Huế rồi Sài Gòn. Khi chính quyền Diệm - Nhu xử dụng một số những người ‘’ kháng chiến cũ’’, bác đã hy vọng tham gia vào giấc mơ xây dựng một miền Nam không Cộng Sản. Nhưng chỉ ít lâu sau, nghe có người ương ngạch không chịu đi giật lùi sau khi yết kiến Diệm bị loại khỏi chính quyền, bác nổi giận, từ đó phát biểu kiểu nước đôi, không chống không theo. Bị chụp cái mũ ‘‘đệ tứ’’ mặc dầu, thực ra, bác thuộc thành phần không đảng phái, bác giao du rộng rãi, vỗ ngực xưng mình là ‘’ anarchiste’’ vô chính phủ, lập ra một cái ‘‘đàm trường’’ qui tụ lớp thanh niên có lý tưởng xã hội nhằm đào tạo một thế hệ trẻ. Nhân có đến ‘‘đàm trường’’ dăm ba lần, nhưng không gắn bó mấy. Bác nhẩn nha hỏi:
- Cậu thấy ‘‘người anh em’’ bên kia thế nào? Tại sao họ thắng chúng ta trong cái cuộc chiến thần thánh chống Mỹ cứu nước của họ?
Nhìn lên, Nhân hồi tưởng thời gian là tù binh ở K7. Không thấy Nhân đáp, chú Hoàng chậm rãi:
- Cứu nước chống ngoại xâm là ‘‘nghề của chàng’’ từ nghìn năm nay. Ðó là một thuộc tính văn hóa đã trở thành thứ bản năng không cần suy luận diễn dịch. ‘‘Người anh em’’ tung khẩu hiệu đúng, nên động viên được sức dân... Ðối phó lại, miền Nam chúng ta chỉ chống Cộng. Nhưng thử hỏi có bao nhiêu người biết Cộng Sản là cái gì? Thế thì làm sao mà chống triệt để được!
Nhân ngắt lời chú Hoàng:
- ...vâng, có điều đó. Nhưng sau khi trải nghiệm một thời gian với ‘‘người anh em’’ bên kia, cháu thấy thêm một nhân tố...
Bác Quỳnh ngồi lên, miệng giục:
- Cậu thấy gì?
- ...phần lớn họ là những con người sống chết trong một cái guồng quay như những con vít, cái đinh. Trong guồng, cá nhân họ chỉ tồn tại vì lực qui tâm tạo ra từ thứ chuyển động vòng hút lấy họ và đặt họ lên vị trí một quĩ đạo khá chính xác. Cái guồng máy vừa nói được cấu trúc tinh vi, và trên mọi mặt chứ chẳng chỉ thuần quân sự. Miền Nam không coi con người là đinh là vít và chẳng có lấy một cái guồng quay nào như thế. Ðấy là chưa kể đến những lực ly tâm đến từ sự hiện diện của người Mỹ và những tệ nạn xã hội gây ra từ một đoàn quân viễn chinh...
Nhân ngưng nói khi thấy chú Hoàng ôm lấy đầu như bịt tai lại. Bác Quỳnh uể oải đứng dậy. Bên cạnh lối ra vào, Nhân bấy giờ mới để ý nhìn bức tường được phủ một lớp giấy trắng to bản như giấy nhật trình. Sát chân tường, một cây bút lông đại tự và một thỏi mực tầu chưa mài nằm chơ vơ. Tiễn bác Quỳnh ra đến cửa, Nhân bắt tay, nhưng cảm thấy tay bác hờ hững như tay những con người mấp mé bờ tuyệt vọng.
Chỉ còn chú Hoàng. Chú gầy rạc đi, râu ria không cạo, trũng mắt sâu xuống, con ngươi lung linh kỳ dị. Thời gian Nhân ở với chú được đâu gần hai năm kể từ ngày chú làm đám cưới với mẹ. Nhà trai, chủ hôn là bà cô của chú, cô Thái. Mẹ chú vào Nam nhưng chỉ hai năm sau là theo chân cha chú, người bị đấu đến chết trong thời gian ‘’300 ngày’’ sau Hiệp Ðịnh Genève. Cô Thái kể, cha chú Hoàng vừa về làng thì bị trói gô lại. Anh Ðội hỏi ‘‘Mày về định đào vàng bạc của cải rồi mang đi Nam phải không?’’. Cha chú Hoàng kêu ‘‘Con tôi đi kháng chiến, tôi ở lại chứ đi đâu. Tôi là dân cụ Hồ, chỉ trong tuần lễ vàng, tôi đã đóng cho chính phủ ba mươi lạng, lấy đâu ra mà đào nữa...’’. Anh Ðội bất thình lình giơ tay vả vào miệng, quát ‘‘Thế mày về đây làm gì? ’’. ‘‘Tôi về để rước bàn thờ bố tôi lên Hải Phòng’’, cha chú Hoàng đáp. ‘‘Láo! Bàn thờ địa chủ ba đời, rước đi để thờ cái bóc lột à?’’. Cốt cán vây quanh hét tướng lên ‘‘Ðả đảo địa chủ, đả đảo phong kiến...’’. Thế là cha chú Hoàng sống chẳng ra sống, nhưng chết cũng không cho chết, bị đánh đập hàng ngày. Trong khi đó, ‘‘tập thể’’ ông bà bần cố ‘‘phấn đấu’’ đào nát căn nhà năm gian và vườn tược, cố tìm cho bằng được tài sản của nhân dân bị địa chủ chôn giấu.
Cô Thái tìm cách nhắn được Hoàng khi ấy đóng quân ở Nà Sản sau chiến thắng Ðiện Biên. Chú Hoàng bất chấp quân kỷ, bỏ đơn vị mò về làng. Ðến nơi, chú cũng bị bắt. Thấy mặt con, cha chú hét lên ‘‘Ði làm Cách Mạng để rồi Cách Mạng giết bố mày thế này à? ’’. Cứ thế, cha chú hét, ba ngày ba đêm liền thì kiệt sức chết lịm. Ðội Cải Cách buộc chú Hoàng tội đào ngũ và bao che địa chủ phản động. Cô Thái tất bật lên Hải Phòng. Mẹ chú Hoàng gom góp của cải mang về chuộc đứa con duy nhất từng ‘‘đi bí mật’’ trước thời kỳ giành chính quyền từ tay phát xít Nhật. Nhân chỉ biết mẹ bế mình lên Hải Phòng tìm thuốc chữa bệnh thương hàn. Nhưng làm sao mẹ đi Nam, tá túc họ đạo Hố Nai, rồi sau lấy chú Hoàng thì Nhân không hiểu. Chẳng bao giờ mẹ chàng kể lể gì về cha đẻ. Nhân phải tự mình vẽ ra hình ảnh một người cha tên là Chính. Dĩ nhiên đó là một người hùng, không chân dung, đầy những cá tính của kẻ từng đuổi Nhật, đánh Pháp. Nhân hỏi chú Hoàng có biết cha không nhưng chú chỉ đáp, người đi kháng chiến đông lắm, và thời chú, chú bảo, chú chỉ là một trong những người ấy.
