22 - Hỗn mang
Ðợi cho Dao Ánh khuất sau đám người đứng ngổn ngang trên sân ga, Huyền mới ngồi xuống. Trời vừa sáng, xe chuyển bánh, lừ lừ lăn khỏi thành phố. Trong toa, có thêm ba người khách. Một cụ già, một sĩ quan đứng tuổi và một thiếu phụ trên dưới ba mươi. Ban ngày, hai chiếc giường treo gấp vào rồi móc lên để cho bốn người ngồi khá thoải mái. Ðêm, hạ giường xuống. Ra đến Hà Nội, đi tất cả mất bốn ngày ba đêm. Vé chợ đen đắt gấp sáu lần giá chính thức, không kể thù lao bồi dưỡng, một thủ tục đã thành lệ.
Xe rời đô thị, hú còi, lăn bon bon về hướng Trảng Bàng. Gió thốc vào những toa tầu trống trải. Ngoài lớp cửa làm bằng gỗ có thể kéo lên là giây thép đan chéo thay cho kính. Huyền ngạc nhiên. Thiếu phụ, người có vẻ rành rọt chuyến xe lửa có tên là Thống Nhất này, giải thích rằng cứ từ địa hạt Phan Thiết trở ra là xe bị ném đá, cửa kính vỡ và đã từng gây thương tích cho hành khách. Bà cụ nghe, không nói gì. Vị sĩ quan im lặng. Huyền hỏi, tại sao. Thiếu phụ, giọng Nam Ðịnh, cộc lốc ‘’...trẻ con ấy mà. Chúng nó chẳng được dạy dỗ gì nên phá phách như thời ‘’ngụy’’, không biết thế nào là nề nếp cả’’. Bà cụ, bề ngoài tưởng đã ngễnh ngãng, chen vào hỏi ‘’...thế sao ngày xưa thì cửa là cửa kính, hả cô?’’. Thiếu phụ lờ như không nghe thấy, chỉ nguýt một cái, rồi đứng dậy bước khỏi toa ra đứng trên lối đi lại.
Dựa vào lưng ghế, Huyền nhìn ra bên ngoài. Cảnh vật chạy lui về phía sau. Tiếng máy xình xịch đều đặn như ru ngủ. Ven đường rầy, thỉnh thoảng những mái tranh ẩn hiện. Chút khói bếp xanh biếc từ những căn nhà rải rác ở hai bên đường xe lửa bay lên cao, loãng ra thành những vệt mỏng mảnh vắt ngang tầm mắt. Giấy phép đi lại của Huyền ghi rõ Hà Nội và Kiến Thụy. Ở Hà Nội, Huyền để địa chỉ của Khiêm. Cho đến nay, Khiêm vẫn chưa gặp được Dân. Còn chuyện tìm hiểu việc Nhân bị đưa ra Bắc mặc dù chỉ là một sĩ quan y sĩ, Khiêm báo chưa đi đến đâu, và nói khéo là không có gì ‘‘lót’’ tay chắc cũng khó có được thông tin. Nhưng điều làm Huyền khổ tâm hơn cả là Chính. Nàng dằn vặt, tự hỏi đi hỏi lại có nên đi tìm Chính hay không. Nếu Chính sống, và như thế ắt đã có gia đình nên mới tránh gặp nàng, có gặp cũng chỉ thêm nát lòng. Nhưng dù có đi thêm bước nữa hay không, nếu Chính đã chết, thì nghĩa tử cứ là nghĩa tận. Không thắp một nén hương tưởng đến nhau để tha cho nhau mọi ràng buộc thì lương tâm làm sao yên ổn được. Muốn tìm tin Chính, tìm thế nào? Huyền biết Chính có người em tên Tín ở Hưng Nguyên, và một người bạn tên Loan ở Thanh Hóa. Ngoài ra, có bà đồ ở Giáp Ðoài. Hơn hai mươi năm rồi, bà đồ hẳn không còn. Ðồng chí cũ hoạt động với Chính, xưa có Vũ Ðình Huỳnh, Nguyễn Hữu Ðang... Nay, họ còn hay mất? Và ở đâu? Suy đi tính lại, Huyền tự nhủ, cái đầu mối gỡ được hết là Dân. Huyền tưởng tượng, sinh đôi chắc Dân chẳng khác gì Nhân. Nàng mỉm cười, nhớ lại khi xưa chính nàng cũng phải vạch tóc xem khoáy để phân biệt hai anh em.
Chợp mắt, Huyền bật dậy khi bà cụ ngồi cạnh nắm tay lay nàng. Hai người áo trắng quần xanh đeo băng đỏ quanh tay áo xộc vào. Họ khinh khỉnh, nói trống không ‘’ Vé, giấy đi đường, chứng minh nhân dân... đưa ra đây’’. Bây giờ, nhân viên không phải là những người phục vụ khách hàng. Và khách hàng, là kẻ thụ ơn, phải biết khúm núm, ne nét. Yên, thì cho yên. Nếu không, hạch sách. Không phạm tội, cũng cắn răng cúi đầu. Vì bắt tội, rất dễ. Chỉ cần giữ chứng minh nhân dân, nói gọn một câu, để kiểm tra là hết đi đứng. Một anh, tuổi còn trẻ, chỉ vào chiếc vali của Huyền, hỏi ‘’... Của ai đây?’’. Huyền đáp. ‘’ Mở ra!’’. Huyền mở. Vài trăm gam đường, hai gói bột ngọt, một ít thuốc trụ sinh. Hai sấp vải trắng và một sấp vải đen. Ít bút bi. Hai tút thuốc lá. Dăm cái bật lửa ga. ‘’ Thế này quá chỉ tiêu! Phải làm biên bản’’, anh nhân viên kiểm soát sẵng giọng, tay rút ra một tờ giấy trắng đưa cho Huyền rồi sang toa bên cạnh. Huyền ngạc nhiên, chưa biết phải làm gì. Thiếu phụ ngồi cùng toa ghé vào tai Huyền, nói nhỏ ‘’...chuyện ‘‘ đầu tiên ’’ mà quên thì thế đấy. Giúi cho chục bạc là xong, khỏi ghi chép!’’. Huyền thấy xấu hổ. Ðưa tiền cho thiếu phụ, Huyền bảo ‘’...em giúp chị’’. Khi anh nhân viên kiểm soát quay lại, thiếu phụ đứng lên làm một động tác rất nhanh, và dặn ‘‘ Dán cho cái giấy ‘‘ đã kiểm ’’ trên vali nhé’’. Viên sĩ quan ngồi cùng toa quay mặt không nhìn nhưng buột miệng thở dài.
Ði một ngày một đêm, xe lửa vào đến Qui Nhơn. Xe ngừng ở ga những tỉnh lỵ lớn, hành khách có dịp mua đồ ăn thức uống. Càng đi ra, dân càng có vẻ nghèo. Kẻ tật nguyền sắp hàng mếu máo chìa tay xin ăn, mắt trắng dã, miệng rãi rớt, công an đến đuổi cũng không đi. Xe lửa Thống Nhất tiếp tục chạy. Hai bên đường rày, đầy rẫy những hố bom cầy xuống đất, nước ứa lên thành những cái ao nhỏ chưa có người lấp. Thêm một quãng, thình lình có tiếng râm rầm đập vào thành xe. Thiếu phụ cất tiếng ‘’...chúng nó quăng ‘‘củ đậu ’’. Phải coi chừng!’’. Ðá lớn bị chặn lại nhưng những cục nhỏ bằng ba đầu ngón tay vẫn lọt qua lưới giây thép. Thình lình, một tràng AK cất lên chát chúa. Bà cụ ngồi cùng toa thét lên ‘’Mô Phật, bắn thật à? ‘’. Không ai đáp. Tiếng đá vẫn tiếp tục đập vào thành xe. Lại tiếng súng. Viên sĩ quan đứng tuổi chép miệng, ‘’ Bọn trẻ con nghịch ngợm quăng đá nên chắc chỉ bắn chỉ thiên cho sợ thôi. Hết chiến tranh rồi, mạng người ta đâu có rẻ đến vậy’’.
Trưa ngày thứ tư từ khi rời Sài Gòn, xe lửa vào ga Hàng Cỏ. Miền Bắc lừ đừ trôi ngược như một cuộn phim quay chậm. Quảng Bình, rồi Vinh. Sau đến Thanh Hóa, Ninh Bình. Dấu vết chiến tranh vẫn đó. Và những con người. Chẳng khác mấy kể từ ngày Huyền rời đất Bắc đã gần một phần tư thế kỷ. Vẫn chân lấm tay bùn trên những cánh đồng. Con trâu vẫn đi trước, người cày vẫn đi sau, như không thể khác đi được. Khi Huyền xuống xe, vợ chồng Khiêm đợi trên sân ga. Chị em mừng mừng tủi tủi nắm lấy tay nhau. Thiếu phụ cùng toa xe đã xuống trước. Dăm người đứng chờ bà ta, xúm lại khênh ra hàng chục thồ hàng để lên một chiếc cam-nhông. Thiếu phụ buôn hàng chuyến giơ tay vẫy chào Huyền.
