Những cuộc di chuyển *-Cây sấu Hà Nội
‘Một lần dọn nhà bằng ba lần cháy”, so sánh như vậy là để nói cái sự vất vả, đôi khi có cả sự mất mát trong đó, mỗi lần thay đổi, cho dù theo hướng đi lên.
Tại sao lại mất mát, nếu không phải là cháy nhà? Tôi đến thăm một nhân vật, ông đang sống những năm vào tuổi xế chiều trong một căn hộ cao cấp ở khu trung tâm số một giữa lòng thủ đô. Căn hộ sang lắm, tiện nghi theo lối hiện đại, tấm thân nhỏ bé của ông lọt thỏm trong lòng cái sofa bọc da, ông chuyển từ một ngôi biệt thự cổ về đây. Một lịch sử dòng dõi khá danh tiếng đang được gói gọn trong tấm thân cổ tích cũng lọt thỏm trong lòng cái sofa ấy.
Thân phụ ông là một nhân vật lịch sử, gia đình ông là danh giá, đã từng sống nhiều năm trong ngôi biệt thự được Nhà nước cấp, được làm chủ và đã bán. Cái dòng dõi gia thế ấy, những nhân vật ấy, ngôi nhà xưa ấy cùng với những gì còn lại của gia tộc, nếu đang giữ được thì có thể tạo lập một bảo tàng.
Nhưng bây giờ chỉ còn lại ông. Nhà bán xong, mua một căn hộ mới, dọn về ở có thể mang theo một số tiền lớn, nhưng không thể mang theo một lịch sử.
Những kỷ niệm cũ, những phần đời buồn vui, lối mòn lên xuống, góc nhìn qua cánh cửa sổ chênh chếch sang bên kia đường, nơi có những gốc cây già ám vào tâm khảm suốt mấy chục năm, ông mang đi bằng cách nào?
Nhưng không thể khác.
Nơi ở mới bao giờ lúc đầu cũng chỉ là một “khoảng trống”, kể cả khi đã được sắp đặt xong đồ nội thất. Nó chỉ được lấp đầy dần qua thời gian. Nó mới là một phần xác bao bọc, nó chỉ ấm lên khi có phần hồn của đời người diễn ra sau đó.
Do vậy, đôi khi với nhiều người, giữa một không gian mới mẻ nhưng còn nguội lạnh thường cảm thấy rất cô đơn.
Như chui vào một cái xe hơi mới vẫn còn mùi da, vào một ngôi nhà mới cũng vậy, cái mùi sơn phảng phất thật khó chịu, khi chưa có mùi người.
Và dường như có những cái không được lại thành là được, không may lại thành là may.
Cha mẹ tôi không có một ngôi nhà nguyên vẹn để để lại, chỉ có một phần của một ngôi nhà, và cũng may, nó cũng không lớn để dẫn đến những hệ lụy thông thường như nhiều gia sản thừa kế khác, nó còn nguyên.
Không lớn, và cũ. Nhưng quan trọng hơn là trong đó gói trọn cái lịch sử của một phần đời không chỉ của một thế hệ, với đầy đủ những chứng vật.
Cái vết nước trà loang ố trên sàn không còn chỉ là chuyện nhỏ, vết vẹt mòn của bậc cầu thang cũng thế, tường nhà đã được sơn lại rồi, cùng nhiều thứ mới, niềm hoài cảm sên sến cũng chả mấy thích thú nữa, còn đầy ra những chuyện phải làm.
Nghĩa là tâm thế mới, tình cảm mới, cái nhìn mới để trở về trong ngôi nhà cũ. Thế mà sao không lạ, không khó chịu, không cảm thấy xa vời! Mấy chục năm, lúc đi lúc về năm một, mà cứ như đi về hằng ngày, bình thản mà sống với nó.
Khi làm một căn phòng có tính “lưu niệm” trong nhà, dù không muốn và không bị gò vào những ước lệ thông thường, trên cái nền rất mới, có cả những sắp đặt và phá cách, mà sao vẫn ra hồn cốt cũ.
