Quả đấm cửa *-Nơi sinh-và chứng vật đời người
Bây giờ gọi là tay nắm nghe chả sướng bằng. Quả này bằng sứ, già cũ lắm nhưng không ố vàng. Chỉ lốm đốm vài vết sứt như rỗ sẹo, trơ như mặt giang hồ nhưng bóng mịn như da con gái. Đời sướng thế, 80 năm ngày nào cũng ấm tay người. Chả trách sống lâu.
Chỉ có điều trước đây nằm dọc, giờ có lúc nằm nghiêng, hay ngang. Dọc thì nghe êm lắm, nghiêng thì se sẽ ọ ẹ, ngang thì rít lên như mài răng. Mình ra đi từ lúc nó toàn nằm dọc, giờ về đa số là ngang, đúng 34 năm ròng.
Thời nằm dọc là cái thời yên ả của đầu thập niên 1960. Buổi sáng không nghe tiếng mở, cái khép cũng rất nhẹ. Chỉ có tiếng guốc gỗ lên xuống cầu thang, rồi mùi cà phê nưng nức. Năm bom đạn thì đã nghiêng rồi, tinh mơ hay nghe kèn kẹt dù bà cụ rất cố để khỏi lay động cả nhà, dù cái sự dậy sớm ấy cũng chỉ vì cái phích nước sôi cho chồng pha trà và cà phê bữa sáng.
Năm 1967 đạn bom rung ầm ầm những khuôn cửa kính. Những ô kính được dán những miếng hoa giấy cho khỏi vỡ. Ôi giời, hóa ra lại lọc sáng nữa. Dầu trong ổ khóa cứ khô dần, cũng chả buồn tra. Lo bếp dầu mì sợi chạy ra ngoại thành, thời gian đâu.
Nhưng cũng khổ, giai gái đi chơi về, lên thang rón rén, rồi một tiếng “cạch”, thế là tiêu tan.
Thôi thì ở nhà, những cái hôn trên sân thượng. Sân nhà người thì tự vệ sao vuông, súng 12 ly 7. Sân nhà mình thì hôn hít cả thật lẫn trong tưởng tượng.
Mà phải nói ổ khóa là cái thứ có tính gợi “chuyện nọ xọ chuyện kia” nhất. Nói kiểu văn Tự Lực… là có tính liên tưởng. Chỉ một tiếng “cạch” nhỏ mà tạo ra những cú giật mình lớn. Những dở dang…
Điện ảnh có nhiều “scène” chiếu khuôn hình qua lỗ khóa, đa số là những hình ảnh chả hay ho gì, thì đã hẳn, nhìn qua lỗ ấy là cái nhìn vụng trộm, là bất minh.
Cho nên mình cứ thấy thương cái lỗ khóa. Những ổ khóa cổ ngày xưa đa phần là như thế. Ngày ấy chìa to bằng đồng, lại còn dài nữa, cầm đút vào thật sướng.
Ổ khóa hiện đại tân thời tí hin khe kẽ. Như cái miệng ngậm, đút chìa vào phát bực. Ấy thế mà cần dòm trộm thì tuốt tuồn tuột, đã có mắt thần, rồi ca mê ra. Rõ ra cái đồ đạo đức giả.
Mình thì mê mẩn như thằng thần kinh, con có vẻ bực vì giật mình tỉnh giấc, vợ có lúc cằn nhằn sao không chịu thay, cứ cố mà giữ làm gây tiếng ồn. Mình câm lặng. Mỗi người đuổi theo một giá trị riêng.
Vật thể mà phi vật thể, ấy là những thứ cũ kỹ mà giá trị là ở thời gian. Thời gian không phải chỉ là cái sự lâu, là cái đồ cổ, mà thời gian là ở chỗ những khoảng khắc, những lúc nó chứa đựng những thứ, sự kiện, xúc cảm ghi dấu ấn sâu vào lòng người. Rõ ràng nhìn vật mà nghe ra âm thanh. Câm lặng thế mà như đánh thức.
