Lênh đênh phù sa *-Bờ Hồ-bao giờ cũng yêu
Vào cái thuở “Mùa thu dừng lại ở Long Biên, để một mình tôi lên Vĩnh Yên”(1), gã thường thả lời chào Hà Nội xuống dòng sông Hồng ở chỗ này.
Đi xa về, niềm rạo rực đầu tiên cồn lên trong lồng ngực cũng ở chỗ này.
Bãi giữa.
Những chuyến tàu chợ Hà Nội - Vĩnh Yên rời ga Hàng Cỏ vào chiều chủ nhật lèn kín người và hàng. Khách tàu đủ thành phần công nông binh nhưng chiếm nửa toa là lái buôn và sinh viên đại học các trường Quân sự, Xây dựng, Kiến trúc.
Công nông binh đi tàu chắc có mua vé, lái buôn cũng vậy, sinh viên gái thì ngoan và nhát, chắc cũng giả tiền. Sinh viên giai thì không.
Cũng chả phải lén lút gì, cứ nghênh ngang thôi.
Lúc đi thì lên từ ga, xuống cũng tại ga. Lúc về thì lên từ ga, xuống tùy thằng, đứa cầu Long Biên, đứa chỗ chắn tàu đường Trần Phú, Cửa Nam. Tàu phi nước đại vẫn “liều mình như chẳng có”, lắm lúc tàu chạy nhanh, là cách anh lái tàu chơi xỏ, nhiều chú lăn lông lốc trên đường như cái ống bơ sữa bò người ta quăng đi. Tiền để lên trường ăn hút, tội gì.
Bám cửa tàu đánh đu, hoặc ngồi trên nóc đón gió sông Hồng. Có vài thằng bị thành cầu gạt thẳng xuống sông mất mạng.
Rất sướng. Tàu đi nhìn Hà Nội nhỏ dần rồi chìm vào bãi giữa. Những mái nhà chui tọt ruộng ngô.
Rất sướng. Tàu về nhìn bãi giữa mờ sương, rét căm căm run rẩy phập phồng trong lớp áo bông mậu dịch, “phố - nhà - mưa sa…” lờ mờ ẩn hiện.
Bãi giữa tả tơi, dung dị thân xác, toang hoác thần hồn. Những bờ ngô, bãi mía ngả nghiêng lá vẫy, “đưa người ta không đưa qua sông”, như thế cũng đủ nát nỗi lòng. Bãi giữa thân quen tần tảo đón người về như mẹ già đội cái nón lá tất tưởi chạy ra đầu ngõ đón con.
Nhưng chỉ được lúc đấy. Bãi giữa quăng ra một lô xúc cảm lành. Tàu đi một quãng, lúc rời Hà Nội ban chiều, qua hai tiếng đồng hồ là tối.
Giai mười tám chèn người vào gái con buôn. Chưa hay đã có chồng thì ở đây cũng “đương đông buổi chợ”, những khuôn mặt giai nổi đầy trứng cá, những khuôn mặt gái hây hẩy gió nồm… Những tiếng cười hic hic… nhưng thỉnh thoảng lại ré lên “bỏ tay ra, tiên sư cha thằng mất dậy”, tiếng mấy bà buôn chuyến sồn sồn.
Ở một góc tối cuối toa, bó gối trên sàn trong thoang thoảng mùi hôi hôi đồng ruộng, gã gật gù theo nhịp lắc con tàu, đung đưa giấc mơ về bãi giữa.
Ấy là chuyện trước mấy mươi năm.
Ngày xưa chị Phan Thị Thanh Nhàn nói về người “xóm đê” thế này: “Xóm đê ngày trước gọi nhau, lão Tư say, thằng bé đánh giày, mụ còng bới rác”.
Xóm đê và bãi giữa có gì liên quan?
Gã cũng có ông chú người xóm đê. Nơi nhiều Chủ nhật được bố chở đến vì món thịt chó. Vào thời ấy, để đối phó lũ lụt, căn nhà được tôn nền cao lên hơn một thước, cái phản kê thêm gần thước nữa là hai.
Thịt chó, gió sông. Cải ngồng bãi giữa.
Bây giờ xóm đê nhà phố, đạp mỏi chân mới ra bờ cát, mới mấp mé ruộng ngô.
Mấp mô đường, loanh quanh bãi, những mái nhà toang hoác gió sông. Xác xơ vườn chuối. Sông Hồng thờ ơ chảy.
Người “xóm đê” giờ giàu, dân xóm đê í ới gọi nhau đi nhậu nhà hàng, hát karaoke, gội đầu cắt tóc. Bức tường thành nhà phố chân đê tạo thêm một lớp ngăn cách nữa giữa phố Hà Nội với sông Hồng, đẩy sông Hồng ra một quãng xa.
Dân bãi giữa ngụ cư lay lắt. Vẫn đến từ đủ các nơi, sống trong nỗi phập phồng vừa cặm cụi cạo hà thủ ô, trồng cà chua, trồng chuối, vừa dáo dác ngó nghiêng, ngóng chờ tin quy hoạch.