Xe lửa kéo còi rồi trèo trẹo nghiến bánh trên đường rầy. Chú Hoàng đẩy chiếc gối kê đầu làm bằng mây, châm lửa vào bấc đèn thuốc phiện, xoay tay ra sau với lọ thuốc bằng đồng nhỏ độ ba đốt ngón tay. Mở lọ, chú cắm chiếc kim đầu tròn vào, xoay đi xoay lại vê thuốc lên mặt kính trước khi hơ vào đèn. Ðợi thuốc nóng lên sánh sệt, chú tiếp tục chấm vào lọ thuốc, lại vê, lại hơ cho đến khi viên thuốc tròn xoe nhỏ như hạt đỗ định hình. Chú nằm xuống, tay quơ chiếc tẩu dài ba tấc, để thuốc vào nõ, xoay nghiêng chõ vào ngọn lửa hầu như bất động, lấy hơi hít vào, tiếng ro ro vang lên đều đặn. Mùi thơm của thuốc lừng lừng tỏa vào không trung. Chú lim dim, thở khói, mắt nhắm, mặt giãn ra trông như dại đi. Ðây là cữ thuốc đột biến, chỉ cần khi người nghiện muốn được đền bù cái thiếu hụt bất chợt hiện ra trong đời. Lát sau, chú lên tiếng:
- Chú mừng khi anh về. Về được, thì thắng hay thua cũng vậy. Lắm khi chú nghĩ, cứ về là thắng, dẫu gì thì ít ra là còn tồn tại. Và nhất là tồn tại với một thân thể toàn vẹn. Dĩ nhiên, cái không toàn vẹn được là phần hồn...
Nghe đến đấy, chân trái Nhân bỗng nhói lên đau buốt đến tận óc. Nhân dựa lưng vào ghế, cố giữ thăng bằng, tay thò xuống. Không, chân ta vẫn đây, Nhân thầm nhủ. Nhưng cớ sao lại thỉnh thoảng ta có cảm tưởng ta mất một chân từ khi cưa cắt khúc đùi trên của một thương binh trong khu rừng giáp ranh đất Lào? Nhân nhợt nhạt, môi mím lại. Chú Hoàng nhận ra, hỏi. Nhân kể lại sự đau đớn mình vừa cảm thấy. Chú Hoàng nghe xong, thủng thỉnh:
- Cái phần hồn không toàn vẹn được là vậy! Nhân ạ, điều này chỉ ‘‘đoạn trường ai có qua cầu mới hay!’’ Chú đứng trên cầu gần bằng thời gian Kiều lưu lạc, lúc nào cũng nhói đau mà vẫn chẳng dám đâm đầu xuống sông Tiền Ðường...
Dứt lời, chú lại nhắm mắt, nhưng chỉ tay vào bức tường phủ giấy trắng. Nhân ngạc nhiên:
- Gì đấy chú?
- Hư không, đợi vết người lấp cho đầy. Bác Vũ Hoàng Chương hứa sẽ viết vào Tết năm nay. Khởi nguyên là lời, bác ấy bảo thế. Lấp hư không bằng lời là cách duy nhất. Chú để giấy mực sẵn sàng, xem thử làm thế có lấp gì được không...
Chú Hoàng thiếp đi, cơn say thuốc đưa chú vào mộng mị. Nhân chắc là chú mơ những giấc mơ đẹp. Bởi chú tủm tỉm nhếch miệng như cười. Cười, ừ, cứ cười, dẫu phần hồn mất mát. Bắt đầu, mất mát là một lỗ trống to bằng hạt đỗ để gió thốc qua. Gió cứ theo vòng quay của đất tiếp tục thổi. Lỗ trống căng ra. Từ hạt đỗ thành quả chanh, rồi thành quả bưởi. Khí lạnh bốc lên, lan ra. Lỗ trống trùm lên sơn hà. Gió, vẫn gió đùng đùng, ngày một bạo liệt. Và sau, im lặng. Lỗ trống khổng lồ đóng băng trắng xóa. Cho đến khi mất dần không còn một ranh giới nào, nó là hư không, chắc vậy.
Thế mà, ai dám bảo lấp hư không bằng lời từ độ khởi nguyên? Ai bảo như vậy? Ai?
Huyền cùng u già đi taxi đến chợ An Ðông mua trầu cau, hương nhang xếp sẵn thành gói một. Ðây là nơi bán đồ lễ hầu đồng. Nàng quanh quất, thỉnh thoảng kín đáo nhìn tứ phía. Chợ vào buổi sớm, nhưng người đã khá đông. Kéo tay u già vào một cái ngách, nàng lẳng lặng đi trước. Hai người ra con lộ rầm rập xe. Một cái taxi đã đợi sẵn, tài xế đưa mắt ra hiệu. Tay xách nách mang, Huyền và u già lên xe. Xe chạy qua Bình Tây một quãng rồi rẽ vào một con đường đất hai bên cỏ uá vàng. Cách đền ‘’ Ông Hoàng Mười’’ chừng hơn trăm thước, đường hẹp, tài xế đạp thắng, vẫn không cất lời. Huyền và u già vừa mở cửa xe thì một người đứng tuổi lưng gù gù nhô ra. Cười như khoe hàm răng cái còn cái mất, ông kêu:
- Cô Hai... Vô làm lễ nghe!
Ðó là Tư Quới. Năm 1962, ông ta là người mang đến Huyền bức thư Chính gửi, nhắn là Chính sẽ vào Nam, cho biết tin mẹ nàng vẫn bình yên, Dân học sắp hết cấp 3 và sẽ vào đại học. Chính nhắc, người mang thư là người của tổ chức, sẽ nói thêm một số việc cụ thể. Huyền lặng người. Nhìn nét chữ viết tay, nàng cố nhớ đến dăm bức thư Chính gửi cho nàng từ Việt Bắc đầu những năm 50. Ðúng, nàng tự nhủ, đúng là chữ Chính.