Khiêm đã thuê sẵn một chiếc xích lô. Ở Hà Nội, xích lô thấp tè tè chứ không thon gọn cao nhổng lên như xích lô Sài Gòn. Huyền lên xe. Hai vợ chồng Khiêm cắm cúi đạp xe phía trước. Họ đi ngược để trở về quá khứ, nhưng vẫn cứ ngoái đầu lại nhìn như sợ lạc.
Gò người đạp lên dốc, ông phu xích lô ngoảnh đầu về phía trái, giọng đứt quãng ‘’...Khâm Thiên đấy. Bà ở Sài Gòn ra không biết, chứ chỗ này bị bom gần như tan nát hết’’. Nhìn những túp lều dựng tạm, Huyền ngạc nhiên hỏi ‘’Sao mình không xây dựng lại, hả bác?’’. Ông phu xích lô đưa tay lên gãi tai ‘‘Tiền bà ạ! Có tiền thì mới xây dựng được chứ! Ông hắng giọng, tay chỉ - chỗ ngày xưa bom nó khoét to bằng hai cái ao ở làng. Dân xung quanh đây lấy chỗ đổ rác, bà bịt mũi lại, mùi thối ghê lắm...’’. Huyền giơ tay lên che mặt như một phản xạ, nhưng bụng đã hóp lại, ngực tức, cố kìm cơn nôn mửa.
Xe đạp là phương tiện đi lại phổ biến. Xe đèo hai, có cái đèo ba người. Thường là chồng đạp, vợ ngồi sau ôm con. Qua góc Khâm Thiên, ông phu xe rẽ trái, đạp một lát là đến Lò Ðúc. Đến đầu phố Kim Ngưu, phía sau Khiêm đạp dấn lên, cười bảo ông xích lô ‘’...theo tôi nhé. Sắp tới rồi!’’. Huyền cũng nhận ra lối về nhà chú thím xưa Huyền đã tá túc mấy năm giời. Xe rẽ trái, vào ngõ Lạc Trung. Nhà cửa, nếu thay đổi thì chỉ xơ xác đi. Cây cỏ y hệt những năm xưa. Người nay đông hơn chứ không thưa thớt như những năm giành chính quyền thời Nhật. Họ xộc xệch, nhếch nhác và nhìn người qua lại với ánh mắt lạnh lùng. Lòng quặn đau, Huyền thầm nhủ, biết làm sao khi hiện tại còn hằn vết trói buộc của một quá khứ cực kỳ gian khổ. Phải xây dựng, tất cả, như bắt đầu từ đầu. Khẩu hiệu ‘‘ vừa làm vừa học, sai thì sửa ’’ ở đâu hiện ra trong tâm trí khiến Huyền tự nhủ, nghèo không sợ, chỉ sợ không có ý chí vượt qua mà thôi. Hình ảnh chị Sáu và hai đứa con nằm chết trong đống nôn mửa bất chợt quay lại như nhắc nhở. Sai thì rõ, nhưng sửa thế nào trong trường hợp này? Huyền nhớ lần trao đổi với Bí Thư Phường. Ông ta lạnh lùng cho rằng Phường không có trách nhiệm vì Cải tạo Tư sản là chính sách từ Trung Ương, và cấp giấy tờ để mẹ con chị Sáu về quê làm ruộng là do cấp Quận. Người chết oan vì chính sách, không ai trách nhiệm gì, thế là thế nào? Huyền gặng. Ông Bí Thư gằn giọng, chính quyền Cách Mạng làm theo nguyên tắc phân công trách nhiệm, rồi quay ngoắt người thản nhiên bỏ đi. Cán bộ Cách Mạng nay đâu còn phải dựa vào dân, thành những viên chức quản lý, nên thoắt một cái họ biến tướng như cắc kè đổi sắc, chuyển hết qua mầu quyền lực cai trị. Huyền thót dạ, xây dựng cần những con người. Trồng cây mười năm nhưng trồng người phải trăm năm, cụ Hồ ơi, chẳng lẽ phải đợi thêm một thế kỷ nữa mới có thể bắt đầu?
Khiêm vừa gọi con vừa cuốn sợi xích sắt khóa cửa. Một thằng bé chạc bảy, tám tuổi chạy ra. Nó khoanh tay, cúi đầu, nói như máy:
- Cháu chào bác ạ!
Huyền mỉm cười:
- ...A, Phương phải không?
Nó gật:
- Dạ đúng. Tên cháu là Phương ạ. Dương Thanh Phương, lớp ba cấp một ạ!
Quay nhìn Khiêm, Huyền ngạc nhiên:
- Ngoài này bây giờ kỷ cương thật. Cháu nói với bác mà cứ như khai báo. Huyền hỏi - xưa, chị em mình thì chỉ ‘’chào bác ạ!’’ chứ nay trẻ chúng nó lại thêm ‘’cháu’’ vào, thế là sao?
- Ở trường các cô giáo dạy câu thì phải có chủ từ, rồi động từ... Thế mới là chuẩn. Cho nên chúng nó cứ thế cả! Còn kỷ cương thì thoắt ra đường là chửi tục ngay. Dạy con bây giờ gay lắm, chị ạ!
Thuận, vợ Khiêm, xách vali cho Huyền vào nhà, nói:
- Em ‘‘ lấu lước ’’ uống miếng trà. Chị rửa mặt rồi ngồi nghỉ một tí. Ðường xa, chắc chị mệt lắm...
Ðợi Thuận đi khuất, Khiêm nói nhỏ:
- Nhà em quê lắm. Bệnh ‘‘ ngọng ’’ chữa mãi mà không sửa được. Khiêm cười, vẻ ngượng ngập.
Huyền vỗ vai em:
- ‘‘ Ngọng ’’ chẳng sao, miễn biết yêu chồng, thương con là đủ!
Khi vào Sài Gòn, Khiêm đã kể, Thuận là người vợ thứ nhì. Học Y khoa năm cuối trước khi ra trường, xưa Khiêm yêu Thúy lúc đó đang theo học âm nhạc. Chính Thúy là người đã thuyết phục Khiêm ở lại không di cư vào Nam. Cũng vì thế chú thím Huyền đành thôi, không xuống Hải Phòng đi tầu há mồm, mặc dầu hành trang đã sẵn sàng cho một chuyến bỏ làng bỏ nước. Khiêm và Thúy lấy nhau, bạn bè ai cũng khen là đẹp đôi. Chú thím Huyền chỉ mong có người nối dõi. Ðầu năm 57, Thúy chửa, đẻ một đứa con trai. Chú Huyền cười ha hả, sướng đến nỗi đứng tim mà chết. Hai năm sau, thím theo chú. Vừa hết tang mẹ thì đến lượt Thúy. Ðó là thời kỳ xã hội miền Bắc đã hoàn thành cải tạo công-thương nghiệp, đưa nền sản xuất nông nghiệp vào hợp tác xã trên toàn cõi. Hà Nội bắt đầu thiếu thốn. Với chủ trương tiêu diệt văn hóa tư sản đồi trụy, Thúy không còn có thể dạy dương cầm kiếm ăn như xưa, xung vào lao động trong một tổ xay bột. Ít lâu sau, Thúy lâm bệnh rồi mất. Gà trống nuôi con được đâu một năm, Khiêm phải gửi thằng bé về nhà bà ngoại. Cho đến khi vào chiến trường Tây Nguyên, Khiêm đi lại với Thuận, cùng phục vụ ở nhà thương nơi Khiêm công tác. Ít lâu sau, Thuận đòi Khiêm ’‘ chính thức ’’, nếu không thì làm ầm lên với tổ chức. Khiêm bảo ‘’ Ði thế này, sống chết ai biết được mà vợ với con làm gì’’. Thuận khai với Bí Thư chi bộ là Thuận chửa. Rồi Thuận nắm áo Khiêm, khóc ‘’Sống chết có số. Ðàn ông con trai cứ chiến tranh thế này rồi thì em cũng góa. Có góa, em góa với anh, hiểu chưa? ’’. Mấy tháng sau, Khiêm nhận được thư Thuận, báo nàng có chửa thật. Và thế là thằng bé Phương ra đời.