Tinh thần và linh hồn nơi chốn được tạo ra từ những mối liên hệ bản chất, có tính gắn bó như máu thịt giữa người và vật. Cái phần đời đã sống, đã diễn ra ở đó tạo nên một thần khí bao phủ khắp nơi ăn chốn ở, bám chặt vào những chỗ ngóc ngách nhất, nó sẽ chả bao giờ mất đi đâu dù ta có xoay chuyển đồ vật hoặc chả làm gì cả, dù đi đi về về thế nào thì ở đấy vẫn cứ là cái không gian muôn thuở. Thế nhưng cũng vẫn là những chứng vật kia, lối sống cũ kỹ, niềm hoài cảm lúc nào cũng rưng rưng trong lòng ấy, nếu dịch chuyển đến một nơi chốn khác thì không bao giờ còn là chúng nữa.
Buổi lễ tưởng niệm 100 năm ngày sinh người cha đã khuất dù chật chội, chen chúc đứng ngồi, dù có những lời thắc mắc sao không mang đến một chỗ nào khang trang, rộng rãi và do một tổ chức quan trọng thực hiện cho tầm cỡ hơn, thì vẫn phải diễn ra ở đấy, nơi mà tất cả những gì là chứng vật, là dấu ấn của một đời người đã được sinh ra. Khuân vác chúng đi đâu thì chúng chỉ còn là những vật trưng bày không hồn vía.
Và thật may, đã có ngày tôi phải đóng gói tất cả vào một cái va li mang đi trong cuộc di chuyển, nhưng đã có ngày tôi lại được mang chúng trở về, để rồi hôm nay, chúng làm hiện ra cả một phần đời còn nguyên vẹn.
Cây sấu Hà Nội
Mỗi người đã sống qua những tháng ngày bom đạn ở thủ đô Hà Nội chưa thể nào quên hình ảnh về những cái hố tròn nho nhỏ rải rác dọc khắp các hè phố, bên những gốc sấu già. Đấy là những cái hầm átrúnhẩânnccho người qua đường. Và trên
cao, những cành sấu trĩu quả đung đưa ngả vào từng ô cửa sổ, kính được dán lên những dải hoa bằng giấy để tránh bị rung vỡ do tiếng nổ của bom, như những hoa văn trang trí, đầy tinh tế của người Hà Nội.
Nhà tôi ở gần một con đường nằm giữa lòng thành phố, đường Trần Hưng Đạo đi từ ga Hàng Cỏ thẳng tới bờ sông Hồng, là một trục chính của thủ đô. Thời trước nó thuộc khu “phố Tây”, và có lẽ những cây sấu ở đây đã được người Pháp trồng ngay từ những ngày đầu tiên khi xây dựng nên đô thị này. Tôi không rõ lắm vì lý do gì mà các nhà đô thị người Pháp lại chọn cây sấu cho nhiều con đường chính và sang trọng ở Hà Nội lúc đó, song bây giờ nhìn hàng cây với những tàn lá xanh rì, xòe rộng hai bên hè, nhập nhòa đổ bóng vào nhau, rợp mát dọc suốt con đường, xa xa, những khối nhà bê tông chỉ còn là những mảng màu thấp thoáng, không gian như dịu lại, như nhẹ nhõm hẳn đi, mới thấy cái sự tài tình của họ qua cách đặt dải cây xanh này cho không gian đô thị Hà Nội.
Mỗi lần trở về khi bước xuống tàu ra khỏi ga Hàng Cỏ, tôi thường được gặp lại tuổi thơ của mình. Đường Trần Hưng Đạo như những thước phim lần lượt đưa tôi về lại cái thời “đổ dế, bắt ve” qua từng gốc sấu. Khi trên tầng cao kia bắt đầu những tiếng râm ran của bản “giao hưởng” mùa hè là lúc mùa thi đến, lòng lại rạo rực vì một năm học nữa sắp trôi qua. Rồi những ngày hè nghịch ngợm ném sấu ném me… Khi những quả sấu đã ưng ửng vàng lộp bộp rơi xuống cũng là lúc vào mùa mưa bão. Trong nỗi lo tất bật của người lớn thì lũ trẻ con vui thích mỗi sớm mai dậy sớm ra đường ôm về một bụng đầy sấu rụng đêm qua. Đó cũng chính là lúc lũ chúng tôi chuẩn bị mấy cuốn vở để vào mùa khai giảng.