Nhưng thế là thế nào? Khi xưa, Hoàng chẳng nói là có tin Chính đã mất tích sao? Quả thật, từ hai năm nàng không có lấy một tin tức gì về Chính. Từ năm 57, những tấm bưu thiếp gủi từ miền Bắc bị chính quyền Diệm-Nhu ngăn cấm, thế là nàng không có cách gì liên lạc với mẹ nàng, người nuôi nấng Dân, đứa anh em song sinh với Nhân. Sau khi báo Chính mất tích ít lâu, Hoàng và cô Thái xuống Hố Nai. Cô Thái bảo ‘‘Thằng bé Nhân lớn, cần có cha!’’, và cô sẵn sàng nhận Huyền làm cháu dâu để dòng họ cô có người nối dõi. Hoàng vội vã chen ngang ‘‘... tôi không lấy được Huyền thì tôi sẽ chẳng lấy ai làm vợ’’. Huyền nghe, không ngạc nhiên. Tình cảm của Hoàng, nàng biết rõ từ ngày kháng chiến bảo vệ thủ đô hơn mười năm về trước. Khi đớ, có lúc nàng đã cố quên hình ảnh Chính khi biết Chính đã vợ con, nghĩ đến Hoàng, nhưng trớ trêu thay, chính vì thế mà Huyền biết mình không yêu Hoàng. Rồi trời xui đất khiến, nàng chạy với Chính lúc Pháp đánh Hải Phòng, ngã vào lòng nhau khi bom đạn đánh sập mái nhà, nằm quấn lấy nhau trong tiếng đạn réo rít hãi hùng. Cô Thái nhẩn nha ‘‘...phải nghĩ đến cháu Nhân. Bố đẻ mất tích, phần sống ít, phần chết nhiều. Bây giờ, không hiệp thương, không Tổng Tuyển cử, chuyện thống nhất đất nước thành hão huyền, chẳng chờ đợi gì được! Cháu không có bố đẻ, thì có bố nuôi...’’. Hoàng lại ngắt ‘‘ Tôi xin thề độc, tôi sẽ đối với Nhân như bố đẻ!’’. Chần chờ vài tháng, Huyền cuối cùng đành bằng lòng về làm vợ Hoàng và hơn năm sau nàng sinh hạ Lương. Khi gặp Tư Quới, Lương sắp đầy hai tuổi. Huyền về nhà, chìa bức thư Chính gửi vào mắt Hoàng, giọng lạnh như băng ‘‘ Thế này là thế nào?’’. Tái mặt, Hoàng lắc đầu. Huyền chỉ bảo ‘‘Ðược’’ rồi sang bên cô Thái. Cô là một người đàn bà suốt đời sống ở quê, khi xưa cha Hoàng bảo thế nào cô cũng không chịu lên Hải Phòng. Không chồng, cô nhất định ở vậy, bỏ cả đời vào chuyện trông nom Nhà thờ Tổ, mồ mả các cụ và hai chục mẫu ruộng hương hỏa để lại từ ba bốn đời. Nghe Huyền cật vấn, cô im lặng, miệng vẫn bỏm bẻm nhai trầu. Thình lình, cô nhổ toẹt bã trầu, màu đỏ tóe trên làn đá hoa trắng, quắc mắt ‘‘Tôi! Tất cả là do tôi!’’. Cô kể, sau khi cha chết, Hoàng biết không thể ở lại miền Bắc nhưng cứ chần chờ vì sự có mặt của Huyền và bé Nhân. Mẹ Hoàng nói, cô mới biết Hoàng say mê Huyền đến độ mụ mẫm thần trí. Cô thở dài than ‘‘...nhà ta chưa có kẻ nối dòng, chẳng lẽ đến đây là tuyệt sao? ’’. Cô chép miệng rồi quả quyết ‘‘... để tôi lo!’’. Cô đánh thuốc cho Huyền mê, rồi cùng mẹ Hoàng đưa Huyền và Nhân xuống tầu há mồm đậu ở cảng Hải Phòng, nhắn lại giục Hoàng đi sau. Khi tỉnh, Huyền hỏi thì cô dỗ ‘‘... người ta đi hết, đây là chuyến chót, không đi thì không được. Mà đi, để Huyền với Nhân bơ vơ, lại bệnh hoạn, ai mà đành. Thôi, hai năm nữa Tổng Tuyển cử, Huyền muốn thì cứ về, có khó gì! ’’. Nhìn mặt biển lênh đênh, Huyền nhớ con, thương mẹ, và nhất là mong tin Chính. Nhưng nay thì sự đã rồi, Huyền tự nhủ, phải giữ mình đợi đến ngày đoàn tụ. Cô gằn giọng, tiếp ‘’... nhưng rồi năm này qua năm nọ, chị vẫn hất hủi cháu tôi. Cho nên tôi phải làm sao cho chị dứt ra được quá khứ... Dễ lắm, tôi bỏ ra ba chỉ vàng cho một người bơi qua Bến Hải vào Nam, nhận có biết anh Chính và bảo anh ấy biệt tích...Thế đấy!’’. Cô lấy tay lau quết trầu, thủng thỉnh ‘’...ván đã đóng thuyền, nay lại có thằng Lương, tôi có làm gì nên tội thì tôi chịu! Ðấy, chị có chửi thì tôi nghe... Tội nghiệt gì thì cũng chỉ vì dòng nhà tôi phải có kẻ nối dõi ‘’. Huyền uất lên đến nghẹt thở, sấn lại, tay giơ lên. Cô Thái nghênh mặt ‘‘...chị cứ đánh, đánh đi’’. Không nói không rằng, Huyền quay lưng ra cửa về nhà. Ðó là tối Huyền thét vào mặt Hoàng, ‘‘... đàn ông chi mà vậy!’’.
Sau buổi tối ấy, Huyền ra nhập tổ chức tình báo nội thành qua Tư Quới. Tổ chức xếp đặt cơ sở kinh doanh cho Huyền, và đồng ý để Huyền mua căn nhà trên đường Lê lai, sống ly thân với Hoàng. Ðể tránh mọi cạm bẫy một thiếu phụ mới cập kê tuổi ba mươi có thể mắc vào, Huyền xin với một ni cô nổi tiếng hay thuốc ở Hạnh Thông Tây bốc cho mình một toa thuốc diệt dục. Hàng ria mép lưa thưa trên miệng Huyền là tác động của toa thuốc nàng vẫn uống đều đặn từ chục năm qua.
Tư Quới đi trước. Huyền và u già bưng lễ quả vào điện thờ trong tiếng thanh la nhịp vào tiếng kèn, tiếng nhị. Thật ra, những người ngồi đồng đều là đội tự vệ Thành Sài Gòn giả trang. Chung quanh điện, một mạng bảo vệ an toàn được bố trí chặt chẽ. U già ngồi lại, vẻ ngây ngô. U không người thân thích trong Nam, theo Huyền từ Hố Nai lên Sài Gòn, ăn ở hết lòng, là người độc nhất Huyền để ở cạnh mười hai năm nay.
Huyền cùng Tư Quới lẻn ra sau điện rồi luồn vào một cái ngách, men địa đạo đi mươi phút đến một căn hầm. Tư Quới thì thào:
- Bữa nay có đại diện Khu Ủy đến họp, cô Hai à...