Huyền đưa mắt nhìn quanh. Căn hộ trở thành xa lạ, không còn một chút dấu vết thân quen ngày xưa. Nơi Huyền ngồi, trước kia là phòng khách. Nay, phòng ngăn đôi bằng hai tấm cạc-tông ghép lại với nhau. Bên trái, trước là buồng xép, nay có kê một cái giường, ở trong ngổn ngang đủ thứ, từ sách vở đến xoong nồi. Khiêm không đợi Huyền hỏi, nói như than:
- Nhà mình bây giờ chia cho ba hộ chứ chẳng như ngày trước. Chúng em ở trên này. Cái phòng ngủ của thày me và cái bếp là một hộ. Vườn sau, xây thêm một phòng cho một hộ khác. Còn bếp, ở ngoài hè, là bếp tập thể... Hà Nội nay chật chội, dân ở nông thôn người ta chạy bom chạy đạn về nên cứ phải chia nhau mà ở!
Từ ngoài bước vào, Thuận xách phích nước, mở ấm tráng qua, châm trà. Miệng tươi cười, Thuận xởi lởi:
- Chè Thái Nguyên đây chị ạ! Phải khách quí mới lấy ra đấy.
- Cô coi chị là khách chứ không phải là người nhà à, Huyền đùa.
Cả ba người cười xòa. Huyền đỡ chén trà, uống từng ngụm nhỏ, lưỡi ban đầu hơi đắng nhưng lát sau ngọt dần. Huyền hỏi, Khiêm kể qua loa sinh hoạt. Hai vợ chồng cùng làm việc ở nhà thương, ngày tám tiếng, sáu ngày một tuần. Ngoài lương cán bộ, tem phiếu thì loại C cho Khiêm, E cho Thuận và TR cho thằng bé Phương. Từ hơn năm nay, gạo tiêu chuẩn không đủ, phải ăn độn lắm đợt đến sáu mươi phần trăm với khoai, sắn, bo bo hoặc mì. Thuận đằng hắng:
- ‘‘ Lói ’’ chung, từ khi ký Hiệp Ðịnh Paris thì có cơ cực hơn, nhưng cứ phải phấn đấu, chị ạ! Nhà em trí thức thì khó, chứ em là thành phần cơ bản, cái gì em cũng quen tất...
Huyền phì cười, nhưng trong lòng không khỏi xót xa. Nàng không thể tưởng tượng ra đời sống một bác sĩ cán bộ trung cấp và vợ là y tá đã có cả chục năm thâm niên mà khốn cùng đến mức này. Huyền buột miệng ‘’ đất nước ta còn nghèo!’’ như trong những buổi họp dân phố. Nói xong Huyền thấy xấu hổ khi Thuận nhướng mắt lên nhìn.
Thuận cắp rổ, le te vừa đi vừa nói:
- Bác ở nhà với nhà em. Em đi chợ, tối nay có bác cả nhà liên hoan nhé!
Khi chỉ còn hai chị em, Huyền nhìn vào mắt Khiêm, giọng có chút chua chát:
- Thư em viết bảo là cháu Dân đi học. Nhưng học gì, ở đâu thì em bảo còn tìm...
- Vâng. Thú thật, em không về quê nhưng có nhờ bạn bè vùng Kiến Thụy tìm hiểu. Ðịa phương người ta bảo cháu đi học từ cuối năm 74. Em lại đi lùng tin cháu, hỏi các trường đại học ở Hà Nội nhưng không một nơi nào họ biết gì cả. Hay là cháu học đại học ở một thành phố như Hải Phòng hoặc Vinh?
- Sao em không về quê...
Khiêm cúi mặt, mắt đỏ hoe, nuốt nước bọt. Lát sau, Khiêm ngửng lên, thẫn thờ:
- Ba mươi năm nay em chưa về... Ngày khi biết tin mẹ chị mất, em muốn về thắp cho bác một nén hương mà cũng chẳng dám!
- Tại sao?
- Tại vì gia đình ta ba đời là địa chủ. Ông bà mất, bác là con gái được chia hai mẫu, thành trung nông. Còn thày em, ông bà cho mười mẫu, tất là địa chủ. Thày em kệ, bảo bỏ của chạy lấy người, ở mút trên Hà Nội chứ đâu dám đặt chân về làng. Thêm cái tội mình lại công giáo, đủ để mắc mọi thứ vạ...
- Nhưng đó là chuyện Cải Cách Ruộng Ðất năm 55! Huyền ngạc nhiên, tiếp - Vả lại, nhà nước đã nhận và sửa sai rồi cơ mà!
Khiêm thở dài, chiêu một ngụm nước, ngao ngán:
- Chị bảo ruộng mình ‘’người ta ‘’ lấy chia cho nhau. Mình về, thì ‘’người ta ‘’ ngại là mình có ý đồ lấy lại, cách này hay cách khác...
- ‘‘Người ta’’ là những ai?
- Thì ngài Bí Thư Ðảng, ông Chủ tịch xã, và nhất là đồng chí Thường Vụ. Ở nông thôn, phép vua vẫn thua lệ làng. Mà lệ nay là lệ mới, tiếng là lệ của giai cấp vô sản chuyên chính. Sửa sai, nhưng các ông lãnh đạo vẫn nói, Cải Cách Ruộng Ðất ‘‘cơ bản ‘’ vẫn là một thắng lợi, có sai là do cấp dưới thừa hành lệch lạc. Cho nên trên thì quan nói tha, dưới ma vẫn bắt. Nói tình thật, chị về quê em cũng lo lắm, nói để chị ‘‘cảnh giác’’.
Khiêm ngưng nói, đổi ra mặt vẻ tươi cười khi có người bước ngang cửa ngoài. Người đó nhìn vào, làm như không thấy Huyền, hỏi Khiêm:
- Sao, không đi làm hôm nay à?
- Không! Tôi có bà chị mới ra thăm.
- Sài Gòn hả? Người đó nhìn Huyền, mặt lạnh như tiền.
Huyền khẽ gật. Ðợi anh ta đi khuất, Khiêm thì thào, đầu quay về phía sau như sợ có người nghe:
- Ðấy! Ở ‘‘tập thể’’ nó thế! Khiêm tiếp – Có lẽ chắc rồi em cũng sắp vào chiến trường Tây Nam. Em nghe nói đã đánh lớn ở Tây Ninh. Mặt Bắc, quân Trung Quốc được điều tới biên giới.
Khiêm thở dài, đầu lại quay về phía sau, lẩm bẩm:
-...thế là vẫn cứ chiến tranh. Có chiến tranh, mới giải thích được tại sao phải ăn độn, và nhất là bắt ne bắt nét đủ điều. Trên đài, đã ra rả hàng ngày ‘‘ thế hệ thứ ba lên đường Cách Mạng ‘’ rồi...
- Sao Khiêm cứ quay đầu như sợ có người nghe vậy?
- À... nó thành tật, chị ạ. Quay đầu để giữ lấy cái cổ mà!
Xế trưa, Thuận đi chợ về. Bữa cơm chiều dọn ra, Thuận chỉ bát canh, bộp chộp:
- Canh mồng tơi nhé! Nhà em bảo thuở còn bé chị thích món ‘‘lày’’ lắm. Tự nhiên chị nhé, không phải khách ‘‘lữa’’ đâu!
Thằng bé Phương tròn mắt nhìn đĩa thịt gà, reo lên:
- A, hôm nay được ăn cỗ...
Huyền bùi ngùi. Nàng xoa đầu Phương, bảo:
- Ðến hè vào Sài Gòn, hai bác cháu mình tha hồ ăn cỗ!
Nhà bên vặn radio. Tiếng hát chói tai kiểu ‘‘ opera ’’ cất lên, nheo nhéo ‘‘ Ba mươi năm đời ta có Ðảng ’’. Huyền nhăn mặt. Khiêm ra vặn xuyệc-vôn-tơ tăng thế rồi bật đèn, ánh đèn vàng ệch khiến da người như da những kẻ mắc bệnh gan.
Cơm nước xong, Huyền lững thững ra vườn. Bây giờ, khoảnh đất xưa trồng hoa nay thành vườn ‘‘cải thiện’’ trồng rau xanh cho ba hộ chung cư. Huyền bỗng nghe tiếng chó sủa. Có phải con Vện? Huyền ứa nước mắt, nhớ lại cái cảnh con chó theo chân mình ngày xưa và hình ảnh cậu bé Khiêm mếu máo đưa tay lên vẫy. Trong góc vườn, dưới gốc ổi, thằng bé Phương đang mò mẫm. Huyền đến gần hỏi. Nó đưa tay lên miệng suỵt suỵt. Lấy chân dận đất rồi bẻ lá phủ lên, thằng bé kéo tay Huyền, thì thào:
- Cháu chôn xương gà!
- ???
