← Quay lại trang sách

21 - Bờ dâu

Từ lúc chiếm được Huế, dân miền Bắc bắt đầu xôn xao. Sau Huế, tiến xuống Ðà Nẵng, một căn cứ vững chãi của miền Nam, tất cả có trên dưới trăm ngàn lính, chủ lực là binh chủng Thủy Quân Lục Chiến tinh nhuệ. Nơi Dân ở nội trú của trường Tổng Hợp, không khí trở nên khẩn trương. Sinh viên áp tai vào nghe đài, kháo nhau mũi này tấn công, mũi kia yểm trợ, anh nào cũng thành tướng cầm quân chỉ trỏ chỗ lùi chỗ đánh một cách nghiêm trọng. Thường trẻ tuổi hơn Dân và chưa hề biết chiến trận, họ bàn tán rồi quay sang hỏi ‘’...anh Dân, chiến thuật bọn em vừa bàn, có đúng không? ’’. Dân lắc đầu, lẻn ra khuôn viên vắng vẻ. Ngồi dựa người vào một gốc bàng, Dân cố không để tâm trí mình quay trở lại thời bom trên trời, đạn dưới đất.

Vào xuân, cây cỏ hừng hực sức sống. Trên những bãi cỏ xanh mướt, những bông hoa dại màu vàng lơ thơ điểm nét chấm phá của một bàn tay nghệ sĩ. Châu chấu ma màu nâu mun lách tách nhảy cẫng lên khi đàn sẻ tìm mồi sà xuống. Dân nhón một hòn sỏi, giơ tay ném. Ðàn sẻ túa lên, chiếm chiếp kêu, lượn một vòng, rồi lại chúc đầu đâm vào bờ cỏ. Hình ảnh này gợi Dân nhớ đến đám lính ‘’tơ’’ vào chiến trường lần đầu khi đơn vị mình rút về cố thủ Cổ Thành Quảng Trị. Chúng nó có khác gì những con châu chấu ma này? Dân vốc một vốc sỏi quăng ra. Ðàn sẻ nhốn nháo. Chúng cất cánh bay cao, nhưng chỉ một lát sau, chúng lại tìm ăn nhào xuống mổ lia lịa.

Ðêm hôm đó, những cơn ác mộng quay về. Dân báo cáo, đơn vị tổn thất lớn, xin Chính Ủy bổ xung thêm lính. Tiếng đầu dây bên kia ‘’ Ðược! Sẽ gọi ngay bọn trừ bị...’’. Lát sau, một đoàn châu chấu ma bò vào. Dân quát ‘‘ Ðịt mẹ, thế này thì đánh đấm thế đéo nào?’’. Tạ, Trung đội phó, cười hềnh hệch ‘’...giơ càng ra búng lại, Thủ trưởng yên tâm’’. Chưa dứt lời, pháo 155 ly ‘’ngụy’’ trùm xuống trận địa. Ngay đó tiếng xích xe thiết giáp kèn kẹt phụ họa vào tiếng đại liên M-60. Dân thét lên ‘’... Ðợi đấy! Vào tầm thì chơi B-40, đừng phí đạn...’’. Ầm. Trúng rồi, Tạ reo. Thình lình tiếng rít xé lụa trên không. Lại F-4 rồi. Làm sao không nghe tiếng súng phòng không! ‘’... địt mẹ chúng nó, toi hết rồi à? Tạ, gọi bọn lính tơ xuống ngay công sự’’. Ầm, ầm. Châu chấu ma lách tách nhảy vào những vũng máu có chỗ ngập đến đầu gối...Dân thét lên khi có kẻ đập vào vai, gọi ‘‘...tỉnh lại’’. Mở mắt, người bạn cùng phòng ngủ giường bên cạnh lay vai Dân, nói ‘’ Mê gì mà anh cứ kêu ừng ực trong cổ, ghê quá! ’’. Cố ngồi lên, Dân giụi mắt. Người bạn tiếp ‘’ Ta vừa giải phóng Ðà Nẵng!’’. Dân hỏi ‘’...chắc đánh lớn lắm’’. ‘’ Không, Ngụy đầu hàng, không chống cự’’. Dân thở ra khoan khoái. Như vậy, tất không cần bọn châu chấu ma vào trận!

Chủ nhật, Dân lên nhà Cự. Cưới Xuân vào dịp Tết, Cự về ‘’ở rể’’ Phúc Xá, hiện đang xin vào biên chế bộ Thương Binh-Xã Hội. Ðám cưới hai người làm ở Nghi Dương, quê Cự, nên Dân không đi dự được. Khi họ về, Dân mới tới Phúc Xá liên hoan. Cự tươi cười ‘’ Thời chiến...hôn nhân cũng kiểu đánh nhanh rút nhanh’’. Chỉ có hai bao thuốc Thăng Long, mươi cái kẹo lạc, hai chai rượu Lúa Mới và một mâm xôi. Xuân ‘’phục vụ’’ bạn bè, véo von ‘’ không có hôm nào đẹp như hôm nay...’’ như thuở hát cho bộ đội trên chiến trường.

Dân gọi cửa. Cự vừa ra vừa reo ‘’Quân ta từ Ðà Nẵng vào nay phối hợp với cánh quân từ Pleiku-Komtum xuống. Chỉ huy ‘’ngụy’’ chạy, lực lượng như rắn không đầu! Hiện, ta đang làm áp lực trên An Lộc-Xuân Lộc. Chiến dịch này chắc ăn to đấy! ’’. Cười lớn, Cự nói:

- Mình phải đưa xe đạp xuống ‘’thồ’’ lá dâu về, cậu xuống bãi được không?

Dân gật đầu. Chống nạng, Dân nhìn ra sông Hồng. Xa xa, cầu Long Biên cong mình trườn qua như một con rắn màu sắt rỉ. Ven bờ, dâu xanh ngắt mọc chặn đất bồi, vẽ thành một vòng đai như ngọc đeo trên yếm cổ thiếu nữ. Xuân quay lại nghề trồng dâu nuôi tằm từ ngày rời nông trường Hòa Bình về Phúc Xá. Mẻ này là mẻ đầu, và Cự lăng xăng giúp vợ trong lúc còn rỗi rảnh. Chầm chậm đẩy xe cạnh Dân, Cự bị kích động ra mặt, hồ hởi:

- Mình nghe ‘‘ngụy’’ định lập một phòng tuyến án ngữ Sài Gòn, rồi củng cố bảo vệ vùng Ðồng Bằng sông Cửu Long. Chỉ chưa đầy một tháng, ta đã giải phóng được cả miền Trung lẫn Tây Nguyên. Nay chắc địch hoàn hồn, chẳng phải dễ nữa...

- Lực lượng địch còn bao nhiêu!

- Độ hai phần ba hay một nửa. Phần lớn lính ‘‘ngụy’’ bỏ chạy hay đầu hàng, con số đâu lên đến trên dưới hai trăm ngàn.

Ðột nhiên, Dân nhớ đến mẹ và Nhân. Nếu trận chiến trở nên ác liệt, chắc số thương phế cả lính lẫn dân sẽ rất lớn, nhất là trong những thành phố. Dân rùng mình nhớ lại Ðại Lộ Kinh Hoàng với Ngã Ba Long Hưng, nơi cứ mỗi một hai bước là một xác chết trương phình dưới ánh mặt trời. Nhất là chiến công thành, với bao nhiêu nấm mồ, bao nhiêu què cụt đây?

Cuối dốc, Xuân cất tiếng gọi. Thấy Dân, Xuân tươi cười:

- A, anh Dân. Anh mới đến?

Dân cười, khẽ gật. Cự vào sâu trong bãi xách những bó lá mơ ra bỏ lên cái thồ buộc sau xe đạp. Ven sông, nước sắc đỏ sóng sánh đập nhẹ vào bờ, hiền hòa như vỗ về. Trên đường về, Xuân khập khiễng bước, hỏi chồng tin chiến sự. Cự được dịp lại kể, và chép miệng:

- Tiếc thật, mình lại không có ở đó!

Xuân cười, giọng nửa đùa nửa thật:

- Thôi đi ông tướng, bom đạn thì tiếc làm gì? Lại định bỏ vợ góa hả! Lấy nhau mới có dăm tuần trăng mà đã nổi máu giang hồ rồi?

Nhìn xuống cái chân cụt, Dân buột miệng:

- Ðổi mạng lấy huân chương à...

Chạnh nghĩ đến tật nguyền của Xuân, Dân nói lảng:

- Chị Xuân lần này kể cho tôi nghe về cái nghề nuôi tằm nhé. Tôi chưa hình dung làm thế nào mà kéo ra tơ rồi dệt thành lụa được?