Trước viễn ảnh hòa bình, Lực Lượng thứ Ba sửa soạn con bài chính trị. Mỹ đi, người Pháp rón rén trở lại, đánh thử lá bài mang tên Miền Nam Trung Lập. Một số dân biểu, nghị sĩ Việt Nam Cộng Hòa níu lấy cụm từ hòa hợp hòa giải dân tộc, hy vọng tạo được thế cờ chuyển tiếp trước khi có một cuộc trưng cầu dân ý như trong văn bản ký kết. Dĩ nhiên, chính quyền Thiệu-Hương chống lại, chụp lên Lực Lượng thứ Ba cái mũ Cộng Sản trá hình. Chính quyền miền Bắc và Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam tiếp tục hô hòa hợp hòa giải dân tộc, nhưng giữ một khoảng cách với mọi lực lượng ‘’ngoài guồng’’, không phản đối, cũng không ủng hộ. Bài ba lá, có lật chỉ lật một con nhằm đoạt chính danh, con thứ hai nằm sấp để giữ quyền uy lơ lửng, và con thứ ba, khi lật ra là đoạt chiến thắng.
Chiến thắng chỉ có thể định đoạt trên chiến trường. Lực lượng quân sự hai bên ở thế da beo ghìm nhau trong cuộc hưu chiến, nhưng thế bất lợi là thế Việt Nam Cộng Hòa đã mất anh đồng minh Mỹ khổng lồ giơ bàn chân đất sét cho thế giới chiêm ngưỡng ở Paris. Mặc dù đã đổ khí giới ào ạt cho Việt Nam Cộng Hòa trước khi ký Hiệp Ðịnh, Nixon không phải muốn làm gì cũng được dưới áp lực chống chiến tranh bên Mỹ. Quốc Hội Mỹ bắt đầu bàn khả năng cắt giảm viện trợ. Tổng thống Thiệu la làng kiểu Chí Phèo, nhưng biết có cào mặt ăn vạ cũng chẳng ăn thua gì với một Bá Kiến đang bước trên con đường « hòa bình trong danh dự ». Sài Gòn ê ẩm một cơn động kinh ẩn dưới những khuôn mặt cố giữ vẻ bình thường. Trịnh Công Sơn hát:
‘’ Hôm nay hòa bình, sao mắt mẹ chưa vui
Mẹ hãy ra xem thành phố ngập người
Hôm nay hòa bình, mắt mẹ buồn như kinh...’’
Thần chiến tranh vẫn quơ tay khoa lưỡi sét, trợn mắt đứng chực dưới mái chuông giáo đường, bên cạnh một đoàn M-113 ngọ nguậy trườn đi như một con sâu róm. Chính quyến Thiệu cho phép thanh thiếu niên tự do xuất ngoại du học. Ðồng thời, người ta xì xào, sẽ tổng động viên bắt lính. Con nhà khá giả ào ạt ra nước ngoài. Cái chết trong chiến tranh thường dành độc quyền cho những người nghèo, làm sao khác đi được.
Nhân ở quân trại của binh chủng Nhẩy Dù gần khám Chí Hòa, có dịp thỉnh thoảng về nhà. Vào một bữa cơm chiều, Huyền nghiêm trang:
- Anh Nhân cho mợ nói chuyện...
Nhân ngạc nhiên. Xưa nay, một không bao giờ gọi Nhân là anh.
- ...Mợ định cho Lương sang Pháp. Tháng 9 này đi, Lương sẽ thi nốt Tú Tài 2, rồi năm sau vào Ðại Học. Tình hình này, sẽ lại chiến tranh. Nhưng sau đó, là hòa bình thực sự. Và lúc đó, cần những bàn tay và khối óc để xây dựng lại đất nước này. Anh nghĩ thế nào?
Còn nghĩ thế nào nữa, Nhân thầm nhủ. Mỗi lần mẹ quyết định điều gì, Nhân biết là khó lòng lay chuyển được. Lương thông minh, học trước tuổi, kỳ thi Tú Tài 1 vừa qua đỗ ưu, và chắc có thể tiến xa nếu có cơ hội học hành đến nơi đến chốn. Ðể đũa xuống, Nhân nhìn mẹ:
- Mợ tính thế cũng hay. Nhưng phải nói qua xem ý chú Hoàng.
Biết mẹ không nhìn mặt chú Hoàng cả chục năm nay, Nhân tiếp:
- Việc này mợ để con lo!
Huyền gật đầu. Nhìn thẳng vào mắt Nhân, Huyền chậm rãi:
- Mợ còn một chuyện nữa. Mợ suy nghĩ kỹ rồi mới nói với anh, và xin anh một điều. Theo chỗ mợ biết, sau nhiệm kỳ tổng thống của Nixon, chắc chắn chiến cuộc sẽ bùng nổ ở mức độ quyết liệt. Ðời mợ, mợ đã mất mát nhiều rồi. Lương sang Pháp, mợ yên đi được một bề. Nhưng còn anh. Anh ở trong một binh chủng phải dấn thân vào nơi nguy hiểm, tính mạng treo trên sợi tóc, mệnh hệ nào thì chắc mợ... không sống được. Vì vậy, mợ đã bàn với Bà tướng Có. Ông ấy nay là Phó Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp, có thể giúp để thuyên chuyển anh về Bệnh Viện Cộng Hòa, có thế mợ mới an tâm... Ðây là điều mợ xin anh. Ðiều đầu tiên, từ trước đến nay!
Chưa bao giờ Nhân thấy mẹ hạ mình xin ai một điều gì. Hiểu sự hệ trọng của câu trả lời, Nhân ngần ngại rồi hoãn binh.
- Dạ... Mợ để con nghĩ xem sao!
- Còn cần nghĩ gì cơ chứ!
Nhân đứng dậy, không muốn mẹ đẩy mình vào cái thế lùi không được. Nhìn lên, Huyền mím môi nói nhanh:
- Mợ nói thêm với anh điều này. Cha đẻ anh không biệt tích như chú Hoàng đã nói để rồi mẹ thuận lòng lấy chú ấy. Từ ngày mợ biết cha anh còn, mợ đã sống một mình, như anh biết. Sớm muộn, cha anh cũng sẽ vào đây. Chẳng nhẽ anh lại tiếp tục ở cái binh chủng sẽ bắn vào cha anh? Hãy nghe mợ...
Sững người ra, Nhân tưởng mình mơ, giụi mắt. Cha mình còn sống? Người cha Nhân chỉ còn giữ một hình ảnh lờ mờ nửa hư nửa thực? Nhân bàng hoàng. Cha dẫu có thật, nhưng xa xăm làm sao. Trong khi đồng đội của chàng là những người gần gũi, cũng thật, và khi bom đạn, họ đổ máu và họ cần đến đến chàng băng bó, chăm nom. Nhân không muốn thành một kẻ vong đào trước đồng đội. Nhưng nói gì đây với một người mẹ lo lắng cho sinh mạng mình? Nhân ấp úng:
- Mợ để con nghĩ xem sao, chẳng có gì phải vội...
Nói xong, Nhân vội vã đi như đi trốn.