- Không phải ngày Tết mà ăn thịt gà, hàng xóm nó báo! Mẹ cháu bảo thế là ‘‘rách việc ’’.
Thằng bé cũng quay đầu ra sau như bố nó, tiếp:
- ... ăn như thế là không ‘‘ thắt lưng buộc bụng ’’, là trái chính sách nhà nước!
Khi thằng bé dứt lời, Huyền không nhịn được, bật lên khóc.
Ra khỏi thị xã, Núi Ðối lừng lững trước mặt. Huyền cố nhớ lại lối về Thủy Hưng. Trước kia, vòng bờ đê lên và đổ một cái dốc nhỏ đến con đường đất. Ði khoảng một cây số, rẽ trái là vào làng. Nhưng nay, không còn bờ đê xưa. Hợp Tác nông nghiệp có lẽ đã xóa những ranh giới tư hữu, đê thành đất ruộng canh tác và con dốc trở thành một trụ pháo phòng không thời chiến tranh. Cái còn, là trẻ trăn trâu. Chúng vắt vẻo trên lưng trâu, vẫn nón mê, chân đất. Huyền hỏi lối, cuối cùng đến một trụ canh, cửa gắn cái bảng kẻ chữ đỏ ‘‘ Trình giấy tờ ’’. Anh ‘’bảo vệ’’ ngủ gà ngủ gật, bật dậy khi Huyền đằng hắng. Anh xem chứng minh nhân dân, ghi tên rồi bảo ‘’ Lên trụ sở’’. ‘’ Trụ sở nào?’’, Huyền hỏi. Anh sẵng giọng, chỉ tay ‘’ Chỉ có một trụ sở, ở quãng giữa làng. Ði đi’’.
Huyền nén giận trước cách đối xử cửa quyền, lẳng lặng xách tay nải rảo bước. Hôm kia, Khiêm đã cho Huyền mượn cái tay nải bằng vải thô, dặn ‘’ Ðừng dùng vali, nó khác người ta!’’. Rón rén gõ cửa, và khi nghe một tiếng cộc lốc ‘’ Vào’’, Huyền lách người đến trước một cái bàn. Trên bàn, một khay nước và cái điếu cày để cạnh một cái đèn hoa kỳ. ‘’Hỏi ai?’’, anh thường trực còn rất trẻ không ngước lên, giọng trỏng trảnh. Huyền xin gặp người trách nhiệm Ủy Ban hành chính xã. Anh ta gọn lỏn ‘’ Chờ đấy!’’ rồi biến ra sau. Phải đến gần một giờ đồng hồ sau, anh quay lại với một người trạc ngoài ba mươi tuổi, áo kaki vàng, đầu đội mũ, vai gắn cầu đỏ. Người này liếc nhìn Huyền, hỏi chứng minh nhân dân và giấy giới thiệu của cơ quan. Huyền đưa giấy, miệng nói ‘’ Tôi về thắp hương cho mẹ tôi, và tìm con tôi là thương binh Phan Thượng Dân. Vì là việc riêng, tôi không xin giấy giới thiệu của cơ quan’’. Người này à lên một tiếng, tự giới thiệu mình là Thường Vụ của Ủy Ban hành chính xã. Sau đó, Huyền phải trả lời hàng loạt những câu hỏi, như chị công tác ở cơ quan nào, vào Nam làm gì, ra đây định ở bảo lâu...Cuối cùng, khi biết Huyền cũng từng công tác trong ngành công an, anh Thường Vụ xởi lởi gọi Huyền bằng đồng chí, và lệnh cho ‘’đồng chí’’ thường trực dẫn Huyền về nhà. Anh nghiêm trang:
- Từ ngày đồng chí Dân được lên đi học đại học ở Hà Nội, chúng tôi giữ nhà, khóa trái cửa, của đâu còn đó, nguyên vẹn cả!
Huyền vội vã:
- Có bao giờ cháu về không, thưa đồng chí?
- Không! Thấm thoát thế mà hơn ba năm rồi! Chắc là anh ấy phải phấn đấu lắm. Làng mình, tốt nghiệp đại học đếm chưa quá số ngón một bàn tay đấy! Thế là được ‘’ ưu tiên’’ lắm. Thương binh hạng ba mà!
Anh thường trực mở cửa cho Huyền. Anh chưa đi ngay, hỏi Huyền có cần giúp đỡ gì nữa không. Huyền nhẹ nhàng:
- Mộ mẹ tôi chỗ nào, anh có biết không?
Anh ta lắc đầu, hứa sẽ tìm ra cho Huyền.
Huyền vào nhà. Cả một thời thơ thiếu nhỏ ùa vào theo như giải nắng vàng bước qua thềm cửa. Huyền bỗng cảm thấy mình bé lại. Từ lúc lẫm chẫm học đi cho đến khi năm sáu tuổi, đây là nơi nàng tung tăng theo bạn đi rình những con kiến cam, bắt những con bướm trắng. Huyền úp mặt vào cây cột chính giữa nhà. Gỗ lâu ngày lên nước bóng loáng như thoa mỡ. Thuở tấm bé, nàng đã ngã, đầu đập vào cột toé máu, thất thanh gọi mẹ. Bao nhiêu năm đã trôi qua? Bao nhiêu cuộc đổi dời? Ðể hôm nay, nàng về đây, như một người lạ giữa gian nhà thời ấu thơ. Mẹ, mẹ ơi! Huyền lại gọi, lần này không là tiếng thất thanh, nhưng nghẹn ngào trôi xuống cổ họng như một bát thuốc đắng.
Không biết bao lâu sau, Huyền nghe có tiếng chân, vội đưa tay lên lau nước mắt. Một người đàn bà cất tiếng, giọng chua chua:
- Em chào chị. Chị là chị Huyền ạ?
Huyền gật.
- Ấy, em được báo nên vội chạy đến ngay. Nhà em là Chủ Tịch Ủy Ban ở đây, dặn em nhắn là mai mời chị lên trụ sở. Hôm nay, em là người đưa chị đi viếng mộ bà. Tay đưa lên, người đàn bà tiếp - đây em đã sắm sửa hương, đèn rồi...
Huyền cám ơn. Người đàn bà cười hềnh hệch:
- Em là Quyên, hiện phụ trách Phụ nữ trong xã nhà. Suỵt soạt, Quyên hạ giọng - Khi bà đi, cả làng xúm vào mai táng, nghĩa tử là nghĩa tận mà chị!
Hai người đi về cuối làng. Nắng nhạt dần trên đầu mái rạ như tóc đang ngả màu. Bãi tha ma đìu hiu trong những vạt gió chiều thoáng đến thoáng đi. Quyên lên tiếng:
- Cơ khổ, bà cao tuổi, lại chỉ một mình từ khi anh Dân đi chiến trường, thỉnh thoảng chỉ có bà Nhiều làng bên đến thăm. Tự dưng, có một ông từ Hưng Nguyên, xưng là bác của anh Dân đến rồi lăn quay ra ốm. Thế là bà phải chăm sóc cho ông ta. Hai tuần sau thì ông ta chết. Bà lại lo chôn cất. Có lẽ vì thế mà bà yếu hẳn đi... Ba tháng sau cái chết của ông bác, bà cũng về với ông bà ông vải...
Huyền chột dạ. Ông bác từ Hưng Nguyên? Hay là Nguyễn Trường Văn, em của Chính? Huyền ngập ngừng:
- Ông bác tên gì hả chị?
- Lâu em cũng quên mất. Nhưng trên Ủy Ban thì lưu hồ sơ cả.
- Chắc mộ ông ấy cũng ở đây?
- Vâng. Nhưng chôn ở rìa làng chứ không gần chỗ bà là người làng ta.
Ðến một khúc vòng, Quyên tiến lên trước, vạch cỏ bước vào. Huyền hồi hộp đi theo. Quyên trỏ:
- Mộ bà đây, chị ạ!
Đó là một gò đất cỏ dại mọc lấn ra hai bên, nếu không biết thì chịu không thể đoán ra là mộ phần. Huyền ngẩn ngơ, rồi ngồi thụp xuống. Dưới ba tấc đất này là xương cốt mẹ ư? Ðầu Huyền trống tênh. Mọi cảm giác như tê liệt. Huyền đưa tay sờ vào đất, vào cỏ, và thấy mình là một người xa lạ. Huyền ơi! Thầm gọi mình, Huyền ứa nước mắt, những giọt nước mắt thương thân của một kẻ lạc loài ngồi trước mộ phần người mang nặng đẻ đau ra mình. Quay về phía Quyên, Huyền nhỏ nhẹ nhưng cương quyết:
- Chị về trước, cho em một mình ở đây với mẹ em!