Thôi đành mất ngủ.
Nơi sinh và chứng vật đời người
Nơi sinh trong lý lịch thường ghi là một vùng lãnh thổ, tỉnh thành, huyện lỵ, làng xã. Trong giấy khai sinh là một địa chỉ, bệnh viện A, nhà hộ sinh B, nhưng có bao giờ cái chỗ con người ta cất tiếng khóc chào đời đầu tiên lại là chính ngôi nhà của mình?
Tôi được sinh ra ở một nơi như thế. Ngôi nhà cũng chính là nơi “chôn rau cắt rốn” theo đúng nghĩa đen, mà không phải là “đẻ rơi”. Cái tờ khai sinh cũng hơi đặc biệt, nơi sinh và nơi ở cùng một địa chỉ, nơi được sinh ra, được đỡ, được cắt rốn và cất tiếng khóc chào đời đầu tiên cũng chính là nơi mà sau đó mình được sống trong suốt hai mươi năm đầu tiên của cuộc đời. Mẹ tôi làm nghề đỡ đẻ, đôi tay bà đón đỡ hàng trăm đứa bé, và đôi tay người đồng nghiệp của bà đón đỡ tôi. Vừa là nhà hộ sinh, cũng chính là nơi gia đình ở, đến giờ đã hơn năm mươi năm trôi qua.
Có lẽ vì vậy, với tôi, ngôi nhà ngoài việc giống như một cái nôi lúc nhỏ, nó còn như một lời dỗ dành ngon ngọt lúc trưởng thành.
Nhà vốn là biệt thự của một bác sĩ thời Pháp, mẹ tôi thuê lại mở hộ sinh tư trong những ngày đầu hòa bình, khi thủ đô mới được tiếp quản. Như nhiều ngôi biệt thự khác lúc còn nguyên dạng, nó đẹp một vẻ cổ kính, có vườn, có cây và lối đi rải sỏi, những căn phòng có lò sưởi, và cửa sổ chạy sát xuống sàn nhà. Mà thôi, đấy là chuyện “muôn năm cũ” của những ngôi biệt thự cổ xưa. Bây giờ thì nó là ngôi nhà nhiều hộ ở, với nhiều phần thêm thắt chắp vá, chất trong đó là tất cả những gì của một đời sống thực hôm nay. Những lối đi lép nhép nước, những cái lò than tổ ong, mái v, nẩyhững “góc chết” công cộng là nơi chứa những thứ đồ chỉ làm chức năng “xí chỗ”. Trong đó có nhiều “thế giới”, những thế giới bình thản sống theo cách và những thói quen riêng, chả có gì chế ngự được.
Vài chục năm sống ở Sài Gòn với tiện nghi hoàn hảo, sự riêng biệt, không phải bước qua những khoảng sân suốt ngày ẩm ướt, không bị vấp vào cái chậu giặt ngay lối đi, không hít mùi cay cay ngạt ngạt của lò than tổ ong, không nghe tiếng chửi bới mắng con từ căn nhà đối diện, kể cả không phải nghe cái tiếng loa phường đến điếc tai oang oang vào những giờ người ta cần yên tĩnh nhất, những tưởng dễ làm con người quen sướng, khó thích nghi với cái khổ. Nhưng không phải vậy, như lá rụng về cội, trở về mà như chưa bao giờ đi đâu.
Nhà không có đồ cổ, những thứ gia bảo truyền đời. Chỉ một vài món đồ cũ, mấy cái đĩa sâu lòng bà cụ mang về từ một xứ nào đó rất xa, từ thời rất lâu, cái bình cà phê bạc bị ô xy hóa đen xỉn, cái hộp khâu đựng đồ lỉnh kỉnh, chìa khóa lẫn kim chỉ, cái mâm đồng, bát ô tô, bát chiết yêu to nhỏ, tất cả vẫn dùng được và được dùng, không phải vật trưng bày, trừ cái ấm samôva đun nước ông cụ mang về từ nước Nga xa xôi trong những năm năm mươi của thế kỷ trước là để đấy, vì chả có than, chứ có thì dùng cũng thích. Những thứ đồ cũ cũng gợi lại ít nhiều kỷ niệm, nhưng phơn phớt thôi, cái chính là nó gợi lại một lối sống, cái sức ám ảnh nhất chính là lối sống, cái lối sống lẩn khuất.