.
Lâu lâu sáng Chủ nhật làm gà phục vụ các nhiếp ảnh gia. Thế thôi, được ngày nào hay ngày ấy.
Dải đất bồi chập chờn theo con nước, lúc dính liền, lúc rời xa, nhưng mùa nào thì cũng không gì cắt rời mảnh đất ấy ra khỏi phần cơ thể của Hà Nội.
Như con thuyền chở nặng phù sa lênh đênh trên dòng sông Hồng, tự bao đời dải đất ấy cõng trên mình bao kiếp phận ngụ cư, những con người cắm mặt vào đất, bán lưng cho trời, chả quản nắng mưa, trong cái nắng cháy da, rét cắt thịt, đào bới, gieo trồng, chắt chiu từng sản phẩm nhỏ để sống và tồn tại. Chống chọi và sinh tồn qua bao mùa lũ lụt, trước tính khí thất thường của dòng sông, lúc hiền lành, khi hung dữ, chỗ lở, chỗ bồi, nhưng doi đất và con người vẫn tồn tại một cách âm thầm bền bỉ, nhẫn nại với thời gian, nên cũng đầy chất sử thi về một vùng đất sống.
Cái dải phù sa nuôi nấng một vùng xanh ngan ngát ấy còn như một dải yếm mềm nâng niu cho Hà Nội ở chỗ ven bờ. Nhưng giờ đây, cứ phải yêu thương nó trong nỗi ám ảnh, lo lắng về một sự đe dọa nào đó trước số phận mong manh. Giá như nó vẫn cứ là một vành đai xanh cho Hà Nội, là rau, là hoa hay là quả… gì cũng được, miễn là một nơi con người sẽ không còn phải chống chọi, nhưng cũng không phải tranh giành. Là nơi con người được sống hiền lành, thở bầu không khí khoáng đãng, được đón những làn gió thổi từ sông. Ý nghĩ về một thành phố bên sông đang được vẽ lên, như một bức tường thô bạo chặn ngang dòng cảm xúc. Thôi thì cứ phớt lờ thời cuộc, và ở đấy cũng là chỗ cho người ta tìm đến để phớt lờ.
Những đời người đã long đong phận người từ hàng trăm năm trên dải đất này, còn bây giờ, dải phù sa đang lênh đênh phận đất trong dòng chảy mỗi ngày một chậm của dòng sông.
Không ai cấm ước mơ, nhưng sông Hồng không bao giờ thành sông Seine được, dù người ta cố vẽ ra nó.
Chú thích:
(1) Thơ Vĩnh Mai.
Bờ Hồ bao giờ cũng yêuKể cả tranh Bờ Hồ cũng vậy, yêu chứ. Ngây ngô một cách hồn nhiên, thành thực một cách hồn nhiên, người ta chép lại không che giấu bằng một cách nhìn chất phác của người dân thường, thế mà xúc động. Bao nhiêu thế hệ dân cày mơ đến Bờ Hồ (viết hoa như một địa danh) để mút một que kem, để khắc vào thân cái bút máy Trường Sơn dòng chữ “lưu niệm” với nét chữ như rồng bay của anh thợ khắc qua hình ảnh hồ Gươm dán trên vách tường với tháp Rùa, cầu Thê Húc lơ thơ tơ liễu buông mành, bên cầu hai cô gái áo dài e ấp nón lá, áo dài quần lụa tung bay.
.
Bây giờ tôi cũng muốn nhìn hồ Gươm như thế, theo cách nhìn của dân thường. Chiều 30 tết, lạnh và tối. Người Sài Gòn bảo Hà Nội cứ “khổ hạnh” thế nào, chả lung linh được như Đồng Khởi, Nguyễn Huệ. Thì rõ rồi, chỉ những lồng đèn xanh đỏ hắt ra một thứ ánh sáng yếu ớt từ những lùm cây. Nhưng thế mới là Hà Nội, mới ra “Bờ Hồ”. Kể cũng lạ, dân Hà Nội uống bia cũng nhiều sao hãng Heineken không mang đèn ra giăng nhỉ? Nhưng mà lại may, nếu không, họ biến Bờ Hồ thành Đồng Khởi thì cũng buồn.
Ai đó nói rằng, “rét và mưa phùn là những giá trị của tết Hà Nội”, đúng thật. Sương phải giăng mờ bên hồ Gươm, đèn phải hiu hắt nhập nhoạng những bóng cây và cột đèn đường, gió phải hun hút đường xa. Chứ cứ trong veo leo lẻo hay tưng bừng ánh sáng như Champs-Élysées ở Paris, để lộ ra mấy gian hàng bán va li đểu hay cụm tượng “quyết tử” thì trông nhức mắt, phản cảm lắm.
Cho nên tôi vẫn thấy thương, và yêu Bờ Hồ với đèn xanh đèn đỏ, ngọn tỏ ngọn mờ. Với cái xúc cảm của một anh “Le Nha Quê” vẫn thật là sướng lắm!