Khi Quyên khuất bóng, Huyền ngồi nhổ cỏ và vun đất lại cho ngôi mộ ngay ngắn. Lúc ấy, nàng mới òa lên khóc thành tiếng. Đánh diêm châm bó nhang, vẩy cho tắt lửa, nàng cắm vào chân mộ. Chắp tay, nàng khấn thầm, mẹ linh thiêng, xin mẹ về chứng giám đứa con bất hiếu đã bỏ mẹ đi xa, để rồi sống một cuộc đời lỡ dở. Giờ đây, chỉ còn hai cháu, một lại tù tội. Xin mẹ phù hộ cho chúng nó. Một vài năm nữa con sẽ về xây lại mộ mẹ cho đàng hoàng, mang hai cháu về cho chúng nó lạy bà... Trong im vắng, Huyền nghe đâu đây một tiếng thở dài. Ðầu nàng doãi ra như một sợi thung nhão. Văng vẳng, ai đó nói, ‘‘xây mồ xây ở trên, dưới ba tấc đất vẫn thế, lạnh lắm...’’.
Huyền rùng mình. Ðầu bó nhang bỗng bốc lửa cháy phừng phực. Gió thốc lên cuốn tròn khiến Huyền có cảm tưởng đang bay lên, bay lên. Nàng nhắm mắt lại. Lát sau, tiếng chân sau lưng khiến Huyền quay lại. Một cậu con trai cụt một tay bước đến gần, miệng nhỏ nhẹ:
- Cháu chào cô. Cháu là Thành, bạn của Dân.
Huyền ngỡ ngàng không nhớ được Thành là con nhà ai. Kêu mệt, Huyền đứng dậy quay về nhà. Thành đi bên kể về Dân cho Huyền nghe, đến cửa thì chào rồi quay đi. Vào nhà, Huyền thấy trên chiếc bàn một ấm nước chè, một khúc sắn luộc và chiếc đèn dầu. Ðóng cửa lại, Huyền thầm nhủ, chắc là Thành mang lại. Kiệt sức, Huyền lết chân về phía chiếc trõng tre để trong một góc.
Người đàn ông xiêu vẹo, cánh tay trái xụi xuống, đứng nhìn Huyền tròng trọc. Ơ hay, ông là ai? Tiếng chó sủa ma tru lên. Ðêm đen như mực tầu. Gió lùa trên mái nhịp cho tiếng côn trùng văng vẳng lúc bổng lúc trầm. Người đàn ông giơ tay phải lên, ngón tay trỏ ra ngoài. Ðêm hôm, đi đâu? Huyền hỏi, ngực tức, cổ họng tắc lại khò khè. Mặt khuất trong bóng tối, người đàn ông vẫn đứng, ngón tay trỏ sáng lên. Ra ngoài ư, nhưng để làm gì lúc tối trời? Người đàn ông đến cạnh chiếc trõng tre, tay phải kéo áo Huyền. Nàng chồm dậy. Nửa tỉnh nửa mê, Huyền căng tròn mắt. Không, không có ai! Nàng nhìn đồng hồ tay. Ðã gần bốn giờ sáng. Huyền vuốt mặt, với chiếc ấm nước rót vào một cái bát. Ngụm nước chè đã lạnh trôi qua cổ. Huyền cồn cào trong bụng, cầm khúc sắn nguội lên ăn. Một lát sau, gà gáy sáng, hết con này đến con kia, tiếng ran lên vang vang khắp nơi. Huyền châm đèn rồi dựa lưng vào vách, nhớ lại giấc mơ và ngón tay trỏ người đàn ông chỉ ra cửa.
Sáng rõ, Huyền lên trụ sở Ủy Ban xã trình diện. Tiếp Huyền, có Bí Thư và Chủ Tịch ủy ban nhân dân xã. Ðồng chí Thường vụ, người phục trách công an, cũng có mặt. Lại một bài, có lẽ được nhắc đi nhắc lại nhiều lần. Xã còn nghèo, nhưng thu hoạch của Hợp Tác xã từ ngày giải phóng đã vượt chỉ tiêu, ăn độn là vì phải chi viện cho những nơi sản xuất còn yếu. Rồi xã ‘’ta’’ cần máy bơm, cần hạt giống. Sau là các loại quĩ. Quĩ để xây trường học, quĩ để ‘’cải thiện’’ cho các cụ phụ lão, quĩ yểm trợ thương phế binh, quĩ cho gia đình liệt sĩ... Đồng chí Chủ tịch ngọt ngào:
- Ấy người xã ta từ miền Nam về thăm cũng đóng góp, tình nghĩa lắm. Chẳng hạn như cụ X, ông Y... Họ đều đi ‘’ Nam tiến’’ từ thời kháng chiến chống Pháp, về làng mang tặng...
Huyền nghe, ruột như mớ bòng bong, cố mỉm cười. Ðến lúc đồng chí Bí Thư thăm dò Huyền có ‘’nguyện vọng’’ gì thì Huyền hỏi về ông bác Dân về làng rồi chết, xã ‘’ta’’ lưu hồ sơ, xin cho biết là ai. Ðồng chí Bí Thư nhìn Thường Vụ. Ðồng chí Thưòng Vụ hẹn Huyền đến trưa quay lại.
Huyền ra khỏi trụ sở Ủy Ban, thấy Thành lởn vởn, xung quanh một đám thương binh. Họ hàng chục mạng trẻ măng, người què một chân thì chống nạng, người còn hai chân thì ngồi xổm. Có kẻ mất cả hai tay, áo bộ đội bạc thếch xắn lên, vắt vẻo đung đưa mỗi lần cử động. Họ nhìn Huyền, trố mắt nhưng cười thân thiện. Thành nói to:
- Chúng cháu chào cô. Tay chỉ đám thương binh, Thành tiếp – đây là đám cùng cảnh với anh Dân cả...
Huyền xót ruột, gật đầu chào. Huyền hỏi có ai cùng đơn vị với Dân không, nhưng mọi người lắc đầu. Một anh, vẻ lém miệng, thốt:
- Bên Nghi Dương có Chính Ủy tiểu đoàn là Cự, hình như cùng đơn vị với anh Dân nhà mình trong trận Quảng Trị. Nhưng nay anh Cự ở Phúc Xá trên Hà Nội, cô ạ!
Ðến cạnh Huyền, anh ta nhìn trước nhìn sau rồi thì thào:
- Có ai bảo cô đóng góp cho quĩ yểm trợ thương binh thì cô chớ. ‘’ Chúng nó’’ tém hết, bọn cháu được phát tám đồng một tháng, đói vẫn cứ đói. Cô cho gì chúng cháu, cứ cho thẳng, đừng cống hiến gì cho cái quĩ của chúng nó...
Nói xong, anh ta chống nạng đi. Ðám thương binh bước theo, ngoái cổ đồng thanh chào. Thành đứng lại. Huyền nhớ đến khúc sắn, ấm nước chè và ngọn đèn dầu, cám ơn. Hỏi về Dân, Thành kể là Dân đến cuối năm 73 thì về, cụt một chân. Ban đầu, Ủy Ban để cho Dân phụ trách sổ sách công điểm của Hợp Tác xã. Sau khi không ăn ý với Ủy Ban về chuyện chấm công, Dân bị đẩy ra, xin đi học. Là thương binh, lại Ðảng viên, Dân hưởng chế độ ưu tiên và lên Hà Nội học khoa Văn trường Tổng Hợp niên khóa đầu 75. Thành xuýt xoa:
- Anh ấy giỏi, lại phấn đấu tốt chứ cứ như cháu thì đầu đặc cán mai, chẳng học hành gì được...Năm sau, chúng cháu dưới này nghe là anh ấy lấy vợ người Yên Phong ở Ý Yên. Nhà trai, trừ cháu ra, chẳng có ai nên phải mời anh Cự đứng ra...Từ đó, không thấy Dân về làng!
Huyền mừng rỡ, vỗi vã cắt lời Thành:
- Thế vợ Dân tên là gì?
- Là Thắm, xưa cũng ở chiến trường Quảng Trị!
Lặng người đi, Huyền giấu cảm xúc, mím môi quay mặt. Thế là Dân đã lập gia đình. Và biết đâu, Huyền thầm nhủ, mình đã chẳng là bà ngoại. Niềm vui đầu tiên ập đến thật bất ngờ, như kẻ đi đường bỗng nhặt được một cái gì quí vô giá. Bỗng dưng, nàng quên hết. Nỗi ưu phiền từ ngày đặt chân về quê cha đất tổ tự nhiên biến đi, hệt như cái bong bóng xà phòng gió thổi bay lên rồi vỡ ra không tăm tích.