Xuân nhìn Dân giọng bỡn cợt:

- Anh đừng kén thì em giới thiệu cho một cô bạn thôn em. Cô ấy mà kể thì rồi anh cũng lại đến xin ‘’ở rể’’ Phúc Xá như anh Cự nhà em thôi!

Như một trái ung ruột đã nẫu ra, Sài Gòn rụng xuống khi mỏ con chim bay đến rỉa nhẹ lớp vỏ ngoài thâm tím. Hình ảnh chiếc xe tăng húc đổ cổng dinh Ðộc Lập, cờ Giải Phóng miền Nam cắm lên đỉnh dinh, và giọng rè rè của Dương Văn Minh qua radio bàn giao chính quyền cho Cách Mạng báo cả thế giới một đất nước sau ba mươi năm kiên trì đấu tranh nay đã toàn vẹn lãnh thổ. Mọi người Việt Nam đều thắng, chỉ có Ðế Quốc Mỹ thua! Lời tuyên bố của những người lãnh đạo cuộc chiến mở ra một trang sử mới. Hòa hợp hòa giải dân tộc là cơ sở của sự thống nhất Bắc-Nam người người mơ ước. Ở miền Bắc, người có thân nhân trong Nam tấp tểnh một chuyến đi. Nhưng không dễ. Phải có tiền, và phải có ly do chính đáng khai báo với các cấp chính quyền để xin phép. Dân nóng ruột, chẳng biết mẹ và Nhân sống chết thế nào. Nhưng ngay cả địa chỉ, Dân chỉ biết qua bức bưu thiếp hai mươi năm về trước, vỏn vẹn có hai chữ Hố Nai, nơi cách đâu Sài Gòn chừng hai mươi cây số. Hỏi bè bạn đồng học có gia đình đi Nam, Dân nhờ tìm giúp. Cho đến cuối năm 75, Dân vẫn bặt tin. Người trong Nam ra Bắc có, nhưng rất ít. Cái hy vọng mẹ ra tìm được mình đối với Dân dần dà là chuyện mò kim đáy bể. Năm 76, chuyển biến chính trị dồn dập, quan trọng nhất là thống nhất hai miền Nam - Bắc dưới chế độ xã hội chủ nghĩa với những thay đổi cơ bản trong Hiến Pháp. Ở đại học, gần như tối nào cũng học tập chính sách quá độ tiến lên xã hội chủ nghĩa không qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa. Là lớp trưởng, Dân hết việc này qua việc nọ. Khẩu hiệu « Tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên xã hội chủ nghĩa » bên cạnh ảnh Bác Hồ dưới có hàng chữ đỏ « Bác sống mãi trong sự nhiệp quang vinh của chúng ta » đâu đâu cũng chăng. Chỉ qua một tối, hôm sau không người nào ở miền Nam còn nhìn thấy cờ Mặt Trận. Tất cả đều « thu về một mối ». Nhưng xá gì, hạnh phúc là không còn chiến tranh.

Sáng sớm một ngày chủ nhật, sinh viên đang ngủ bù thì một cậu ở phòng trực réo ‘’ Anh Dân có khách’’. Lồm cồm bò dậy, Dân đáp ‘’ đợi tí’’ rồi mặc quần áo. Chống nạng đi ra, Dân chưa thấy người nhưng nghe tiếng ồm ồm ‘‘Thủ trưởng! Thủ trưởng...’’. Thôi, đúng là Tạ. Dân vừa sấn tới vừa hỏi:

- Tạ phải không?

Người đàn ông kềnh càng quá khổ xô đến, tay giang rộng:

- Tạ chứ còn thằng nào nữa! Ối giời ơi, thủ trưởng mất bố nó một cái «càng » hả?

Dân ôm lấy Tạ, đầu gật, miệng nói:

- May quá, an lành thế này là may quá!

Vừa kéo nhau ngồi xuống, Tạ nhìn quanh:

- Thủ trưởng! Ở đây có cái điếu cày nào không để làm một phát thuốc lào? Thèm quá...

- Ra ngoài đầu ngõ, có cái quán... Nào, ta đi!

Tiếng lộc cộc đều đặn gõ trên lối đi lát xi-măng. Ðến cổng, thường trực đeo băng đỏ chào hai người, vui vẻ ‘’...hai anh bộ đội «du xuân » nhé’’. Tạ giở nón cối, hềnh hệch:

- Tớ từ âm phủ về, lên xem mặt thế gian đây!

Chuyện trò, Tạ kể, sau khi bỏ Cổ Thành Quảng Trị thì tiểu đoàn rút chạy sang Lào. Nằm ẹp gần ba tháng để bổ xung quân số, tiểu đoàn vào sâu vùng Cao Nguyên, nhiệm vụ là khi thời cơ đến sẽ cắt đôi tách miền Trung ra khỏi miền Nam. Chính đơn vị Tạ thuộc một trong ba

sư đoàn tấn công Ban Mê Thuộc tháng ba năm 75, thắng chớp nhoáng và hầu như không có tổn thất gì đáng kể.

- Nhưng đến khi vào Xuân Lộc thì khác. Sư đoàn mình mặt Tây bị pháo đến không ngóc cổ lên ba ngày liền, chỉ sư đoàn phía Ðông Nam là xáp gần phòng tuyến địch. Ngày thứ tư, địch thả bom hút dưỡng khí. Thủ trưởng không biết chứ ghê lắm...

Mặt Tạ căng ra, gân thái dương gồ lên giật như sắp động kinh. Nuốt nước bọt, Tạ tiếp:

- Thế là sư đoàn mình được lệnh rút về phía sau. Chiến trường bỗng nhiên im tiếng bom tiếng súng. Chẳng hiểu thế nào mà địch rút. Ðến ngày thứ tám, đơn vị mình tiến vào nhặt xác...Hai trung đoàn, thằng chết đứng, thằng chết ngồi. Có thằng cười, răng nhe ra trắng nhởn. Cứ ở chỗ nào chết chỗ đó, thằng nào máu cũng từ mắt, từ miệng, từ mũi ứa ra, đông lại, kiến rừng bu quanh. Có thằng bị kiến ăn hết cả hai tròng mắt, có thằng kiến chui vào hai lỗ tai đục lên óc...

Nhìn nét mặt kinh hoàng của Tạ, Dân nhăn mặt. Tạ xin bà bán hàng thêm một cốc nước chè. Rít thuốc lào sòng sọc, Tạ lim dim ngả người ra sau. Nhấp một ngụm nước, Tạ im lặng.

- Này, trung đội mình ở Quảng Trị còn thằng nào? Dân hỏi.

- Ngoài hai đứa chúng mình, còn thằng Hạ bị thương ở ngực và thằng Kinh sau chết ở Pleiku. Tạ chép miệng - chính tớ đưa cả thủ trưởng lẫn thằng Hạ đến bờ sông Thạch Hãn giao cho đội tải thương. Thủ trưởng bị mảnh bom, mất máu nhiều nên hôn mê. Khi đó, lính mình cố thủ Cổ Thành, bị pháo, bị bom đến độ thành cổ không còn lấy một viên đá lành lặn. Chỉ tối mới cựa quậy được, việc chính là đưa thương binh đến nơi an toàn. Khi bác sĩ bảo không có máu truyền thì thủ trưởng sẽ theo ông bà ông vải, lúc đó tớ mới xếp được thủ trưởng vào loại phải cấp cứu. Gớm, thủ trưởng mê, cứ gào...À, Thủ Trưởng biết mình gào thế nào không? Cứ ‘’Thắm, Thắm ơi!’’. Cái cô Thắm trong đội bồi dưỡng ở Vĩnh Mốc chứ gì. Gớm, ai mà biết Thủ Trưởng đa tình đến thế. Nay, Thủ Truởng có tin gì của cô ấy không?

Dân lặng người, lắc đầu. Tạ tiếp:

- Giải phóng xong, ai về nhà nấy. Sống chết thế nào nay biết cả! Thủ Trưởng có biết làng quán cô Thắm không?

Không đáp, Dân nhìn về cuối con đường dẫn ra Ngã Tư Sở. Bấy giờ, đất trời mới vào thu. Lác đác, dăm chiếc lá trở vàng trên tàn cây bàng che quán nước đung đưa trong gió sớm. Lòng quặn đau, Dân nhìn lên trời. Một đàn nhạn bay ngang, cánh chao óng ánh màu nắng nhạt. Như chợt nhớ ra, Tạ vỗ vai Dân, bảo:

- Anh Cự chính ủy cho tớ mượn cái xe đạp, dặn hôm nay ngày nghỉ đến tìm Thủ Trưởng rồi đèo về nhà anh ấy cơm nước trưa nay!