Nhân nhìn đồng hồ. Chuyến máy bay từ Huế vào thế là chậm. Thời tiết xấu, trời Sài Gòn u ám, thỉnh thoảng mưa ập xuống, bong bóng nổi đầy đường. Ðộ khoảng một giờ đồng hồ sau, tiếng thông báo của nhân viên phi trường cất lên. Nhân nghển cổ, nhìn về phía cửa ra. Từ xa, Dao Ánh như bay trên vạt áo dài màu mỡ gà cuốn che lấy thân. Nàng đưa tay vẫy. Nhân hít vào, kìm xúc động. Tuần trước, Ánh báo sẽ vào Sài Gòn. Qua điện thoại, giọng nàng run run ướt át ‘‘...Huế không còn là chỗ sống được nữa!Ai cũng tìm cách bỏ đi!’’. Ðến cạnh Nhân, Dao Ánh cười:
- Chừ có ché Huế cho anh đó!
Nhân cúi xuống xách vali cho Ánh. Ngửng lên, chàng bắt gặp cặp mắt Ánh như một vòm trời mở rộng. Nỗi ấm áp trong lòng chợt chiếm ngự. Nhân hỏi cho có:
- Ché Ánh mua ở quán Âm Phủ?
- Không! Mấy bữa ni bận, Ánh mua ở chợ Ðông Ba cho tiện, anh à...
Nhân nhìn Ánh, giọng cảm động:
- Ánh gầy đi một chút! Mạ và bé Quỳnh bình thường chứ?
Ánh gật đầu, nhếch môi cười cám ơn. Hai người vẫy taxi. Mưa tầm tã trên đường về. Xế Ðại Học Vạn Hạnh, lại Bùi Giáng đứng chỉ đường, râu tóc ướt nhẹp, xe hắt nước tung tóe. Bùi Giáng thét ‘‘...trời hành cho bay biết, đừng đâm vô nhau nữa!’’, rồi huýt còi từng chập.
Nhân đẩy cửa, lách người để Ánh vào trước. Huyền đã ở đấy chờ. Bữa cơm dọn ra, chỉ chờ Lương về. Sau Tết, Lương sẽ lên đường qua Paris. Ở đó, Lương học tiếng Pháp, đợi tháng 9 tựu trường sẽ vào lớp Terminal, năm cuối cùng của Tú Tài toàn phần. Huyền hỏi, Ánh buồn buồn:
- Thưa dì, mạ con giục vô tìm nhà cửa. Huế ai cũng chạy, thấp thỏm, hoang mang...
- Ánh có tin Thuyết không?
- Thưa dì, không... Mấy anh ‘‘nhảy núi’’ theo bên kia có người về, nhưng không một ai gặp anh Thuyết!
Huyền kìm một tiếng thở dài. Hình ảnh bộ ba Thuyết - Ánh - Nhân ngày mới vào đại học một thoáng hiện ra rồi vụt xa không dấu vết. Huyền tìm một câu an ủi, nhưng nghẹn lời, không thốt lên được.
Trưa hôm đó, Ánh nhờ Nhân đi tìm Sơn. Mẹ Sơn, hàng xóm nhà Ánh, nhờ Ánh nhắn là mạ Sơn gọi về dịp giỗ cha sắp tới. Sơn thấy Ánh, reo lên. Anh chàng nhạc sĩ phản chiến chẳng khác khi xưa, Nhân thầm nhủ. Vẫn cặp kính cận viền nhựa nâu sẫm che gần nửa khuôn mặt gầy. Vẫn vầng trán cao ngất. Vẫn một nụ cười và cái răng khểnh cùng giọng Huế lai đủ ba miền. Sơn hỏi tin nhà xong, quay sang Nhân:
- Moa nghe toa « nhảy dù » bị bắt, mới được thả sau Hiệp Ðịnh Paris hỉ?
Nhân gật. Móc bao thuốc Basto xanh, Sơn mời Nhân, bật hộp quẹt Zippo. Tiếng lách cách kim loại của chiếc bật lửa khiến Nhân nhớ đến âm thanh súng đang lên đạn. Sơn hỏi, giọng bùi ngùi:
- Toa có kỷ niệm nào đáng nhớ khi bị tù không? Kể cho moa nghe với!
Nhân nhắm mắt. Rồi Nhân kể chuyện con ‘’ Nhỏ không’’ và cái chết của cha nó, thằng ‘’ Ác ôn’’ tan xác trên bãi mìn ngày trao trả tù binh. Ánh khóc. Còn Sơn, anh với cây đàn ghi-ta treo trên vách, mặt dại đi vì buồn. So dây, Sơn gẩy vài nốt dạo. Như không có một ai ở bên, Sơn hát, hát một mình:
‘’ Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi
để một mai tôi về làm cát bụi
Ôi cát bụi mệt nhoài
Tiếng động nào gõ nhịp khôn nguôi...’’
Nhân chợt nghe ra tiếng súng. Tiếng bom. Tiếng pháo tầm xa. Tiếng trực thăng phành phạch. Tiếng B-52 ầm ì trên không. Và lời nguyền rủa của những thương binh dưới lưỡi dao phẫu thuật vội vã trong tiếng rít cay độc của những tràng đạn vấy cát trên đầu những ngọn đồi trắng xóa vùng Quảng Trị.
Ðêm hôm đó, tiếng hát của Sơn ám ảnh. ‘’ Bao nhiêu năm làm kiếp con người... rồi một chiều tóc trắng như vôi’’. Nhìn Ánh, Nhân không biết mình mơ hay tỉnh. Trên sân thượng, đằng sau là mái chuông nhà thờ Huyện Sĩ trắng mờ ảo, tóc Ánh bỗng bạc đi ánh lên sắc bạch kim. Nhân đưa hai tay lên bịt mắt, tránh không muốn thấy thời gian truy đuổi cắm đầu chạy về phía trước. Ánh ngạc nhiên:
- Sao vậy anh?
- Không, không có gì - Nhân thầm thì - không có gì cả!
Hai người im lặng. Tiếng còi con tầu lìa ga xe lửa cất lên. Có thể có những biệt ly, từ hôm nay cho đến mãi mãi. Chợt Ánh cất tiếng nghẹn ngào:
- Thuyết ‘’nhảy núi’’ có lẽ vì Thuyết biết Ánh không yêu anh ấy. Ngay cả khi đã có bé Quỳnh...Trước ngày đi, Thuyết bảo, Thuyết đi tìm một tình yêu, để lại đằng sau những lỡ làng! Khi Ánh hỏi lỡ làng nào thì Thuyết im lặng, rồi không hiểu tại sao Thuyết xin lỗi Ánh...
- Lỗi gì? Nhân trầm giọng.
- Ánh cũng hỏi như anh vừa hỏi. Nhưng Thuyết lại im lặng. Nửa đêm, Thuyết lặng lẽ lên đường, không ai biết. Sáng ra, Ánh thấy một mảnh giấy để trên bàn, vỏn vẹn chỉ ba chữ: anh phải đi.