Bà chủ tịch Ủy Ban tên Quyên ở đâu le te chạy lại, ríu rít:
- Chị Huyền, em tìm chị mãi...
Nghe câu đãi bôi đó, Huyền cũng chẳng thấy khó chịu. Nàng chỉ cười. Thành chào Huyền, quay bước khi thấy Quyên. Ðợi cho Thành đi, Quyên mời:
- Chị vào nhà em uống chén nước!
Không đợi Huyền đáp, Quyên kéo đi, miệng lại léo nhéo:
- Ðừng cười chúng em nghèo nhé! Cán bộ chúng em trung với Ðảng, hiếu với Dân, cần kiệm liêm chính mà lị! So với miền Nam, đúng là rớt mồng tơi, nhưng được cái lòng thảnh thơi, chị ạ!
Câu chuyện của Quyên lải nhải xoay quanh sự thiếu thốn ‘‘có tính giai đoạn ’’ ở miền Bắc. Thấy Huyền không mặn mà, Quyên hỏi thẳng:
- Em định xin chị đóng góp ít nhiều cho quĩ Phụ nữ chúng em. Không ngượng ngùng, Quyên đặt giá - cụ X... năm ngoái cho một trăm, còn ông Y, tám chục... Tiền tình tiền nghĩa đấy
Huyền đỏ mặt. Tình nghĩa nay tính thành tiền? Ở Hà Nội, nàng ăn một bát phở ‘‘ không người lái ’’ có năm hào. Quyên đon đả:
- Tối nay mời chị sang ăn một bữa rau dưa với gia đình em!
Huyền lảng, cám ơn rồi bảo đã định sang làng bên thăm bà Nhiều.
Cắp nón, Huyền chào rồi ra khỏi nhà Quyên. Nắng lên đến đỉnh ngọn tre, nóng hầm hập. Bước vào trụ sở Ủy Ban, Huyền hỏi thường trực. Một lát sau, đồng chí Thường Vụ ra, tay ôm một chồng giấy. Ðồng chí sột soạt giở trước mặt Huyền, nửa tiếng sau thì reo lên, miệng kêu ‘’ Ðây rồi’’. Ðó là giấy khai tử. Huyền đọc, người cứng lại, tên viết rõ ràng là Phan Thượng Chính. Hít vào một hơi dài, Huyền hỏi:
- Ủy Ban ‘’ ta’’ có lưu giấy tờ không?
Ðồng chí Thường Vụ đáp:
- Có chứ! Chứng minh nhân dân của người chết đây.
Huyền cầm lấy, nhìn tấm ảnh nhỏ xíu dán ở một góc. Thôi, đúng rồi. Ảnh là ảnh Chính. Ðồng chí Thường Vụ hỏi:
- Chị nhận ra người thân chưa?
Bản năng tự vệ khiến Huyền mím môi, lắc đầu:
- Ông bác này tôi chỉ nghe nói đến, nhưng chưa gặp bao giờ!
Liếc mắt nhìn tờ giấy khai tử, Huyền đọc,...chết ngày 3 tháng 1 năm 1973. Cố giữ vẻ tự nhiên, Huyền nói:
- Bác họ xa ấy mà. Nhưng về đến đây thì cũng phải thắp cho ông ấy nén hương. Nghĩa tử là nghĩa tận!
Ra khỏi Ủy Ban, Huyền đi như chạy về nhà. Ðừng, Huyền ơi! Không được khóc. Anh ấy thế là đi mất rồi. Thảo nào chẳng tin tức gì từ ngày giải phóng. Thế mà, thế mà... đã có lúc em nghĩ oan cho anh. Là anh đã con này vợ nọ, bỏ mẹ con em. Huyền vừa đi vừa lẩm nhẩm cho đến khi nàng đẩy cửa vào nhà thì nước mắt tuôn thành một dòng lũ xoáy đến vỡ bờ, xói đến mòn đất. Cứ thế, thời gian nhập nhòa. Trời đất nhập nhòa. Cái con người Huyền tự nguyện hiến cả đời mình không còn trên thế gian này nữa rồi. Huyền bỗng thấy quãng đường trước mặt dài hun hút, đen thăm thẳm và trống vắng mông mênh.
Sửa sang nhang đèn, Huyền đi thẳng ra bãi tha ma. Mộ Chính ở tít tắp rìa làng, như Thành đã dặn dò. Nàng bới cây bới cỏ, một lúc thì thấy một gò đất nhô lên. Nỗi đau đớn khiến Huyền mụ người đi. Như cái máy, nàng nhổ cỏ, vun đất, nét mặt như bị hớp hồn. Khi cắm những cây nhang dưới chân mộ Chính, nàng cảm thấy hai mươi mấy năm chờ đợi chợt như làn khói mỏng từ chấm đỏ đầu những cây nhang bay lên. Khói loãng ra, biến đi như chưa bao giờ hiện hữu. Tất cả, hệt một cơn mơ. Lúc thức giấc, nó vẫn chập chờn đó đây, không đầu không đuôi, nhưng hầu như không còn một chút trói buộc nào vào cuộc đời. Nàng buồn bã nghĩ, thật ra, có phải hôm nay mình mới góa bụa đâu. Cái kiếp gái góa, nàng đã chọn từ đầu những năm 60 để giữ cơn mơ một ngày đoàn viên không tưởng. Và hôm nay, Huyền cắn môi đến bật máu, biết nàng vừa kết thúc cơn mơ đó bằng dăm nén nhang cắm vào vào suốt một thời tưởng như có thật.
Loáng thoáng nghe tiếng chân người ngoài thềm, Huyền nhìn ra, thấy Thành và một bà già. Tự mình sang làng bên báo tin Huyền về cho bà Nhiều, Thành về nhưng bà đòi theo. Bà chống gậy đi, cuối trưa mới đến. Là một người cô, họ hàng xa, thuở xưa bà hay đi lại với mẹ nên Huyền còn nhớ. Mừng mừng tủi tủi, hai cô cháu nắm tay nhau. Bà Nhiều thì thào:
- Cô gần mẹ con cho đến phút cuối. Mẹ con trối thế này, dặn cô nói lại...
Huyền nắm chặt tay bà, lắc như giục. Bà Nhiều chậm rãi:
- ...rằng nếu ơn trên cho cô gặp con gặp cháu tôi, cô nói lại là cứ lên Hưng Nguyên hỏi ông Tín, sẽ biết mọi chuyện!
Huyền nhớ thuở sinh tiền, Chính kể có người em tên Văn được thụ phong linh mục, nhưng phục vụ ở giáo phận nào thì nàng không biết. Ông Tín là ai đây? Nhớ đến Chính, nàng lại xót xa, bật khóc. Bà Nhiều lẩm bẩm:
- Ðến là khổ... Cô tắm rửa cho mẹ con, khi khâm liệm không có đến một mảnh vải trắng để đắp mặt. Cháu Dân thì ở chiến trường, muốn báo cũng không biết chỗ nào mà báo. Mấy tháng sau, nó về, cụt một chân nhưng may còn sống. Cô cũng nói lại cho nó lời trối của mẹ con. Hình như nó có đi Hưng Nguyên, nhưng không nói gì với cô cả!
Bà Nhiều về, Huyền tiễn ra đến cuối làng mới chia tay. Bước một mình trên con đê gập gềnh, Huyền ngẫm nghĩ, tự hỏi Chính xưa đã là cán bộ cao cấp, làm sao khi chết lại chôn ở một bãi tha ma như một kẻ vô thừa nhận thế này? Có điều gì khó hiểu vượt khỏi tầm suy luận. Nàng tự nhủ, bằng giá nào thì nàng cũng phải đi Hưng Nguyên. Lời mẹ trối trăn lạ lùng: tìm ông Tín thì sẽ biết hết mọi chuyện! Nhưng chuyện gì mà bí mật đến thế? Huyền xoay ngang lật dọc đủ cách, cái màn u u minh minh vẫn cứ chập chờn như thách thức trêu chọc.
Trên bến xe thị xã Kiến Thụy, Huyền đứng đợi với Thành. Sốt ruột, Huyền hỏi anh lái phụ, anh ta đáp, lúc nào cũng một câu ‘’ Tí nữa thôi...’’. Chẳng có giờ giấc gì, khách lúc tục, tay xách nách mang lên xe, cứ việc ngồi chờ. Thành nói nhỏ ‘’ Ðám con phe ‘‘ đi hàng ’’ đấy. Cô lên xe đi, tí nữa sợ không có chỗ ngồi’’. Huyền giúi vào tay Thành một cái phong bì. Thành giẫy lên, trả lại, giọng van vỉ ‘’ Cô cho nhưng cháu không nhận đâu. Cô gặp Dân, cứ hỏi khắc biết cháu với Dân như anh em. Chỉ cần cô nhắn nó thỉnh thoảng cố về làng cho cháu là đủ!’’. Huyền nghiêm mặt ‘‘...nếu là anh em với Dân thì phải để cô đối xử như đối với Dân. Cháu nhận cho cô vui lòng, thật ra quà này là tình nghĩa, có gì đâu cháu phải ngại.’’. Nhìn Thành rơm rớm nước mắt, Huyền giục, ‘’ Thôi, cháu về. Giúp cô thỉnh thoảng đến nhổ cỏ mộ bà và mộ ông bác cho cô...’’.