Ðể mặc Tạ hỏi Cự về chuyện công ăn việc làm ở Hà Nội, mong kiếm cách xoay sở vì dưới quê Tạ chẳng tìm được gì làm để sinh sống từ ngày giải ngũ, Dân ra sau bếp. Xuân ngửng lên:

- Sao anh không ở trên nhà với nhà em?

Dân kể Tạ đang xoay quanh chuyện làm gì để sinh nhai và mỉm cười:

- Chuyện ấy thì tôi mù tịt. Ði học, được mười tám đồng là tôi đủ sống, có biết xoay sở là thế nào đâu!

- Nhà em chắc cũng thế! Cứ loay hoay đợi chỗ Bộ Thương binh-Xã hội gọi, hết đứng lại ngồi. May có mấy mẻ kén, cũng còn cái ăn!

Nhìn Xuân gạt kén vào những cái mẹt, Dân hỏi làm thế để làm gì. Xuân tủm tỉm:

- À... Ðấy là em chọn nhộng làm giống. Nhộng lớn lên sẽ cắn kén nở thành ngài. Ngài đẻ trứng thành tằm, nuôi bằng lá dâu thái nhỏ. Ðây này, anh xem... Tay chỉ vào cái mẹt ở bên, Xuân tiếp - đám này là tằm đã lớn, màu trắng, hoặc vàng. Tằm nhỏ như lăng quăng, sậm màu hơn.

- Thế rồi làm sao mà thành tơ thành lụa được?

- Tằm hóa nhộng, nhả tơ trong bọc kén. Kén phải luộc lên, lấy tơ mang quay thành sợi để dệt lụa. Còn bọc kén, có thể dùng để làm đoạn, thô hơn lụa... Chỉ vào mẹt, Xuân tiếp - giống em giữ để nó thành ngài, ngài lại đẻ ra tằm, cứ thế cho những lứa sau.

Ngồi xuống nhặt rổ rau muống cho Xuân, Dân bâng khuâng, mặt thẫn thờ. Kín đáo nhìn, Xuân hỏi:

- Dạo này anh Dân thế nào?

- Thì cũng như thường, chẳng có gì đáng nói...

Xuân ngần ngừ:

- Anh Cự nhà em có nói về chuyện chị Thắm. Anh cho phép em hỏi một câu nhé!

Dân buồn buồn nhìn lên. Xuân nhỏ nhẻ:

- ...anh còn gắn bó với chuyện ấy không?

Dân đáp, lòng bỗng tan nát như bong bóng nổi đầy sân trong một trận mưa rào. Giọng tâm tình, Xuân thì thào:

- Những ngày anh Cự chưa đến tìm em, hôm nào em cũng đợi, mặc dầu em chẳng thực sự hy vọng được gì. Chờ đợi như thế, còn khổ hơn là chết đi. Biết đâu nếu chị Thắm trở về, chị lại chẳng cũng như em? Anh có tin chị yêu anh không?

Dân cúi đầu. Lúc sau, chàng chặc lưỡi:

- Có. Nhưng là khi tôi ở Quảng Trị, chân tay lành lặn. Vù một cái, thế mà đã gần bốn năm rồi. Bốn năm dằng dặc, biết đổi thay thế nào mà chắc được! Thôi, ta nói chuyện khác nhé...

Xuân cười, đổi giọng vui vẻ:

- Vâng. Anh lên nhà, em dọn cơm bây giờ!

Cơm dọn ra, Tạ reo:

- Ối giời ơi, lâu lắm mới lại thấy món nhộng rang này. Bà Chính Ủy muôn năm!

Xuân cười:

- Nhà nuôi tằm mà anh. Anh thích tằm nhả tơ dệt lụa, tằm hóa bướm hay tằm thành nhộng rang lên?

Tạ đáp ‘’ rang lên, bà chị ạ!’’ rồi cười hềnh hệch. Cự hỏi:

- Cậu vào Sài Gòn thấy thế nào?

- Ờ... Ðể kể nhé. Sau khi chiếm An Lộc, đại đội tớ trực chỉ Sài Gòn. Lệnh là đi thật nhanh, chỉ đem theo súng đạn để tác chiến. Thế là đói. Gặp lính ‘’ ngụy’’, lính ta hô bỏ ba-lô xuống, kiếm cái ăn, rồi để cho họ chạy. Ðịnh kiếm ăn nhưng mở ba-lô cướp được thì toàn dây chuyền, đồng hồ... mấy anh ‘’ ngụy’’ hôi được của dân. Tớ dại ơi là dại, bắt Ðại Ðội thu lại để nộp...Tiền ‘’ ngụy’’ cũng vậy, đem bó lại. Vào đến Sài Gòn, hai ngày không ăn, nhưng Chính Ủy gom tiền chẳng cho mua bán gì, lính đói lả ra.

Quay nhìn Cự, Tạ trầm giọng, tiếp:

- Rồi sau là hoa mắt lên thấy dân Sài Gòn chẳng đói khổ như bộ đội nghe các vị Chính Ủy ‘’giảng’’ chuyện phồn vinh giả tạo! Không, dân Sài Gòn giàu hơn Hà Nội ta nhiều, phồn vinh thật đấy! Lập tức, lính bị cấm trại và không được ‘’đến’’ với quần chúng...

- Có lẽ là ở Sài Gòn thì thế, còn nông dân vùng quê chắc khổ...

Tạ chém tay vào khoảng không, giọng cao lên:

- Ấy khổ thì thưa với Chính Ủy, em chẳng thấy ai khổ hơn nông dân làng em! Tạ chép miệng - Khi về, nghe mì chính có giá, bao nhiêu tiền dành dụm em bỏ ra mua được hai cân. Và một cân đường để mẹ đĩ làm bánh trôi bánh chay, với lại hai thước vải may áo cho con. Ở làng ở xã, dân nghèo không ai mua mì chính. Mẹ đĩ nó hớt hai lạng lên chợ Huyện bán thì công an tóm được, tịch thu mất. Vụ Ðông Xuân, người thay trâu kéo cày, đến lúc tính công thì thóc lúa chia ít đến ăn không dính răng...

Thở ra, Tạ kết luận:

- Tóm lại, những điều Chính Ủy giảng cho lính, em xin nói thật, đều láo toét hết!

Cự bần thần một lúc rồi nhẹ giọng:

- Ðám người quen mình vào Nam cũng nói thế! Nhìn Tạ, Cự tiếp - nhưng cậu có nói thì chỉ nói với người thân thích thôi, đừng có dại phát biểu linh tinh mà vạ miệng. Mình biết cậu có cái tật ấy từ ngày cùng đơn vị, nhắc cho cậu giữ gìn!

Tạ khà một tiếng, rồi ngửng lên:

- Nghe nói vùng Tây Nam Sài Gòn, quân Campuchia nó đánh mình. Ðịnh hỏi Chính Ủy, công việc không đào đâu ra nên bây giờ xin nhập ngũ trở lại có được không? Lính như em chín năm chiến trận nên thằng nào sống được cũng là hiếm, có kinh nghiệm, chắc là cần!

Cự nhìn Tạ, lòng bâng khuâng. Sau hơn một năm ăn không ngồi rồi, Cự cũng đã nghĩ đến điều này nhưng không dám nói cho Xuân nghe. Lảng cho xong chuyện, Cự nhìn Dân, gượng gạo:

- Chỉ cậu là sướng. Con đường trước mặt còn thấy sẽ đi về đâu. Hết năm nay, cậu còn hai năm là xong đại học nhỉ?

Câu Cự nói tuột đi như gió bay. Xuân dè dặt:

- Mới có chút yên ổn, không lẽ nay lại chiến tranh nữa ư? Em chắc các anh phải kiên trì sửa soạn sống trong hòa bình. Em hiểu là khó, nhưng chắc chỉ ban đầu, rồi ra thì cũng sẽ xếp đặt đâu vào đấy...

Tạ ngắt:

- Vợ tôi nó cũng nó thế chị ạ! Nhưng với tám đồng phát cho phục viên, lấy gì mà sống? Cứ bảo giời sinh voi giời sinh cỏ nhưng mình có cạp cỏ mà ăn được đâu!

Cự nhìn Tạ, giọng trầm ngâm:

- Tôi có hỏi chuyện nhập ngũ...

Vừa nghe đến đấy, Xuân vùng đứng dậy, nước mắt ứa ra:

- Các anh lại tính chuyện bán máu lấy ăn à!