Có những không gian ấm áp được tạo nên từ những sự đơn giản đến không ngờ. Buổi tối mùa đông, trong cái rét căm căm của gió mùa đông bắc, bên gốc sấu già, một bà cụ đầu chít khăn mỏ quạ, ngồi co ro với một bình tích nước trà ủ bằng bao tải, hai ông khách ngồi “bắn” thuốc lào vào một ngọn đèn dầu lờ mờ ở giữa, tất cả như cụm lại vào nhau, thì thầm, chia sẻ, nương tựa, sưởi ấm cho nhau nỗi lòng.
Mỗi thành phố thường có một hoặc vài loại cây in sâu vào tâm tưởng mỗi người để rồi trở thành một hình ảnh quen thuộc, thân thương đến nỗi đi đâu, ở đâu cũng phải nhắc tới mỗi khi kể về thành phố của mình. Nó được ngân lên trong thơ, trong nhạc. Sài Gòn với những “con đường có lá me bay”, Hải Phòng được biết đến như một “thành phố hoa phượng đỏ”… Với Hà Nội hôm nay, ngoài cây hoa sữa, còn có những hàng sấu mà hình ảnh của nó cũng vô cùng thân thuộc song chưa được nói tới nhiều. Nếu hoa sữa khiến người ta ngây ngất nhiều về mùi hương của nó, “thơm mùi thơm chờ đợi”, một mùi hương đầy nữ tính, dịu dàng, ẩn hiện, quyến rũ trong buổi tối mùa thu, gợi lên cái xúc cảm nôn nao của tình yêu, của cuộc hẹn hò, khiến lòng rạo rực, thì cây sấu lại là một cái gì rất tương phản, gây ấn tượng từ dáng vẻ già nua, sần sùi, gân guốc, cho đến những quả sấu tròn nho nhỏ xanh xanh nằm lăn lóc trên mấy cái mẹt vỉa hè của mấy bà bán rong. Những hàng sấu đứng đều tăm tắp hai bên đường, trầm ngâm, tĩnh lặng, khiến ta liên tưởng đến hình ảnh những người đàn ông từng trải, đã từng chứng kiến và chứa đựng trong mình biết bao nhiêu là sự kiện của đời phố, đời người, đầy chất suy tư, chiêm nghiệm. Và chắc rằng ít người Hà Nội nào quên được cái màu xanh dịu nhẹ, cái vị chua chua của quả sấu dầm trong bát nước luộc rau muống vào mỗi bữa cơm chiều mùa hè nóng bức. Thương cho cây sấu vì cái tên rất khó vào thơ vào nhạc, nhưng lại rất “văn xuôi” vì nó đầy “thân phận” và sự từng trải của cuộc đời.
Năm tháng trôi qua, trên những con đường ấy, những con đường rợp mát bóng cây, nhiều khối bê tông đang chen chúc mọc lên từng ngày. Bây giờ vào mùa hè đã ít thấy những đứa trẻ đi từ gốc cây này đến gốc cây kia để tìm tổ dế, chúng quá bận rộn với việc học hành và các trò chơi điện tử. Trên cành cây, những đám lá nhuộm màu bụi đỏ. Và đây đó, nhiều cây sấu đã phải đau đớn mang trên tấm thân già những chiếc đinh găm chặt lên các biển quảng cáo rao vặt.
Dưới lòng đường, dòng người xe vẫn vô tình, hối hả trôi, để lại hai bên hè dãy sấu già lặng lẽ, và luôn luôn bên cạnh chúng, dưới mỗi gốc cây vẫn chỉ là những ngọn đèn dầu lờ mờ cùng nó thao thức đêm đêm…