Thành vẫn đứng tần ngần cho đến khi xe chạy, đưa cánh tay lành lên vẫy vẫy. Xe đến Hải Phòng. Từ Hải Phòng, Huyền phải bắt xe khách đi Nam Ðịnh. Ðến đó, không hiểu sẽ đi thế nào về Ý Yên. Huyền dựa lưng vào thành xe, nghĩ ngợi miên man. Mẹ chết, nhưng Huyền đã biết trước, vả lại ai già mà không rồi cũng phải vậy. Còn Chính. Với nàng, đúng là sinh ly tử biệt, nhưng vùi xuống đất thì ai cũng thế. Huyền chỉ thắc mắc, tại sao với một con người đã xả thân cho Cách Mạng khi sống, lúc chết lại chỉ còn là một nấm mồ vô thừa nhận? Huyền chua chát, dù thế nào thì Chính chết đã hơn năm năm, không thể viện là chiến tranh ác liệt nữa để bào chữa cho cách đối xử vong ân bạc nghĩa. Nhưng thôi. Ðừng để quá khứ đằng trước. Sau này đi Hưng Nguyên xem sao đã. Bây giờ, là lúc đi tìm Dân. Và nay, có thêm Thắm. Ðó là tương lai. Khi yên ổn, Huyền nghĩ, sẽ cố tìm cho Dân một chiếc chân giả. Huyền nghe nói là với kỹ thuật tiên tiến, lắp chân giả đi không cần chống nạng.
Xế trưa, Huyền mới tới được Nam Ðịnh. Quanh bến xe, nhà cửa tiêu điều. Năm ba thanh niên giắt xe đạp ùa ra vây quanh khách. Thì ra họ đến thồ hàng, xe nào cũng trang bị phía sau một cái poọc-ba-ga kềnh càng bằng gỗ. Huyền vẫy, một anh nhanh nhảu sáp lại. Huyền hỏi, anh ta nhăn mặt ‘‘Ý Yên rộng, cô về xã nào?’’. Huyền nói xã Yên Phong. Anh nheo mắt, ‘‘Xa đấy’’. Mặc cả một lúc, anh ta nhận, hỏi ‘‘hàng của cô đâu? ’’. Huyền mỉm cười lắc đầu. Anh thanh niên chỉ ra sau, nói ‘‘Cô lên ngồi đây, cháu giữ xe, đừng sợ ngã’’. Anh đẩy xe đi cho đến khi có đà, nhảy phóc lên yên, vừa đạp vừa nói ‘‘Ði thế này mất độ hơn một giờ thì tới, cô ạ! ’’.
Khi trời nhá nhem, Huyền đặt chân vào xã Yên Phong. Xốc tay nải lên vai, nàng bồi hồi, tưởng tượng Dân như Nhân, cũng dong dỏng cao, chỉ thiếu một cái chân. Vào ngay căn nhà đầu tiên, Huyền hỏi thăm một ông cụ đang ngồi đan rổ:
- Cụ cho cháu hỏi thăm nhà cô Thắm!
Ngước lên, ông cụ móm mém hỏi lại:
- Cái Thắm? Có phải cái Thắm nhà bà Lý Văn không?
Huyền không biết, nhưng cứ gật đầu, thầm nhủ không phải thì hỏi lại. Ông cụ đứng dậy bước ra thềm nhà. Húng hắng ho, ông khàn khàn:
- Bà đi về phía này! Tay chỉ, ông nói tiếp - cứ đi đến cái miếu thờ Thành Hoàng thì bà rẽ trái, nhà thứ ba là nhà Lý Văn...
Cám ơn ông cụ, Huyền tất tả bước. Dân lấy vợ thế là đã suýt soát ba năm, Huyền tính nhẩm. Chẳng hiểu con cái thế nào? Còn Thắm, năm nay bao nhiêu tuổi? Huyền nóng lòng, đi như chạy. Rẽ trái. Một, rồi hai. Ðây là căn nhà thứ ba, ngoài có một hàng dậu thưa xiêu vẹo. Huyền gióng tiếng:
- Cho tôi hỏi bà Lý Văn?
Trong nhà có người đáp:
- Ai đó? Chờ một tẹo...
Huyền đẩy cánh cổng khép hờ. Một bà cụ lưng đã còng chống gậy quờ quạng bước ra. Bà ngước cặp mắt đỏ hoe, hấp háy như hỏi. Huyền vội vã:
- Bà là mẹ của cô Thắm?
- Không, tôi là bà cái Thắm...
Huyền mừng rỡ:
- Bà ơi! Cháu là mẹ của cháu Dân đây?
- Ối giời ơi! Bà cụ kêu như thét lên, tay nắm lấy Huyền, lắp bắp - thật thế hả!
Từ cặp mắt đã lòa, nước mắt bà tuôn ra. Linh tính báo Huyền một điều gì đó chẳng lành. Bà cụ kéo Huyền vào nhà, vừa đi vừa ấm ức:
- Chúng nó đi cả rồi, bà ơi!
Huyền lặng người đi. Hai hàng nước mắt bà Lý như lớp băng tan cuốn trôi nỗi hân hoan nàng ấp ủ. Bà cụ lập lại:
- Chúng nó đi cả, bỏ tôi một mình rồi... bà ơi!
Tối hôm đó, Huyền hỏi bà lý Văn. Sau giải phóng được gần một năm, Dân tìm được Thắm, sau Tết thì hai người làm đám cưới. Thuở đó, Dân tiếp tục học, một hai tháng mới về Ý Yên một lần. Ở làng, Thắm đi làm đồng trong Hợp Tác Xã. Tiêu chuẩn tem phiếu không đủ, Thắm xoay sang làm thêm ở lò gạch. Bà Lý kể, cha Thắm hy sinh ở Ðiện Biên Phủ. Mẹ Thắm bỏ đi bước nữa, để hai đứa con cho bà nội. Em trai Thắm đi bộ đội rồi đào ngũ. Cả làng xúm lại lăng nhục gia đình bà đến nỗi Thắm gạt nước mắt, xin đi Thanh Niên Xung Phong. Thắm an ủi bà ‘’ Như thế để gỡ danh dự rồi mới sống được với làng xóm, bà ạ! Họ ác lắm!’’. Bà thở dài ‘’...nó đi như thế hơn bốn năm, về thì còn lành lặn, nhờ ơn Giời Phật’’. Phần thằng em Thắm, sau nó đi buôn chè, buôn sắn, bị bắt đưa đi cải tạo ở đâu bà cũng không biết. Thắm về, rồi lấy chồng, bà đã tưởng được yên thân đợi ngày về với ông bà ông vải. Rồi Thắm có chửa, không cưu mang được công việc, nhà túng bấn, bữa đói bữa no. Thuở đó, Thắm hay lên cơn đau bụng, y tá ở trạm Y Tế xã bảo thế là bình thường. Ðâu chửa đến tháng thứ bảy, sau những cơn đau bụng là tử cung ra máu. Thắm nhịn đau, giấu bà, giấu Dân. Hôm Thắm chuyển dạ, Dân không có đó, vẫn ở trên Hà Nội. Ðêm hôm nên chưa kịp đưa đến trạm Y Tế, Thắm đẻ.
Kể đến đó, bà lý ôm lấy mặt, sụt sùi, không nói được nữa. Lát sau, bà kêu, giọng não nề:
- Giời ơi là giời! Nó không phải là người. Không chân, không tay, chỉ có cái đầu méo mó, chẳng biết đâu là mắt, là mũi. Còn cái mồm, thì loe ra như mõm cá trê... Tôi lau cho sạch, nó thoi thóp, chắc là thở... Con Thắm nhà tôi nhìn cái bào thai rồi cứ thế khóc, cả ngày lẫn đêm. Mấy hôm sau, đợi đến nửa đêm, nó bọc cái bào thai không mang hình dạng con người lẻn trốn, viết lại hai hàng chữ ‘’ Bà tha lỗi cho cháu, anh Dân tha lỗi cho em’’. Khi Dân về, đọc được, Dân chống nạng đi từ đầu làng tới cuối làng gọi tên Thắm đến khản cổ. Vô vọng, Dân chửi ‘’ Cha tiên nhân chúng mày!’’, không biết là chửi ai. Vài ngày sau, Dân bỏ đi, nói với bà Lý ‘’ Con đi tìm nhà con’’. Nhưng Dân không còn bình thường, lúc nhớ lúc quên, đêm ngủ lắm khi la thét như phát điên. Thanh niên trong làng phải cột Dân vào chiếc trõng, rồi cho người lên Hà Nội tìm vợ chồng Cự. Vốn là những người độc nhất gần gụi Dân, họ về ngay và đưa Dân đi chữa trị...