Nhìn theo bước chân Xuân khập khễnh đi vội xuống bếp, Cự nghĩ đến bóng dáng hòa bình, buột miệng thở dài thườn thượt.

Cắp chiếc nạng vào nách, Dân nhảy lò cò lên những bực thang lát xi-măng. Vừa đẩy cửa ngoài, một bà già đứng đằng sau khung cửa sắt nhìn rồi the thé ‘’Tìm ai?’’.

- Dạ, cháu tìm nhà cụ Nguyễn Tuân ạ!

- Gác hai, trên kia kìa!

Dân gật đầu, lại nhảy lò cò. Gõ cửa, tiếng khàn khàn vọng ra, hỏi ai đấy.

- Dạ, cụ Nguyễn Tuân có cho tôi cái hẹn. Dân đáp, lòng hồi hộp.

Cửa mở hé. Ðôi mắt sau cặp kính lão nheo nheo nhìn Dân tra xét. Rồi cửa mở rộng ra. Ông cụ tóc búi tó quay lưng, vừa nói ‘’ Ông vào!’’ vừa chỉ tay xuống chiếc ghế mây để trước một cái bàn mặt kính trên có khay trà. Dân khép nép để cái nạng xuống đất. Ông cụ lẳng lặng rót nước chè vào một cái tách, chậm rãi:

- Ông Ngọc có nói là ông đến tôi vì cái luận văn ở khoa Văn. Trước nay tôi ngại nói về văn lắm, nhưng ông Ngọc bảo tôi làm một cái ngoại lệ với ông. Tay đưa lên xoa râu, ông cụ hóm hỉnh - ngoại lệ chắc là vì ông, chứ tôi thì tôi không thể là ngoại lệ được! Thế ông có uống rượu không?

- Dạ thưa không, hoặc...thỉnh thoảng...

- Ơ hay nhỉ, thế là ‘’ngoại lệ’’ không uống rượu! Bật cười, ông cụ hỏi - thế tứ khoái, khoái cái nào nhất!

- Tứ khoái nào ạ!

- Thật lạ, ‘’ngoại lệ’’ không biết thế nào là tứ khoái! Ăn, ngủ, đ... và ỉa ấy mà!

Dân đỏ mặt, không biết trả lời thế nào. Ông cụ nhìn chằm chằm:

- Nói đi chứ!

- Dạ... Nói thật, chỉ có cái thứ tư. Nghĩ lại, ăn ít thì cái... đó... cũng giới hạn thôi.

Ông cụ gật gù:

- Thế cái món thứ ba?

- Món thứ ba, cháu chưa có đối tượng, có muốn cũng chẳng ‘’hủ hóa’’ được ai. Còn ngủ, thưa cụ, cháu sợ ngủ lắm. Chợp mắt là ác mộng, lắm lúc cố mà thức...

- Ðược! ‘’ngoại lệ’’ khá đấy. Ông Ngọc có lý. Sinh viên Văn đến đây, ông là người thứ ba từ hai mươi năm nay. Thường thì tôi cáo... Nhưng trước khi nói chuyện, tôi không thích ông gọi tôi bằng cụ. Chúng ta bình đẳng, ông và tôi, thế có được không?

- Dạ... Dân lí nhí, không biết nói thế nào, miệng cứng lại.

- Ông kể cho tôi nghe một cái ác mộng trong giấc ngủ của ông xem?

- Mới đâu hôm qua...tôi nằm mơ thấy mẹ. Mẹ, tôi thực sự chỉ biết mặt qua một tấm ảnh vàng ố. Tôi gọi, người quay lại không có mặt. Vâng, từ cổ trở lên, tất cả là một hình tượng nhòe nhoẹt. Người đó thình lình bỏ chạy. Tôi đuổi theo, nhưng không đuổi kịp. Cho đến lúc không chạy được nữa, tôi nằm vật xuống. Người đó quay lại, với gương mặt của Thắm. Tôi mừng quá, chạy được là hai chân tôi lành, và cuối cùng, Thắm trở lại...

- Nhưng Thắm là ai?

Dân kể mối tình với Thắm ở Vĩnh Mốc. Ông cụ trầm ngâm:

- Mơ thế thì sao gọi là ác mộng?

- Dạ... Ác mộng khi mắt mở, tay sờ xuống thì chân đã cụt! Và làm gì có Thắm...

Ông cụ gật gù, thái độ thình lình thay đổi. Giọng đột nhiên trầm xuống, ông cụ lẩm bẩm một mình như Dân không còn đó. Sực tỉnh lại, ông cụ thân mật:

- Ông Ngọc có nói ông muốn viết về văn tôi? Ông định viết gì? Cả nước đang ồn ào chuyện chính quyền thu về một mối để thống nhất đất nước, mà ông - Nguyễn Tuân cười khà khà - ông đi lo cái vặt là văn tôi à?

Dân rụt rè:

- Thầy Ngọc có đề xuất, thưa ông, là so sánh văn Nguyễn Tuân và một tác giả Pháp. Thầy Ngọc bảo, điều phải hỏi là Nguyễn Tuân đọc và thích tác giả Pháp nào?

Ông cụ ngao ngán:

- Thế thì chẳng đi đến đâu cả! Về phương pháp, là hỏng. Thứ nhất, tôi đọc và thích những tác giả khác tôi. Càng khác càng thích bởi tôi ‘’nhắm’’ tôi mãi, đâm phát chán. Thứ nhì, mỗi ngôn ngữ tạo ra văn chương của cái ngôn ngữ đó. Gần nhau như tiếng Việt và tiếng Hán, thì anh gà chị vịt, còn so được bộ lông, cái mỏ. Chứ Ta với Tây, kiểu một loài trên cạn, một loài dưới nước, cứ như con ngựa vằn với con cá chép, làm th1ê nào mà so? Ngước lên nhìn Dân, ông cụ trầm giọng - nhất là kiểu chữ nghĩa của tôi, ông định so với gì?

- Thưa... Chùa Ðàn!

- À! Chùa Ðàn thì tôi không biết so với gì. Tại sao ông không viết, kiểu Ngữ pháp Tây trong thơ Xuân Diệu chẳng hạn, vừa dễ, lại vừa làm ông ấy vui? Nhưng cớ gì ông lại chọn Chùa Ðàn?

- Dạ... vì thích, thưa ông!

Ông cụ chép miệng, lẩm bẩm Mê Thảo, cái vùng Mê Thảo xa xưa... Mủm mỉm cười, ông cụ lại hỏi:

- Thế ông thích gì?

- Ðoạn giữa. Bỏ đi đoạn đầu và đoạn cuối, Chùa Ðàn là một tác phẩm tuyệt vời. Và tiếng đàn oan nghiệt, thưa ông!

Ông cụ nheo nheo mắt:

- Thế tức ông chê cái đầu với cái đuôi. Ông chỉ ăn khúc giữa, kể ra thế là biết ăn đấy! Văn chương, không có kiểu nhất thủ nhì vĩ như thịt gà. Nhưng ông chắc chưa biết rằng ở ta, đầu phải cải tạo, đuôi làm Cách Mạng, thì giữa mới ‘’chui’’ được ra thành sách. Cái đầu cái đuôi tôi thêm vào sau này, chứ bản chính chỉ có khúc giữa bị chụp cái mũ tư sản, lại sặc mùi phong kiến... Tất cả vì chẳng ai hiểu được tiếng đàn!

Thình lình, ông cụ hỏi:

- Hết chiến tranh, ông có tin cô Thắm chưa?

Dân lắc. Ông cụ bảo, giọng thân tình:

- Ði Ý Yên đi. Chính nỗi sợ đã đẻ ra ác mộng đấy! Ði đi! Tìm được Thắm, ông trở lại đây ta sẽ nói tiếp chuyện văn chương. Có thế, ông mới hiểu ra tiếng ngân của đàn ngay cả khi dây đã đứt.

Co ro trong chiếc áo dạ giữ được từ thời đi lính, Dân vừa bước qua phòng trực thì có người gọi. Anh sinh viên tay chìa một tờ giấy học trò gấp tư, nhanh nhẩu ‘’ Có người đến tìm anh, viết nhắn lại đây!’’. Không đọc ngay, Dân cám ơn rồi đút túi áo, khập khiễng chống nạng về phòng. Ðến chiếc giường ngủ, Dân ngồi xuống. Dân chậm rãi mở tờ giấy gấp tư. Thế là nước mắt, nước mũi tràn ra. Cổ họng như có ai chặn ngang, Dân nuối nước bọt ừng ực. Chàng đọc lại, vỏn vẹn có bốn chữ « Thắm đã về. Cự ».