Thình lình, Ánh ôm lấy Nhân. Nàng thổn thức, toàn thân run lên như một con chim non đập đôi cánh yếu ớt, chực rụng xuống tựa một chiếc lá lìa cành trở về cội nguồn cát bụi.
‘‘ Ôi, cát bụi mệt nhoài...’’
Hiện tượng cánh bướm: những cú điện thoại của đám lãnh đạo đảng Dân Chủ ở Washington bị đặt máy nghe mang tác động gây bão trên một miền Nam Việt Nam đang còn hoang mang sau Hiệp Ðịnh Paris. Vụ xì-căng-đan Watergate bó tay Nixon, tổng thống Mỹ, người của đảng Cộng Hòa. Hứa với Thiệu một tỷ rưỡi đôla viện trợ, Nixon cắt xuống một tỷ. Quốc Hội Hoa Kỳ không chấp nhận. Cáo buộc Việt Cộng vi phạm Hiệp Ðịnh, Nixon tiếp tục bom Campuchia với mục đích giải tỏa áp lực mặt trận Tây Nam. Ðược hai tháng, Thượng Nghị Viện Hoa Kỳ thông qua một đạo luật cấm can thiệp quân sự ở Ðông Dương. Mất hết uy tín, Nixon đành cắn răng. Viện trợ tuột xuống mức chưa được tám trăm triệu đôla, trong đó phải chi phí cho gần mười nghìn lính Mỹ nay thay quân phục, khoác quần áo dân sự, trở thành những chuyên viên cố vấn. Giá đôla và vàng tăng đến chóng mặt. Cuộc chạy loạn bắt đầu: dân miền Trung và Lục tỉnh đổ về Sài Gòn. Vật giá leo thang vòn vọt. Tận dụng những khó khăn trong đời sống, một mặt trận chính trị thành hình. Sinh viên học sinh, trí thức thành phần ‘’ thứ ba’’, rồi linh mục, thượng tọa... đều là những tác nhân. Thế là có ngày ‘’ Ký giả đi ăn mày’’, có Ủy Ban Cứu Ðói, có Ủy Ban Phụ Nữ giành quyền sống... Big Minh cùng đám nghị sĩ như Lý Quí Chung, Nguyễn Hữu Chung, Lý Chánh Trung, Ngô Bá Thành... lên tiếng chống đối. Thiệu phản ứng, ban đầu lúng túng, sau thô bạo như một con thú cùng đường.
Tết năm Dần trong miền Nam, cọp không nhe răng múa vuốt, duỗi nằm theo tư thế một con mèo ốm. Một mặt,Việt Cộng từ vùng phi quân sự đánh xuống, mặt khác đổ quân lên Tây Nguyên đe dọa cắt miền Trung, dồn Việt Nam Cộng Hòa vào vùng đồng bằng sông Cửu Long. Bên Campuchia, quân Khờ-me đỏ đẩy lính Lon Nol khỏi biên giới Việt - Miên. Dẫu thuận lợi, lực lượng Việt Cộng chỉ hoạt động ở mức khuấy phá chứ chưa định hình một chiến dịch qui mô nào. Phía Việt Nam Cộng Hòa, lính đã bắt đầu đào ngũ. Và những kẻ giàu có lên đường bôn tẩu.
Trưa hôm trước ngày Lương sang Pháp, Nhân về nhà. Nhìn hai chiếc vali để trên sàn đá hoa, Nhân bỗng ngậm ngùi vô hạn. Mẹ bề ngoài vẫn vui cười thản nhiên, nhưng Nhân biết, có những lúc mẹ mình chợt hững đi đến mụ mẫm. Chưa bao giờ như lúc này, Nhân thương mẹ, lòng mang mang niềm ân hận đã cương quyết ở lại binh chủng Nhẩy Dù chứ không làm theo ý mẹ. Mặc dầu mẹ cũng nhờ cả đến Dao Ánh để thuyết phục Nhân, nhưng Nhân chỉ lắc đầu, trả lời ‘‘...là đàn ông không thể thế được!’’, tai văng vẳng nghe câu mẹ thét lên ngày nào với chú Hoàng.
Nhân rủ Lương qua nhà chú Hoàng. Hình như chú đợi, quần áo chỉnh tề khác thường lệ. Chú mở cửa, tay giắt tay Lương, vui vẻ:
- Có cả Nhân nữa à!
Chú Hoàng chỉ tay lên bức vách. Nay bác Vũ Hoàng Chương đã viết, kiểu thư pháp, những nét chữ bay lên lượn lại, rồi chúi xuống...
Lũ chúng ta lạc loài dăm bẩy đứa
Bị quê hương ruồng bỏ giống nòi khinh
Biển vô tận xá gì phương hướng nữa
Thuyền ơi thuyền theo gió hãy lênh đênh
Lương đọc, nét mặt dúm dó, môi mím lại. Chú Hoàng ôm vai Lương, thủ thỉ:
- Lũ chúng ta, là bác Chương, là cậu chứ không phải con đâu. Con đi máy bay - chú cố khôi hài - chứ có đi thuyền đâu...
Chừng như thấy câu khôi hài chẳng tác động gì, chú đánh trống lảng:
- Có sẵn một chai Martel, uống mừng ngày vui lên đường với nhau một chén!
Tay run run, chú rót rượu ra ly, không dám nhìn vào mắt Lương long lanh chực khóc. Thế rồi chú uống. Ực một cái, hết một ly. Chú rót tiếp và nói. Chú nói về thời giành chính quyền từ phát xít Nhật năm 45, về chuyện bảo vệ thủ đô khi thực dân Pháp trở mặt... Chú miên man, nhắc tấm lòng « vạn người như một » của dân cụ Hồ, say sưa gợi lại lòng yêu nước của mọi lớp người lao vào công cuộc Kháng Chiến toàn quốc cuối năm 46. Chú thẫn thờ nói về một người con gái bỏ nhà thoát ly theo Cách Mạng.Và buổi chiều trên đê sông Hồng, may mà chú và người con gái đó thoát được trận tập kích vào ngôi chùa Hòe Nhai gần Bến Nứa.Chú trầm ngâm, nhìn Nhân, rành mạnh:
- Xưa chú làm việc dưới sự chỉ đạo của cha cháu...
Và cứ thế, chú tiếp tục kể về một con người mang tên Phan Thượng Chính, sau chú chỉ gặp lại đúng một lần trên Việt Bắc. Cho tới khi thoát khỏi tay đội Cải Cách Ruộng Ðất ở Nghi Dương, trốn về Hải Phòng, chú mới biết Chính và Huyền đã có hai mặt con với nhau.
- Mẹ cháu bế cháu từ Kiến Thụy lên chữa bệnh. Chú thì ôm trong lòng mối hận cha vừa chết, và thân mình cũng mới thoát hiểm... Chú oán tất cả. Chú thù mọi người. Chú căm cái Ðảng của chú...Mặc dầu gia đình chú cống hiến bao nhiêu tài sản, và chú dấn thân đến độ suýt hy sinh cả mạng sống, được huân chương kháng chiến hạng 2... thế mà cái Ðảng ấy nhân danh giai cấp mang chà đạp đến độ cha chú uất mà chết, còn chú thì chúng nó đánh cho thân tàn ma dại...