Bà Lý lại không kìm được, thổn thức:
- Thế là đã gần hai năm nay rồi, chúng nó bỏ đi cả! Ði đâu? Tôi cũng chẳng biết!
Giời hỡi! Huyền nghiến răng. Dân ơi, con đang ở chốn nào rồi? Huyền muốn chết, chết vì bất lực, chết vì chẳng làm gì được để thay đổi cái cuộc sống khốn nạn này. Nàng lấy hết nghị lực, cầm tay bà Lý, nhưng không nói được gì. Có lẽ lâu lắm bà Lý mới khóc được với một người dính vào kiếp mình qua cái sợi dây định mệnh khắc nghiệt của con, của cháu. Bà chúi đầu xuống khóc vùi, khóc mãi, cứ thế khóc cho đến sáng.
Ðêm đó, là đêm dài nhất trong đời Huyền.
Về đến Hà Nội, Huyền đi thẳng lại trụ sở công an thành phố. Nộp đơn xin đi thăm Nhân ở trại cải tạo Tân Lập ngay từ khi ra Bắc, Huyền hy vọng có phép đi thăm nuôi. Ðầu óc rã rời, Huyền ngồi ở phòng đợi, cơ thể ê ẩm đau như giần. Một nhân viên ra gọi tên. Huyền vào, lòng thấp thỏm. Người sĩ quan ngồi sau bàn giấy chỉ cho Huyền ngồi xuống, giọng nhẹ nhàng:
- Ðơn xin của bà không được trên chấp nhận. Một lẽ, là khi bà xin đi phép ra Bắc, bà chỉ ghi nguyện vọng về thăm làng xã. Lẽ thứ hai, vấn đề an ninh hiện hơi gay!
Thất vọng, nhưng Huyền không còn sức để buồn. Nàng đứng lên, biết xin xỏ gì cũng vô ích. Huyền gọi xe xích lô về thẳng nhà nhà Khiêm. Chỉ có thằng bé Phương ở nhà. Nó lại ‘’ Cháu chào bác ạ!’’. Huyền xoa đầu nó, không nói không rằng ngả mình xuống chiếc giường sau cánh màn buồng trong. Nàng nhắm mắt, lát sau không còn biết gì nữa.
Buổi tối, nàng kể chuyện về Dân rồi nhờ Khiêm hỏi dò chỗ ở của Cự ở Phúc Xá, hy vọng tìm ra Dân. Khiêm đích thân lên Phúc Xá, nhưng Cự và Xuân không còn ở đó nữa. Căn nhà của họ nay được phân cho một gia đình khác, đều từ B ra nên không hay biết gì. Huyền thất vọng, biết mình chẳng làm gì hơn được.
Ngày hôm sau, mới từ tờ mờ sáng, Huyền đi cùng Khiêm ra ga Hàng Cỏ mua vé xe về Sài Gòn. Trước quầy vé, một đoàn người xếp hàng, chen chúc, đứng ngồi trước sau những cục gạch. Khi hàng nhích lên, chủ nhân cục gạch đến lấy chân đẩy nó, xong lại ra đứng dựa cột chuyện trò hay phì phèo thuốc lá, mắt nhìn đám người mua vé chẳng chút thiện cảm nào. Huyền còn ngạc nhiên thì Khiêm thì thào, đầu vẫn lại quay về phía sau, ‘’... Đám ‘‘ đầu gấu ’’ đấy, đừng có đụng vào chúng nó’’. Một thằng bé chạc mười hai, mười ba đến gần trâng tráo ‘’ Ông bà mua vé, cháu có’’. Huyền hỏi:
- Vé vào Sài Gòn, nhưng ghé Vinh chặng đầu, có không?
Thằng bé cười:
- Vé lên trời cũng có bà ạ!
Nhìn hàng người nối đuôi nhau dài ra đến cửa ga, Huyền gật đầu. Thằng bé bảo ‘’ Ông bà theo cháu’’ rồi lỉnh đi trước. Quanh co trong những cái ngõ hẹp nằm cạnh ga, lát sau Huyền và Khiêm đến trước một căn nhà. Thằng bé bảo ‘’ Ðại lý vé ở đây’’ rồi gọi to. Một người thò đầu ra. Giá vé tùy, đi ngay rất đắt. Ngày đi càng xa, giá càng rẻ. Cắt thành chặng, phải thêm tiền. ‘’ Cái gì cũng có giá của nó, ông bà ạ’’, ông đại lý vé vừa rê râu mép, vừa cười vừa nói. Ông ta dọa, ra mua ở quầy vé trong ga thì tháng sau mới có chỗ. Huyền gật đầu, mua vé đi ngày mai, đến Vinh ở ba ngày rồi mới tiếp tục về Sài Gòn. Ông đại lý hỏi ‘’ Bà có hàng không, hay chỉ người?’’. Huyền đáp, ông ta vờ vĩnh bảo chờ. Mươi phút sau, ông ra giá. Ðể mặc cho Khiêm mặc cả, Huyền chán nản ra cửa chờ.
Sau khi mua vé, Huyền để Khiêm đi làm, tản bộ dọc hồ Hoàn Kiếm. Men phố Hàng Ðào, nàng đi về phía chợ Ðồng Xuân. So với thời nàng làm công tác dân vận cách đây ba mươi năm, chợ vẫn vậy, có phần cũ đi. Người đi lại đông hơn, và ở vài ngã tư, một đám thanh niên đeo băng đỏ đứng, cạnh là bảng Thành Ðoàn và một băng vải trắng có kẻ chữ ‘‘ Bảo vệ nếp sống văn minh’’. Họ thỉnh thoảng lại thổi còi, chặn cả người đi lẫn người đạp xe đạp. Họ nhìn ống quần, tóc tai. Nếp sống văn minh không chấp nhận quần loe, tóc dài. Họ túm lấy bọn trẻ, quát đứng yên, rồi họ xẻ ống quần nếu rộng quá hai mươi phân. Hoặc lấy kéo cắt xoẹt những mái tóc nam họ cho là dài. Huyền đứng lại nhìn. Nàng buồn nôn, tay đưa lên miệng. Một đoàn viên quát ‘’...Bà kia, đi ngay. Ðứng đó cản trở giao thông à? ’’.
Huyền cuống lên, chân bước trong cơn mộng du, đi như bay trên mặt đất. Hà Nội bỗng cũ hẳn đi, lùi về thời Chúa Trịnh - Vua Lê. Ðám kiêu binh ngênh ngang giữa ban ngày ban mặt, tay dao tay kéo, hò hét nạt nộ. Chợ náo loạn. Có tiếng thét, tiếng khóc, tiếng chửi. Những người bán rong đứng lên cắp rổ, mắt nhớn nhác, chân trước chân sau. Thình lình, trời xập tối, tiếng đồng thanh kêu lên: ‘’ Mặt trời bị con gấu nó ngoạm mất rồi!’’. Kiêu binh hùng hổ ‘’ Gấu đâu? Ðồng bào, ai có dao dùng dao, ai có súng dùng súng...’’. Tiếng sấm động ì ầm. Rồi tiếng sét. Ánh sáng chợt le lói. Kiêu binh rống lên ‘‘ Gấu đang nhả mặt trời. Chỗ nào cần, thanh niên có, chỗ nào khó, có thanh niên’’. Ðến khi mặt trời ra khỏi mõm gấu, tất cả, từ bà bán rong cho đến chị đi chợ, anh xích lô, tất cả bất động như tạc bằng sáp nến. Người nói chưa hết câu, mồm vẫn mở, nhưng không ai nghe thấy gì. Kẻ vừa cầm con cá lên đưa cho người mua, tay cứng đơ, mặt đờ ra, chỉ con cá là cứ giẫy lên, giẫy mãi mà không chết. Huyền cắn thử vào môi. Không đau, nhưng nàng cảm thấy người mình lạnh như hóa đá. Nàng lại cắn môi. Một lát sau, nàng thấy mằn mặn. Thế là máu chảy. Huyền co chân, người lạng đi. Vậy, tức di chuyển được. Nàng cắm cúi đi, qua Quán Thánh, đến