Dân báo với phòng trực chàng có việc gấp và xin nghỉ một ngày. Ra khỏi cổng trường, Dân trực chỉ Ngã Tư Sở. Ở đó, chàng tìm một người đèo xe đạp, đi thẳng về Phúc Xá. Vừa đến cửa, Dân gọi tên Cự toáng lên. Thấy Cự, Dân hổn hển ‘’ Làm sao anh biết được!’’. Khoác tay Dân, Cự vừa đi vừa nói ‘’ Mình nhờ một anh bạn quê cũng Ý Yên. Chị Thắm về làng từ hơn năm nay! ’’. Dân vội vã ‘’ Thế nào? Có thương tích gì không?’’. Cự lắc đầu. Dân ngồi thụp xuống, thầm nghĩ ‘’ Giá mà Thắm cũng mất một cánh tay, hay một cái chân nhỉ’’. Ðây là lần thứ hai Dân nghĩ như vậy. Ðỏ mặt, Dân không dám nói cho Cự nghe, chỉ thốt ‘’ May quá, may quá...’’. Cự chìa cho Dân một phong thư. Thắm viết: « Biết tin anh đã về, em mừng lắm. Nếu anh đã quên con bé dại dột ở Vĩnh Mốc thì thôi. Giả như anh còn nhớ, thì em vẫn đợi ».

Tay vỗ vào chiếc nạng, Dân cố cười. Ðúng lúc đó, Xuân từ bãi dâu về nhà. Xuân hồn nhiên:

- Thế hôm nào mình đi Ý Yên đây?

Dân không biết trả lời thế nào, nhìn xuống chân, lắc đầu. Xuân hướng về phía Cự:

- Chuyện anh mượn cái xe thế nào?

Lúc ấy, Cự quay nhìn Dân:

- Mượn thì không, nhưng thuê thì có thuê rồi. Mai, chúng ta đi. Dân mà không chịu thì tôi mất toi một tháng lương phục viên đấy!

Buổi chiều hôm ấy, Dân ở lại nhà Cự. Từ trái bếp nhìn ra, sông Hồng nâu lợ uốn quanh những bờ dâu vòng vèo bãi sông đất bồi từ không biết bao nhiêu đời. Trời rỉ rả mưa phùn. Dân cời lửa bếp đuổi cái lạnh thấm vào từng lỗ chân lông, buột miệng kêu‘‘Tang điền thương hải!’’

Xuân bỡ ngỡ hỏi:

- Anh nói gì vậy?.

- À, đó là cái tích ruộng dâu thành bể cả trong văn học cổ Trung Quốc, ý nói về những thay đổi. Ta thì nói gọn lại là chuyện bể dâu...

Cự góp chuyện:

- ‘’ Trải qua một cuộc bể dâu’’ trong Kiều đấy!

Trầm ngâm một lát, Dân thổ lộ:

- Tuổi thanh xuân chúng ta là phải sống một thời dâu bể. Cái tụ lại được, là tấm lòng với nhau. Chính vì thế mà vài chữ Thắm gửi đã cho tôi chút can đảm. Nhưng nỗi sợ vẫn sờ sờ ra đây. Vỗ vào cái chân cưa quá gối, Dân buồn bã - giá mà Thắm thương tật như tôi thì tôi không sợ, nhưng...

Xuân vội ngắt lời:

- Anh dở hơi! Thiếu gì người lấy thương binh. Em bảo thật, hoàn cảnh chị Thắm lấy chồng ở quê cũng khó. Tiếng là thanh niên xung phong, có ai biết đã hy sinh thế nào đâu. Người ở hậu phương thì cho là đồ lang chạ. Còn bộ đội tiền tuyến, về mà lành lặn thì tha hồ chọn các cô còn tân, trẻ trung, lại có học có hành!

Nhìn Cự, Xuân nói nhỏ đi, giọng thì thào:

-...em đây là may mắn đấy. Rồi anh xem, như em nghĩ thì chị Thắm cũng sẽ là một người may mắn như em...

Cự xen vào, đùa cợt:

- Mai ta đi! Nhìn Dân, Cự cười - xưa trên bom dưới đạn thì không sợ. Rồi chạy đón đường người yêu, bất chấp kỷ luật sắt, cũng không sợ. Nay thời bình, Cự vỗ ngực - có Chính Ủy đây ‘’ tổ chức’’ cho hàn huyên, mà rúm người lại là làm sao, hả Dân?

Dân gượng cười, thầm nhủ, thời bình có những vấn đề của thời bình. Thật ra, thời chiến là thời của nhiều hy sinh, nhưng lại đơn giản. Trong suốt cuộc chiến, Dân chỉ trăn trở đúng một lần, khi Dân đã định đầu hàng, với hy vọng rằng như tù binh, Dân sẽ sống và tìm được mẹ. Nhưng sau đó, mọi chuyện chỉ rút lại một điều: làm sao thoát cái chết. Sự sống trở thành bản năng, chẳng phải chỉ là bản năng một cá nhân, mà là bản năng bầy đàn. Bầy đàn đẩy cá nhân đi, lúc này thành anh hùng, lúc sau lùi lại nép bóng đồng đội mong tránh cái chết, dẫu rằng sống-chết vượt khỏi mọi tính toán lẻ loi. Đối mặt mỗi ngày với cái chết trong thời chiến, con người bộc trực với nhau, vì chỉ dăm ba phút sau, một phát đạn, một mảnh bom có thể kết thúc tất cả. Trong thời bình, đối mặt không phải một ngày mà hàng tháng hàng năm với cái sống. Sống trong thiếu thốn, con người co lại, tính toán thủ đắc, so đo lợi hại cho chẳng chỉ riêng mình, mà cho cả vợ con mình. Thế người anh hùng xưa vượt chiến hào lên cứu đồng đội nay trở thành kẻ ngậm miệng ăn tiền mặc mọi người xung quanh.

Ôi chao, lòng dạ đổi thay, cũng bể dâu như con nước bạc cuốn bãi xanh nhận cho chìm để chẳng thể nào hy vọng vào một mùa xuân? Dân bần thần ngước lên nhìn Cự và Xuân. Dân đỏ mặt xấu hổ, miệng thầm thì, ơ hay, có phải mọi người trong thời bình đều như thế cả đâu. Hai người xa lạ này cớ gì lại đùm bọc mình như vậy? Lòng tràn trề biết ơn, Dân mỉm cười, vùng ngồi lên. Nhìn Cự, Dân hỏi, giọng xúc động:

- Mai ta đi sớm lắm, phải không anh?

Xe rời Hà Nội khi gà gáy sáng. Dọc Quốc lộ 1, độ tám giờ hơn thì xe vào địa hạt Hoa Lư. Anh tài xế, vốn trước lái xe tiếp vận Trường Sơn, lè nhè:

- Cái đoạn này xưa Mỹ nó bom, đường bị cầy lên toàn hố là hố. Lắm khi, chỉ mười cây số đi mất cả tiếng đồng hồ...

Cự quay sang anh ta:

- Từ đây, phải ghé vào Ninh Bình rồi mới sang Ý Yên hả?

- Không! Chỗ mình đi là xã Yên Phong, bên kia sông Ðáy. Ta rẽ trái, bắt tỉnh lộ 480, vòng vèo rồi qua cầu. Bên kia thêm độ bốn năm cây số là đến nơi...

Dân im lặng giả như không nghe nhưng mỗi lúc một nóng ruột, lòng lửa đốt, mắt dán vào những cánh đồng sau mùa gặt. Xuân ngồi cạnh phá cái không khí ngột ngạt bằng cách hát nho nhỏ ‘’ Anh cứ bảo rằng em không thương, em đo lường thì rất cặn kẽ. Bởi thương anh nên em bàn với mẹ...’’. Anh tài kêu:

- Chị ơi! Xe không đài, chị hát to to lên cho đỡ buồn ngủ đi...

Xuân cười khúc khích, đùa:

-... tôi chỉ nhớ một bài ru em, nghe thì ngủ thật đấy!

Tiếng Xuân hát văng vẳng trong đầu, Dân nhớ lại tối đầu gặp Thắm trong địa đạo. Thắm cũng hát bài Xuân vừa hát, và giữa những tiếng cười nói, Tạ đã bắt Dân ‘’chiêu đãi’’ Thắm, ngâm thơ để thù đáp toán thanh niên xung phong có nhiệm vụ cấp dưỡng cho đơn vị.

