← Quay lại trang sách

Thời bao cấp *- Bếp mùn cưa

Để gợi nhớ, để kể rằng chúng ta đã có một thời như thế, để biết trân trọng, và biết quí cái sự “thoát khỏi” nó… thì “OK”. Nhưng cứ lạm dụng mãi chúng như những thứ vật trang hoàng la liệt, rối rắm, thì lại dễ nhàm. Cũng giống như lúc đầu người ta mang thúng mủng giần sàng ra trang trí cho những quán rượu dân tộc, viết thư pháp lên cái mẹt treo trước nhà hàng, đến lúc nào cũng dần mất đi. Mang đồ cũ ra bày có vẻ dễ, tìm ra được cái vẻ đẹp tinh tế trong thiết kế với tinh thần mới mẻ quả là khó.

Những đồ vật mà chúng ta đang mang nó ra với cái vẻ “yêu thương giả tạo” ấy, giờ như thứ đồ chơi của một số người, nhìn vui vui mắt. Chả biết họ có thực lòng yêu thương cái thời buổi nó sinh ra và muốn quay trở lại? Rõ ràng có nhiều giá trị thực thụ bị chính cái thời buổi đấy triệt tiêu mất hết (thôi khỏi phân tích nguyên nhân), vấn đề là sao giờ ít ai chú ý, nghĩ đến việc làm thế nào để “phục sinh” những giá trị ấy? Cái mùi vị phở ngày xưa, mùi vị ly cà phê đá 5 hào ở cửa hàng điểm tâm giải khát mậu dịch quốc doanh Hà Nội cũng đáng giá lắm. Miếng thịt quay thơm nức, bì giòn tan trong miệng vẫn cứ thơm một cách khó tả và mẹt thịt chó của ông gù óng ả một góc chợ Hôm. Ấy là chưa nói đến một số thương hiệu có từ thời trước nữa, hiệu bánh Bodega chỗ Tràng Tiền với những cái bánh sừng bò vàng óng do người Tây để lại, hay những con vịt quay ngầy ngậy ở cửa hàng Nguyên Sinh gần chợ Hàng Da…

Ở thành phố trong Nam, thật may cho Saigontourist tiếp quản được nguyên cơ sở, thương hiệu và công nghệ làm bánh từ ông chủ Pháp Brodard cong đít chạy để lại. Thế nhưng giờ cũng chỉ là cái tiệm bánh nhỏ trên đường Nguyễn Thiệp vẫn đông khách vào ra nhờ “lộc cũ”, còn cái tên Brodard từ lâu đã biến mất và quán cà phê ở cái góc phố đẹp nhất Sài Gòn trên đường Đồng Khởi giờ biến thành nơi bán sản phẩm Sony. Cái tên “Givral” nổi tiếng một thời, giờ chỉ còn ở một hai tiệm bánh rất xa trung tâm trong tình trạng èo uột.

Đúng là cái gì tự đến cũng dễ đi. Biết quý báu gì đâu mà giữ!

Bếp mùn cưa

Hút tẩu, tiếng Tây là “pipe”, nhồi thuốc vào lại nhớ đến cái bếp mùn cưa.

Hồi đấy, những năm 1960-1970, thời “gạo châu củi quế”, dân Hà Nội ngoài dùng than quả bàng, còn hay đun bằng cái bếp ấy, kiểu bếp hình trụ rỗng, vỏ gò bằng tôn cao hơn ba tấc, đường kính chừng hai tấc, có một cái lỗ nhỏ bên hông. Đầu tiên để một cái chai vào chính giữa, cho mùn cưa vào xung quanh mà lèn chặt xuống, mùn cưa âm ẩm mịn màng được lèn xong rồi thì kéo cái chai lên, thế là thành cái bếp nấu cho cả bữa cơm gồm ba món, rau (xào, luộc), mặn (cá, thịt kho) và nồi cơm cuối cùng. Lèn khéo, vừa độ chặt thì rút chai ra để lại “cái lỗ” đẹp, bếp cháy âm ỉ, đượm lâu. Nếu không thì lúc rút chai cái lỗ hay bị vỡ, miệng nham nhở, bếp nhanh tàn. Củi hay giấy báo nhóm bếp đưa vào qua cái lỗ bên hông, rồi bén vào mùn cưa, lửa mùn cưa cháy không thành ngọn, cứ âm ỉ đỏ mà làm chín cơm, nhừ xương, nát thịt.

Thời khó, gạo thịt thiếu đã đành, chả hiểu sao đến thứ đun cũng khan hiếm thế. Sau còn dùng cả bếp trấu kèm củi cho đỡ tốn, rồi sang bếp dầu hỏa là thời “gạo phiếu, dầu sổ”. Có lần hết dầu buổi sáng, ẩu cho tí xăng vào bếp dầu đun nước pha cà phê, lửa bùng

lên suýt cháy nhà, toi mất cái chăn nhúng nước để trùm lên.

Nhưng mùa nồm, mưa phùn lâu, mùn cưa hay củi ẩm quá, được bữa cơm khói cay xè dầm dề nước mắt. Ấy là bà cụ, chứ ông nhà thì có cái tẩu cũ mèm vẫn ngồi nhả khói vu vơ.

Giờ “Gú gồ” đánh “bếp mùn cưa” tìm hình ảnh toàn cho ra bếp kiểu cải tiến gì đâu, như cái lò cho bếp tập thể, còn cái bếp mùn cưa “gia đình” kia chả có. Thế là “tuyệt tự” rồi, chả biết nó còn trong kho ảnh của nhà nào không?

Giờ thành thị đa phần bếp ga, nhưng vẫn nhiều nhà dùng “tổ ong” cho rẻ, tuy trong nhà đủ ti vi, tủ lạnh và đi xe máy Dream, Lead, hay gì đấy.

Rung đùi nhấm whisky, mồm ngậm tẩu, mắt lim dim tìm về quá khứ, không nhớ gì mà lại nhớ cái bếp mùn cưa?

Thì ra cái đuôi “tiểu thị dân” nó vẫn còn, có ngồi đâu, Hà Nội, Sài Gòn, Paris, London, hay New York thì cũng vậy, nó cứ lòi ra!