Hoàng ngừng lại kìm xúc động, nước mắt ràn rụa trên má. Lát sau, Hoàng tiếp, giọng đã lấy lại ít nhiều bình tĩnh:
- Chỉ mẹ cháu là người chú có muốn cũng không thể ghét bỏ được. Ðấy, cái nghiệp của chú nó vậy. Bà cô chú, là cô Thái, giục chú di cư. Chú giả chần chừ, lấy cớ còn mẹ cháu và cháu ở đấy, bỏ đi sao được. Thế là cô Thái tìm cách ép buộc mẹ cháu đem cháu đi Nam, biết chú sẽ đi theo. Còn chú, thâm tâm có thể là chú mượn tay bà cô làm cái việc cướp đoạt người mình yêu, bất chấp là mẹ cháu buộc phải chia ly với những người thân ở lại...
Chú Hoàng lại rót rượu cho mình. Tay đặt lên vai Lương, chú nhìn vào mắt con, nghẹn giọng:
- Mãi ba, bốn năm sau, mẹ con cũng chưa chịu về với cậu. Thế là cậu rắp tâm sắp đặt để báo tin cha của anh Nhân biệt tích... Lúc đó, mợ con mới bằng lòng đi bước nữa. Nhưng từ khi mợ về với cậu, cậu mới thấy lương tâm cắn rứt. Chẳng nhẽ cậu cứ sống với mợ trong dối trá hay sao? Ngày qua ngày, sự trừng phạt xói mòn hạnh phúc cậu tưởng có được. Khi con ra đời, cậu đặt tên con là Lương, sự tử tế cậu đánh mất, và cậu nghĩ, nay có con thì cậu có thể nói thật với mợ. Trong khi cậu còn đắn đo, có người tìm đến đưa cho mợ bức thư của cha anh Nhân. Thế là mợ biết hết, dưới mắt mợ, cha là một thằng hèn.
Chú Hoàng ôm ghì lấy Lương, nhắc đi nhắc lại, cha là một thằng hèn, một thằng hèn. Lương ôm cha, cố ghìm tiếng khóc, nuốt nước bọt ừng ực.
Chiều xuống rất nhanh, cánh cửa sổ khép hờ nhòa dần trong ánh sáng hiu hắt một ngày nhiều mây. Xe lửa lại chạy ngang, còi hú lên,
bánh nghiến trèo trẹo trên đường rày đệm vào tiếng máy xình xịch. Chú Hoàng đưa cho Lương một phong bì:
- Trong này là gia phả dòng họ nhà ta, con giữ lấy cho cậu. Có một lá thư cậu gửi cho mợ con, con đưa giúp cho cậu một khi cậu lìa cái cõi này. Ngày mai con đi bình yên, cậu không ra Tân Sơn Nhất với con đâu. Con đi, có mợ, có anh Nhân tiễn con là đủ. Ði, thì nhớ học, và cố mà làm người. Ở xứ mình, điều đó khó lắm. Vài năm nữa thành tài, con hãy về. Dẫu sao, đây cũng là đất nước của mình. Và trong bất cứ trường hợp nào, đừng biến ra một kẻ như cậu...,
Tay chỉ lên vách, Hoàng đọc se sẽ...bị quê hương ruồng bỏ, giống nòi khinh...
Lương ôm và hôn người đẻ ra mình. Oà khóc, Lương vội đưa tay bịt lấy miệng. Hoàng không nói năng gì trong bóng tối chập choạng, nghe Lương nghẹn ngào tiếng còn tiếng mất:
- Con lúc nào cũng là con của cậu... Ðợi con... con sẽ về! Nhất định vậy...
Tháng 8 năm 1974, Nixon từ chức Tổng Thống. Gérard Ford lên thay, được Quốc Hội Mỹ chấp thuận tài khoản bảy trăm triệu đôla viện trợ cho Việt Nam Cộng Hòa trong ngân sách 1975. Hà Nội chiếm những vị trí chiến thuật quanh Ðà Nẵng, tăng áp lực dọc miền Trung. Tháng giêng năm 75, bộ đội miền Bắc chiếm Phước Long, tám mươi cây số phía bắc Sài Gòn. Tháng 3, họ dễ dàng kiểm soát mười ba tỉnh trước sự chống cự yếu ớt của quân đội Việt Nam Cộng Hòa. Lạm phát phi mã, rồi lại cắt lương, khiến đội quân này gặp nguy cơ tan rã. Chỉ trong năm 74, hai trăm nghìn lính đào ngũ. Thiệu kêu cứu, xin thêm ba trăm triệu viện trợ. Ford bị Quốc Hội phản đối đành bó tay. Thiệu phải đối phó với một tình huống bấp bênh, đóng cửa báo chí đối lập, cách chức một số sĩ quan cao cấp, và đặt ra ngoài vòng pháp luật mọi cuộc biểu tình chống đối.
Tháng 3 năm 75, Ban Mê Thuộc rụng như một thứ trái cây quá mùa, nhanh, gọn và khá đột ngột. Sau khi Đại tá Quang, Tư Lệnh phó sư đoàn 23 gửi bản tin chót về Quân đoàn và yêu cầu oanh tạc vào chính Bộ Tư Lệnh của mình thì chỉ còn im lặng. Những đơn vị đồn trú bên ngoài thị xã và dân chúng xô nhau băng rừng chạy về Nha Trang. Ngày 12, tin Liên Ðoàn 22 Biệt Ðộng quân có nhiệm vụ tái chiến vùng đất đã mất bị đánh tan tác cách Ban Mê Thuộc hai mươi cây số. Ngày 14, lệnh của Tổng Thống Thiệu: triệt thoái khỏi Pleiku. Thoắt một cái, những bàn mạt chược nhà tướng Cẩm, Tư Lệnh phó quân đoàn, đại tá Nhu, Tỉnh trưởng, rồi đại tá Sáng, An Ninh quân đội cùng hàng chục các vị sĩ quan cao cấp, Biện lý, Dự thẩm bỗng thiếu tay xoa. Họ biến đi, hệt những bóng ma chơi, chắc chắn sẽ hiện hình trở lại ở một nơi bình yên nào đó, với áo quần thẳng tắp, huy chương đầy ngực và dáng điệu rất nghiêm trọng. Nhưng bây giờ, họ ở đâu?