Nhìn góc nhà thì nhớ tới việc phải làm ngày cuối năm, chỗ luôn đặt một cây đào nguyên gốc. Cái mâm đồng vo tròn bữa cơm lại, thiếu nó, bữa ăn cứ thành rời rạc. Thiếu nó không thành mâm cơm cúng ngày tết, buổi tối mời ông bà. Nhưng đấy cũng là chuyện nhỏ.
Thứ “thiêng liêng” nhất là bộ ghế bàn trà nước và cái bàn làm việc có ngăn tủ của ông cụ, trong hai hộc bàn ăm ắp những xấp, những chồng tư liệu cũ. Những chồng tư liệu ấy như những chứng vật đời người, mà hình như, chân dung một con người còn ẩn sâu ở đó, những thứ nằm im trong các tập bìa cũ, ở dạng viết tay hay đánh máy, là một văn bản đã gửi đi hay bản thảo còn lưu lại, là một bức tranh hoặc các trang thư từ, thì trong đó đều chứa đựng những thứ cho thấy một hình ảnh khác, đời hơn, con người hơn, và có chút gì bi kịch hơn so với những gì người ta đã nghĩ, đã biết về cuộc đời họ. Do vậy, bằng tư liệu, ta có thể khôi phục lại một không gian sống của một con người, và bị tác động bởi nó.
Cái thú cầm một cây cọ lông nhỏ mịn màng phủi nhẹ lớp bụi cho một cái tem cổ, nếu đem so với cuộc dạo chơi bằng cái chổi lông gà khua vào cái chồng bản thảo cũ đã mốc meo, thì cũng như “bì phấn với vôi”. Nhưng quả thực, chưa chắc cái nào kém sự hồi hộp, kém thích thú hơn cái nào.
Có những bức tranh đã được đóng khung, cần được đóng khung, nhưng có những bản sơ phác, những bản thảo còn loang lổ vệt nước trà, những lá thư viết dở, tấm ảnh ố vàng mục nát một góc cạnh, thì chỉ nên ghim vào, hờ hững như lưu giữ một cảm hứng, một sự dang dở của một cuộc đời không bao giờ muốn được đóng khung.
Những chứng vật đó không hẳn chỉ gợi lại một niềm hoài cảm cũ kỹ. Không nên nhìn mãi chúng với một xúc cảm ủy mị - trạng thái mà người ta hay gọi là “sến” - hoặc với cái thú của một nhà sưu tầm, hay kẻ “chơi” tư liệu. Cũng không phải là những thứ trang trí nhà cửa. Với tôi, chúng là những thứ đập vào mắt khiến ta cứ phải “đọc” nó, với một sức ám ảnh ghê gớm. Và với tâm thế của người đang sống trong thời buổi hôm nay, nghĩ ngợi, thì nhiều ít gì chúng cũng đánh động, kích thích ta có được tâm trạng, niềm hứng thú sống một cách tích cực hơn.
Cho nên có những thứ rất bình thường nhưng đã tạo ra hẳn một nơi chốn, ấy là những chứng vật đời người. Chúng làm cho nơi chốn ấy khiến ta dù có đi đâu, lâu hay chóng, nhưng lúc trở về cứ như chưa bao giờ rời xa. Có lẽ đấy mới là nơi đích thực nhất để ghi trong tờ giấy khai sinh của mình: Nơi sinh. Chỗ sinh ra ta phần thể xác, cũng là nơi sinh và nuôi dưỡng ta phần hồn.