Sông Ðáy xa xa chảy dọc đường xe chạy. Gió hắt vào mặt, lạnh cóng. Một chút nắng le lói trong đám mây đục trên cao hứa hẹn một ngày quang tạnh, nhưng trời còn âm u, mưa có thể bất chợt là khách không mời nhưng vẫn đến. Xe vòng vèo đi ngược về phía bắc. Cây cầu bắt qua sông hiện ra, đìu hiu, xa vắng. Xuân reo:

- Thế là sắp đến rồi! Như để trấn an Dân, Xuân vui vẻ - Sáng nay ra ngõ không gặp gái nên xe đi thông suốt, chẳng trục trặc gì...

Xe lăn qua cầu, lồng lộn trên một đoạn chắp vá bằng những thân cây xếp ngang. Anh tài xế cất tiếng:

- Chắc đoạn này bị đánh thời Mỹ oanh tạc. Gớm, cái thời đó xe bọn chúng tôi đều ngụy trang, nghe tiếng máy bay là bom đã nổ, cứ thấy bờ thấy bụi là rúc luôn vào.

Cự đưa mắt nhìn Dân như những lần khi xưa đơn vị sắp sửa lao vào chiến trận. Môi mím lại, nhưng nay Dân không giữ vẻ mặt bất cần của lính đã nguyền sinh Bắc tử Nam. Không! Người sĩ quan ngang ngạch ngày nào đâm ra e dè, tay xoa vào nhau, vai co lại, đầu quay đi không nhìn một ai

Xe vào lối mòn mỗi lúc một nhỏ dần. Anh tài đạp thắng, nói:

- Yên Phong ở dưới kia, các bác phải lội bộ thôi!.

Lục đục xuống xe, Cự đi trước. Theo sau, Xuân tươi cười:

- Giao anh Cự nhiệm vụ trinh sát, vào trước căn cứ chị Thắm, báo tin cho chị ấy biết ta trên đường ‘’giải phóng’’ nhé!

Dân khẽ nói, giọng tần ngần:

- Thôi, vào cả một lúc hay hơn...

Xuân khập khễnh, cắt ngang:

- Cái anh này! Chẳng biết tâm lý phụ nữ chúng em. Báo trước là để chị Thắm ‘’ bõ công trang điểm má hồng răng đen’’ chứ ai lại cứ xộc xà xộc xệch đón anh!

Cự quay bảo, ‘‘thế Xuân với Dân cứ thong thả nhé!’’. Nói xong, Cự cắm cúi dấn bước.

Dân chống nạng đi cạnh Xuân, buột miệng ‘‘Cái ngày xưa sao nó mịt mùng đến vậy! ‘’. Liếc nhìn, Xuân đoán chừng nỗi lòng Dân, nói lấp:

- Ấy xa mà gần lắm đấy. Em gặp lại anh Cự nhà em, cái ngày xưa biến mất lập tức, anh Dân ạ! À mà này anh có biết câu đầu anh Cự nói với em thế nào không? Không đợi Dân đáp, Xuân tiếp - Anh ấy bảo, không tìm được em thì anh chết không nhắm mắt.

Xuân khúc khích:

-...Anh xem, nói thế thì chết người ta mất!

Hiểu là Xuân đang nhắc mình chuẩn bị, Dân tự hỏi, nói gì với Thắm đây. Nhớ đến cánh bướm đen trên có nửa vết tim đỏ như máu, Dân thầm nhủ, có lẽ mình bảo đi đâu cũng tìm, nhưng lần thấy nó là khi Dân đang ngồi viết kiểm thảo về cái tội không thể hiện chính sách « chưa yêu thì khoan yêu » của Ðảng, nên vẫn chưa bắt được để ép tặng Thắm. Chiếc nạng trượt trên đất nhão, khiến Dân đi chậm lại. Nhưng không hiểu thế nào trong đầu chàng vẫn nghe thấy lộc cộc, lộc cộc. Lạ thật. Tiếng lộc cộc lớn dần. Rồi nó chói tai như vỡ toang ra.

Lộc cộc, lộc cộc...

Dân dừng bước, tay đưa lên ôm thái dương, mắt nhắm, nhưng thấy trước mặt tóe lửa. Và nóng. Bom Napalm à? Không. Hết chiến tranh rồi cơ mà. Mìn gài chưa gỡ, nổ. Chắc vậy. Người Dân đột nhiên như bị tung vào hư vô. Và từ hư vô, sức hút trái đất khiến gió lồng lộng thổi ngược. Dân ngã, mặt đập xuống đất. Cây nạng văng xa, tai Dân văng vẳng tiếng Xuân thét lên gọi Cự.

Khi Dân mở được mắt ra, thế giới hư ảo hồi sinh, đất cục cựa cưu mang sức nặng của một kiếp người. Dân lờ mờ cảm nhận mô đất dưới đầu mình, bờ cỏ ngang tay mình và khuôn mặt lấm lem một người đang cúi xuống, nức nở:

- Anh Dân ơi! Về đến đây chẳng nhẽ anh lại bỏ em mà đi sao? Anh đi đâu, hở anh? Thắm đây, anh có nhận ra em không? Em đây này, anh ơi...

Thắm à. Có thật không? Dân mở căng mắt. Khuôn mặt lấm lem chan hòa nước mắt lúc một gần. Dân thì thào:

- Thật hay mơ? Ai đấy? Sao... mặt đầy bùn... thế này...

- Em đây! Thôi chết, em đang bừa đất nghe anh Cự là em chạy ra đây... Thắm đây. Em rửa mặt, anh sẽ thấy em vẫn là Thắm ngày nào ở Vĩnh Mốc. Tỉnh lại, anh ơi! Ðừng bỏ em...

Cố gắng, Dân chỉ vào cái chân cụt, thều thào:

- ... chẳng được như xưa đâu...

- Nếu anh không phải là ma hiện thành người thì thế là đủ với em rồi! Ðể em đi rửa mặt cho anh nhận ra em nhé.

Tay nắm vạt áo Thắm, Dân nói, giọng chắc lại:

- Không cần. Anh đã nhận ra em từ mùi của đất... Như mùi đất cái buổi trưa dưới cơn mưa ở Vĩnh Mốc. Đừng đi đâu cả... Ở lại đây, Thắm nhé!

Mở phong bì bức thư gửi từ Hưng Nguyên, vỏn vẹn chỉ một câu ‘‘ Mừng hai cháu, người không đi được, nhưng lòng thì sẽ ở cạnh’’. Bức thư không ký tên. Ở làng, bà Nhiều đã nhờ Thành báo bà yếu lắm, khó mà đi đâu được. Vậy thì cưới hỏi thế nào đây? Dân vẩn vơ, thầm nghĩ. Có lẽ phải nhờ vợ chồng Cự. Nghe Dân hỏi, Cự reo:

- Thì vợ chồng mình đại diện nhà trai! Ðược quá đi chứ lại!

Xuân vun vào, rồi hỏi, giọng phấn khích:

- Làm đám hỏi, rồi đám cưới. Nhưng rước dâu về đâu?

- Thắm với tôi bàn nhau, vì còn đi học, tôi cứ ở Hà Nội. Lấy nhau xong, Thắm vẫn ở dưới quê lo lắng cho bà Thắm tuổi đã cao, lại yếu đuối, bệnh hoạn. Ðám hỏi và đám cưới là một. Cưới xong thì tôi ở ‘’rể’’ ngay, chẳng rước dâu về đâu cả.

- Ờ... Thế thì cũng gần như anh Cự với em. Bây giờ cứ làm thế nào nhanh gọn là tốt, Xuân phẩm bình với giọng hồn nhiên.

- Nhưng gì thì gì, cũng phải ra cưới ra hỏi đàng hoàng. Chuyện trăm năm mà! Cự cười vui vẻ, tiếp - thế nhà trai mời những ai?

Không nhắc đến ông chú ở Hưng Nguyên, Dân kể chỉ có Thành ở Kiến Thụy và vợ chồng Cự. Nhớ đến nhà văn Nguyễn Tuân và thày Ngọc, Dân định nhắc nhưng lại thôi. Bụng ngẫm nghĩ, Dân tự nhủ mời như thế có thể làm phiền, chỉ báo hỉ cũng đủ lễ nghĩa. Cự như chợt nhớ ra, hỏi:

- Cậu nay sinh hoạt Ðảng ở đâu? Phải báo và xin phép Chi bộ.

Dân kể đã báo cho Chi bộ Ðảng ở Ðại Học. Bí thư Chi bộ hỏi và khi biết Thắm thuộc thành phần ‘’cơ bản’’, lại từng là thanh niên xung phong, nên không ‘’thắc mắc’’ gì! Bọn sinh viên cùng khóa vui vẻ vun vào, đùa dặn ‘’ vui duyên mới chớ quên nhiệm vụ’’, khẩu hiệu thời chiến trong những đám cưới.