Ngày 16, thị xã Pleiku nhốn nháo, dân và quân ùa ra đường, hốt hoảng gọi nhau, hò hét, khênh cái gì có thể khênh, xách cái gì có thể xách. Họ xô nhau ùn ùn đi về phía bắc, nơi tập trung xe cộ, cả quân xa lẫn dân sự, xe lớn, xe nhỏ, xe ba bánh, xe bốn bánh, xe máy, xe đạp, xe bò...Con đường triệt thoái là Liên Tỉnh lộ 7 về Tuy Hòa. Ðoàn xe như rắn bò trên mặt lộ bóng nhẫy ì à ì ạch, năm giờ sau đã đến gần Phú Bổn. Xe Honda chở đôi, chở ba. Lính ngồi trước, súng vẫn đeo, giữa là con, sau là vợ, tay ôm chồng, tay ôm vali, lưng đeo balô. Ầm ầm. Một cột khói bốc cao phía trước mặt. Việt Cộng pháo, bà con ơi! Tiếng thét chưa dứt thì đoàn người tỏa ra, kêu khóc, ùa vào những gốc cây vệ đường, núp sau gò đống. Trong chớp mắt, chỉ còn xe cộ ngổn ngang và vật dụng vứt bừa bãi trên đường.
Việt Cộng không nã pháo vào đoàn người, chỉ bắn dọa loanh quoanh. Thế là lại lên đường. Đi, phải đi. Tiếp tục chạy. Ngày thứ hai cuộc triệt thoái, những người già cả yếu đuối tuột lại đằng sau, cái gì nặng quẳng đi, tiếng súng vẳng lại như thôi thúc...Ngày thứ ba. Ðoàn xe không còn chạy mà bò lê bò la, kiệt sức, lâu lâu ngừng lại để thở, băng khu rừng chết, cây như những khúc xương trơ trẽn, không lá, ngất ngưởng say thuốc khai quang. Ðến quận Phú Rá vào 8 giờ tối. Sao lung linh trên nền trời tím thẫm. Xe bật đèn sáng rực một góc trời, máy rú lên, tài xế bóp còi inh ỏi. Thấp thoáng hai vệ đường, xe Honda trườn lên, lượn lách những mô đất, ổ gà. Rồi xe đụng. Cuộc rước đèn kỳ lạ bỗng thành cuộc ẩu đả, chửi bới, văng tục. Ðêm trong rừng lạnh ngắt. Trăng ló ra trên cao giữa những đám mây bạc, êm ả. Ðoàn xe vào vòng đai phòng thủ của quận lỵ. Nhưng không một ai trên con đường này cảm thấy được yên lành.
Sáng ngày thứ tư, lại đi. Ðường hẹp dần rồi biến mất. Trước mặt, một đồng cỏ tranh rộng mênh mông. Xe bóp còi, chen ngang. Thình lình, hàng chục cái chồm lên rồ máy băng đồng như chạy đua. Có những cái xe sụp xuống, đổ lăn quay. Những cái bên cạnh tách ra, tiếp tục chạy. Không hiểu thế nào, tiếng súng nổ. Bắt đầu lẻ tẻ, sau túa lên. Ðó là tiếng nổ ròn của M-16, không chát chúa như AK. Việt Cộng chưa thèm đánh, nhưng lính Cộng Hòa đã bắn lẫn nhau. Bây giờ, không có ai chỉ huy ai. Thỉnh thoảng, có tiếng súng phóng lựu đạn. Rồi hàng tràng đại liên, khói bốc khét lẹt. Trẻ con gào. Ðàn bà khóc, có những người ngồi sụp xuống vệ đường cầu kinh, niệm Phật. Nhưng lúc này, chỉ bạo lực là cách duy nhất để phòng thân. Chúa không còn. Phật cũng không. Kinh kệ vô ích.
Ngày 21 tháng 3. Thiết Giáp chặn hậu cho cuộc triệt thoái bị một trung đoàn Việt Cộng đánh, giữa Phú Bổn và Phú Túc. Ðường chật, chiến xa như những con cua vào rọ, chỉ dăm chiếc M-113 bỏ chạy được. Ðám Biệt Ðộng quân thoát chết ở Ban Mê Thuộc bắt kịp đoàn người chạy loạn. Bây giờ có những tay lính chĩa súng cướp giật. Giật ăn, giật uống. Giật đồng hồ, giây chuyền, nhẫn, tiền. Những tay lính bại trận bỗng hóa thân thành hung thần, nổ súng bừa bãi. Một sĩ quan đứng lên quát ‘’... không được làm ẩu!’’ Hai tên lính cười cười. Ðùng, đùng, hai phát súng và một tiếng chửi ‘’ ÐM mày, làm tàng...’’ Người sĩ quan gục xuống, tay quơ quơ vào không khí, mắt trợn trừng.
Ðoàn người lết đi từng chặng. Dưới nắng gắt, mặt mũi ai nấy đỏ ối như tôm luộc. Họ ngơ ngác. Và sợ. Chưa thấy Việt Cộng, nhưng phải né tránh những bọn vô lại khoác súng mang quân phục của một đoàn quân tan hoang. Còn năm cây số, sẽ tới quận Củng Sơn. Nửa đêm, trăng bị mây che, nền trời đặc lại. Ðoàn xe tắt đèn. Ðột nhiên có tiếng động cơ, lúc gần lúc xa. Có lẽ chiến xa Việt Cộng chặn phía trước mặt. Thình lình, hai chiếc máy bay bay ngang. Ðó là loại C-47 cải biên trang bị đại liên sáu nòng, bắn được độ ngàn viên một phút, lằn đạn lửa vẽ thành hình nón lật ngược. Tiếng nổ vọng lại. Trận đánh chắc là chừng hàng chục cây số trước mặt.
Sáng ngày 22, Biệt Ðộng quân mở được đường. Ðoàn triệt thoái đến bờ sông Ba. Bãi cát bên kia sông dài ra uốn lượn dọc mé rừng chồi. Trên bãi, xe ngổn ngang. Dưới sông, một số người xuống tắm, có tiếng té nước và tiếng cười của con trẻ. A, tiếng cười. Suốt sáu ngày nay, bây giờ mới nghe được tiếng cười cứu rỗi.
Chiều, đến được Củng Sơn. Lính quân vận và quân nhu mang bán cơm sấy, thịt hộp, thuốc lá. Người đói cơm, đói thuốc chen nhau mua, giá là giá cắt cổ. Biệt Ðộng quân thật giả lẫn lộn. Ðám giả là bọn tìm được quân phục, nhưng thường không đủ bộ, không nón nâu, không phù hiệu. Chúng cướp phá, chọc ghẹo phụ nữ, nghênh ngang như không có ai. Ðêm, trăng sáng dị thường. Những con dơi chập chờn lui tới giữa bầu trời mầu sữa. Ở đây, tương đối an toàn. Có người nghe BBC. Tin tướng Trưởng phải bỏ Huế. Dân Huế, dân Quảng đổ dồn về Ðà Nẵng, tạo thành một cái biển người không còn kiểm soát nổi. Chợt có tiếng nổ phía bên kia sông. Trận đột kích kéo dài mười lăm phút. Một số xe bị phá hỏng. Cả trăm chiếc kẹt lại. Những ngư?