Xếp đặt tạm ổn phần mình, Dân về Yên Phong. Trước đây, cứ được nghỉ liền hai ba hôm không phải học là Dân đi thăm Thắm. Ở với bà ngoại, Thắm lo đủ bề, từ ăn uống đến tắm giặt. Bà bị hen, trời ẩm ướt là khó thở, lắm hôm chỉ ngồi rên khò khè, không làm được gì ngoài chuyện thỉnh thoảng vá víu dăm đụp quần, đụp áo. Trong Hợp tác xã, Thắm ở đội sản xuất, khi bừa khi cấy, khá vất vả. Bản tính yêu đời, nàng không hề than vãn, lúc nào cũng phấn đấu, cũng tích cực. Có một đứa em trai, Thắm ít nhắc tới, và cứ lờ đi ngay cả khi bà ngoại hỏi đến. Dân ngạc nhiên. Căn vặn mãi Thắm mới nói, ‘’ Nó đi buôn, nay đang bị cải tạo ở Hà Tây!’’

Dân lên kế hoạch, nhất định sau Tết là cưới. Thắm tính toán rồi bảo:

- Thế nào thì cũng phải có cái gì khao làng khao xã. Từ nay đến Tết chỉ một tháng nữa mà chúng mình thì xác xơ thế này, làm sao cho kịp được!

- Em xem, hai ba hay năm bảy tháng nữa thì cũng vẫn xác xơ. Nước ta còn nghèo...

- Ờ... Thắm ngặt nghẽo cười -...Biết rồi, cán bộ! Còn nghèo mà lại sau chiến tranh nên cứ ‘’vô tư’’, cái quần cái áo không có thì cứ tồng ngồng làm lễ tơ hồng nhé!

Dân bật lên cười. Bà ngoại nghe, lò dò từ bếp lên. Thắm giục Dân ‘’...anh nói đi! ’’. Dân lí nhí ‘’ Thì em nói cũng được! ’’. Thắm đay, giọng trêu chọc, ‘’ Anh đi hỏi vợ hay em đi hỏi chồng? ’’. Bà ngoại ho rũ người ra, tay ôm lấy ngực:

- Có gì mà chúng bay cứ rúc ra rúc rích thế?

Dân nuốt nước bọt, tay mân mê cán chiếc nạng, chậm rãi xin bà cho Thắm làm vợ. Bà nghe xong, lại ho. Hết cơn, bà đáp:

- Lấy nhau thì lấy, nhưng con phải để vợ ở nhà quê với bà, cho đến ngày bà nhắm mắt nhá!

Gật đầu, Dân khẩn khoản:

- Cháu gia đình chẳng có ai. Bà cho cháu ở rể, cháu đội ơn bà!

- Ối dào... quí báu gì! Bà đây cũng là dân ngụ cư thôi. Khi nào bà về với các cụ, chúng mày lên Hà Nội mà sống!

Bà gốc Bắc Ninh, xưa nổi tiếng hát quan họ một thời. Ông vốn mê hát, bạn bè rủ nhau đến Ðình Bảng. Ông gặp bà, hai năm đi lại bà mới nhận về làm dâu đất Yên Phong. Ðến khi giành chính quyền, ông được bầu làm chủ tịch Ủy Ban Nhân Dân xã nhưng người làng quen cách thời xưa, gọi là ông Lý trưởng. Cái tên Lý Văn bắt nguồn từ việc ông theo Cách Mạng. Nhưng oái oăm, bọn trẻ sau này không biết cứ tưởng ông bà thuộc thành phần phong kiến. Thời Cải Cách Ruộng Ðất, ông đã mất sau khi để cho bà một mụn con. Bà suýt bị đấu vì chính sách phản phong, may nhờ một người bạn ông từ chiến khu Việt Bắc về đứng ra xác minh và phân giải.

Bà lại lên cơn ho. Kéo chiếc áo bông vào người, bà thì thào:

- Con Thắm lấy chồng, bà cũng yên tâm. Nhưng con ạ, gọi mẹ mày về dịp này, dù sao...

Mẹ Thắm bỏ đi lấy chồng khi Thắm còn bé. Ít khi nhắc, nhưng lần này Thắm chắc không thể lơ đi được. Thắm ngắt lời bà, miệng bắt sang chuyện khác:

- Bà tính xem mình phải mời những ai trong số các bà các cụ...

Bà lẩm nhẩm không đáp. Ði vào buồng trong, lát sau bà ra, tay đưa cho Thắm một cái nhẫn vàng:

- Cháu cầm cái này để mà chi phí. Nhìn Dân, bà cười, giọng đùa bỡn - lấy chồng anh hùng chỉ mất chớ không được, anh nào cũng trên răng dưới giái cả! Thôi bà đi ngủ trước đây! Nhớ đậy cái bếp trước khi vào nằm với bà, Thắm nhá.

Thắm rũ ra cười. Ðợi bà đi khuất, Thắm béo má Dân, nũng nịu:

- Ðấy! bà vẫn không quên dặn vào nằm với bà. Lần trước anh ngủ qua đêm ở đây, em nằm cạnh cứ cục cựa là bà lại ho, có muốn cũng lại phải giả ngáy cho bà yên lòng.

Dân tinh quái:

- Nhưng muốn gì?

- Muốn gì, tí khắc biết! Thắm khúc khích cười.

Ðêm dịu dàng đắp lên mặt thế gian một lớp nhung huyền. Lửa bếp bập bùng, siêu nước sôi ấp úng cất lời. Gió thốc vào khiến Thắm ngả người để Dân ôm lấy, thỉnh thoảng ngước nhìn, tay xiết lấy tay Dân:

- Anh còn nhớ chứ, cái thời ở địa đạo, cũng lạnh thế này. Hôm em ra, anh đang gác, trời mưa gió anh nhỉ?

Dân lẳng lặng gật đầu. Bà lại hục hặc ho. Thắm buông tay Dân, miệng bảo em đi ngủ đây. Dân nhìn theo, lòng bỗng hững hụt như vừa đánh rơi một cái gì thiêng liêng. Gió, bên ngoài gió lên. Và lạnh, khiến ai cũng thèm chút hơi ấm. Không biết là mấy giờ, nhưng chừng đã quá canh hai. Tiếng côn trùng và tiếng gió lùa qua mái rạ. Thỉnh thoảng, chó sủa. Dân đang lơ mơ, tỉnh dậy khi Thắm rón rén rúc vào trong chiếc chăn bông, đầu giúi vào vai người yêu, miệng thì thầm:

- Hôm nay bà ngủ say đến độ bà ngáy chứ không phải em? Anh có ngửi thấy gì không? Em gội đầu rồi tắm bằng nước bồ kết đấy.

Dân vòng tay ôm Thắm. Da thịt nàng bốc thành lửa sau bao nhiêu tháng ngày nung nấu. Dân áp mặt vào ngực Thắm, hít thật sâu:

- Không, anh chỉ thấy mùi đất trong cái ngày mưa gió ở Vĩnh Mốc, Thắm ơi... Thắm!

Khi đám sinh viên cùng khoa biết tin Dân sắp lấy vợ, họ xúm nhau bàn tán làm một món quà ‘’tập thể’’ nhân dịp đám cưới. Trước Tết hai tuần, món quà vuông vắn, gói ghém bằng giấy kính đỏ, buộc nơ được đưa đến tận phòng Dân. Ngạc nhiên, Dân cảm động cám ơn. Ðám sinh viên nhao nhao bắt Dân mở ra. Ðó là thiệp báo hỉ làm bằng bìa phiếu lấy từ thư viện đại học, chữ in đỏ chóe, trên thông báo lễ thành hôn của Dân và Thắm. Dân hoảng, hỏi:

- Các cậu lấy của thư viện, nhìn ai cũng biết! Thế này, ai dám gửi đến các thày và ban giám hiệu?

Đám sinh viên rú lên cười. Họ đáp:

- ... đất nước chúng ta còn nghèo, nên cứ phải ‘’ nháy nháy’’ phấn đấu. Anh đừng lo, tội chúng em chịu!

Gặp Dân trong hành lang, thày Ngọc chặn lại chúc mừng rồi hỏi:

- Thế ra giêng thì sống thế nào?

Dân nói qua về sự sắp đặt của mình và Thắm, rồi vui vẻ:

- Em vẫn ở trường và sinh hoạt như thường thôi. Còn hơn một năm, em sẽ phải làm luận văn tốt nghiệp. Nếu thày bằng lòng, em xin thày hướng dẫn cho em.

- Ðược thôi! Nhưng cậu vẫn nhất định chọn đề tài về Nguyễn Tuân?

- Như em đã thưa với thày, ông Nguyễn Tuân không mặn mà gì lắm với đề tài so sánh văn học như em đề cập lần gặp trước...

- Thì thôi! Hay là ta cứ chung chung kiểu ‘’ tinh thần yêu nước trong văn Nguyễn Tuân’’, vừa dễ làm, vừa dễ lọt.

- Vâng, nhưng thưa thày, kiểu thế thì khá nhàm... Dân dè dặt.

Thày Ngọc bật lên cười:

- Cái nhàm là cái chung, kiểu xấu đều hơn tốt lỏi ấy mà... Nhưng cứ từ từ, ‘’ vui duyên mới’’ đi đã, thế nhé!

Vài ngày sau, Dân đến nhà Nguyễn Tuân vào lúc sáng sớm. Cửa mở ra, Dân chưa kịp chào thì nghe tiếng kêu:

- A! ‘’ ngoại lệ’’...

Dân mỉm cười, tay đưa thiệp báo hỉ ra. Nguyễn Tuân đọc, rồi hỏi:

- Thế là ‘’ ngoại lệ’’ tìm ra cô Thắm rồi nhỉ. Cười hà hà, ông ta tiếp - Phải thế chứ! Ta đi ăn khao, tôi mời! Ðợi tí nhé...

Hai người đi dọc cái ngõ sâu ra đến phố Trần Hưng Ðạo. Hấp háy nhìn nắng mới trên những tàn cây rợp lá, Nguyễn Tuân chậm rãi:

- Thế là mùa Xuân đến đấy! Tay chỉ, ông tiếp – Ta đi về phía phố Yết Kiêu, rẽ đây!

Một già chống gậy, một trẻ chống nạng cứ thế bước, thật chậm. Vừa đi, Nguyễn Tuân vừa hỏi chuyện Dân đi tìm Thắm. Nghe Dân kể, ông gật gù:

- Chuyện ‘’ ngoại lệ’’ cứ như ci-nê-ma. Thứ nhất là tiếng lộc cộc, biến thành tiếng bom, ảo với người đời nhưng thế mới là thực với văn chương. Cái hiện thực của chữ nghĩa, hiểu cho đúng, là ảo thành thực...

Dân thích thú, hỏi:

- Thế văn chương hiện thực xã hội chủ nghĩa thì sao ạ?

Nguyễn Tuân hóm hỉnh:

- ... ờ, nó có cái đuôi chồn. Nó ảo, ở chỗ nó phục vụ cho những thằng người có đuôi!

Ðến trước một hàng bánh cuốn lẹp xẹp, ông cụ ghé đầu vào, giọng khề khà:

- Chào bà bánh cuốn...

Có tiếng reo:

- A, chào ông nhà văn! Lâu rồi ông không đến...

Nguyễn Tuân chỉ cái ghế đẩu, quay hỏi Dân:

- Ngồi đây được không?

Dân bỏ nạng, nhảy lò cò rồi chống tay xuống đất lấy sức đặt người lên cái ghế đẩu làm bằng ba mảnh gỗ. Chân ghế lẹt quẹt sát đất khiến Dân co chân, mặt hơi nhăn lại. Ông cụ chăm chú nhìn:

- Ngồi được chứ! Nhìn Dân gật đầu, ông tiếp - Tôi mời ông đến đây, là có lý do... Nào, bà hàng. Bà cho hai đĩa Thanh Trì, hai phần chả quế... Hôm nay tôi khao anh ‘’ dũng sĩ diệt Mỹ’’ này, nước chấm bà cho hai giọt cà cuống. Cà cuống thật chứ không kiểu hóa học Thái Lan nhé... Hà hà. Ờ, cũng xin một cút rượu làng Vân, chúng tôi uống rượu mừng mà!

- Giời ơi, sáng bảnh mắt ra mà ông nhà văn đã khề khà, say chết!

Bà bánh cuốn miệng thốt, đầu lắc, nhưng vẫn cúi xuống mò cút rượu đặt lên bàn với hai cái chén hạt mít. Nguyễn Tuân rót, mắt đăm đăm nhìn, nói một mình, xem rượu có sủi tăm không. Hớp một ngụm rượu, ông khoan khoái:

- Bánh cuốn ở đây ngon nhất nước, ‘‘sống sót’’ chứ không như phở trong bài Phở của tôi ấy! May mà người viết về phở cũng sống sót, ông ạ! Thời này, phải viết ‘’ Vang bóng một thời Mỹ’’, và nhất định là có bánh cuốn Yết Kiêu. Tay chỉ lên trên, ông tiếp – Nhà Văn Cao ở đó, sáng sáng có tiếng piano của con bé Hương nên tôi định viết ‘’ Hương bánh cuốn dưới phím đàn dương cầm’’...Chuyện viết lách thì cứ định, định rồi lại định. Bao nhiêu năm nay chỉ lách, chứ có chữ nào viết ra được đâu!

Thế rồi Nguyễn Tuân miên man nói về đổ bột bánh cuốn ra sao, tráng bánh cuốn với cái đũa cả động tác thế nào là chuẩn để độ mỏng của bánh chính xác. Hành chưng lửa phải nhỏ, thời gian đo bắng màu mỡ chứ không phải bằng đồng hồ...Bà bánh cuốn nghe, phá lên cười:

- Ông nhà văn nói thì giỏi lắm. Nào, mời ông vào chỗ tôi, cho tôi xem ông tráng bánh cuốn ra sao nhé!

Nguyễn Tuân cười khà khà, lại nhấp nháp chén rượu, lại nhẩn nha:

- Thế này nhé, tôi tráng bánh cuốn nhưng thế thì bà phải viết văn. Ðổi chỗ là như thế mới công bằng chứ!

- Thôi, có mà rỗi hơi. Tôi lạy ông, ông nhà văn ạ! Bánh nóng đây, mời ông xơi...

- Người tốt, việc tốt – ông nheo nheo mắt, tiếp – Cái gì thì cũng ‘‘tốt thôi’’!

Dân xin phép nói về chuyện luận văn tốt nghiệp. Nguyễn Tuân hỏi:

- Ông vẫn thích viết về Chùa Ðàn?

Nhìn Dân gật đầu, ông cụ ngẫm nghĩ:

- Ông có biết Beaudelaire, người viết Les fleurs du Mal không? Tôi dịch tạm là Hoa Ðơm Ðộc. Ông ấy học tiếng Anh với đám thủy thủ ghé cảng bên Pháp, và dịch truyện của Edgar Poe, thuộc loại truyện kỳ lạ, conte fantastique. Ðấy, nếu có chút liên hệ gì giữa Chùa Ðàn và văn chương Tây phương, thì ông lục Poe ra mà tìm... Quà cưới của tôi gửi ông là cái gợi ý này!

Dân không biết cả Beaudelaire lẫn Poe, định bụng sẽ hỏi thày Ngọc. Nguyễn Tuân đang đứng dậy, miệng giục ‘’ ta về’’. Quay sang bà hàng, ông vừa cười vừa nói:

- Bà ghi sổ chịu cho nhé! Giả một lần cho nó tiện mà!

- Dạ - bà bánh cuốn tươi tỉnh - Bạn hàng chúng tôi quen rồi, ông nhà văn nào mà chẳng ăn chịu!

Nguyễn Tuân đưa tay lên miệng suỵt suỵt, mắt lại hấp háy nhìn lên nắng cao. Bây giờ, có tiếng dương cầm dạo lên. Ông vỗ vai Dân, nói một mình ‘’...con bé Hương dạo này đánh hay hẳn lên. Chắc nó có cái máu của bố nó!’’.

Xế trưa, khách bắt đầu lục tục về. Làm đại diện nhà trai, vợ chồng Cự phải lo liệu mọi bề, khuya nên phải ở lại Yên Phong qua đêm. Ðồng chí Bí thư xã vui vẻ xếp đặt cho họ ở ‘’ Nhà khách’’ của ‘’ xã chúng tôi’’. Thật ra, Nhà khách là phòng họp của Uỷ Ban kê tạm một chiếc giường. Mấy khi đón một đảng viên cấp tá, lại là Chính Ủy và đã lặn lội ở B nên đồng chí Bí thư cứ nhắc đi nhắc lại ‘’...xã không chu đáo thì đồng chí bỏ qua cho, đất nước chúng ta còn nghèo!’’.

Khách phía nhà trai có Tạ, Thành và một sinh vi