← Quay lại trang sách

Mùi hồng bì

Dễ đến vài chục năm, cái mùi ngai ngái rất khó xác định ấy mới trở lại trong khứu giác. Bảo thơm thì không phải, nhưng sức quyến rũ thì hơn mọi mùi thơm. Nó xộc vào mũi, hơi cay cay, thoáng một chút hăng hắc nhưng không đáo để như mùi vỏ cam, vỏ quất. Hồng bì đặc trưng ở mùi hơn vị. Xưa chua chua, giờ chả biết sao ngòn ngọt, tình hình chung. Công nghệ sinh học chăng, làm biến đổi hương vị nhiều loại cây trái, giờ có nhiều quả ngọt như mứt, phải ăn kèm cà phê hay trà mạn.

Chùm hồng bì lắc lỉu trái trên cành trong nắng hè tháng Bảy cho cảm giác dìu dịu, khác hẳn với những chùm nhãn lủng lẳng xum xuê nóng. Những quả hồng bì nho nhỏ xinh như môi trẻ con, lớp vỏ mìn mịn mềm mềm lại như phơn phớt một chút gì có cảm giác như lông tơ nhưng mà không phải.

Căng căng mọng mọng, cắn nhẹ vào là một làn nước ngọt lịm môi.

Nhưng ấn tượng nhất vẫn là cái mùi đầy ám ảnh.

Nhặt một ký hồng bì 25 nghìn ở đường chợ vỉa hè Bảo Khánh của em gái xe đạp ra đâu từ mạn Long Biên. Mặc kệ bẩn, mặc kệ bụi hay thuốc sâu gì gì đi nữa. Nhớ cái mùi nó quá rồi, quệt vài phát lên vạt áo rồi bỏ tõm vào mồm. Nưng nức đạp về và nghĩ đến cây hồng bì bên cánh cổng nhà số 6, phố N.

Nhà mình số 10 ở chỗ ngã ba. Tận cùng trong ngõ bên phải là biệt thự số 6, cùng một dạng có từ thời Tây.

Ngôi biệt thự này rất lạ, nhiều thành phần ở rất khác nhau. Công chức, công an, lái xe và chả hiểu sao lại có cả một cái lò rèn trong đó, ở một góc sân rộng phía trước.

Cái lò rèn ấy đốt bằng than quả bàng, chuyên sản xuất dao, kéo, lưỡi liềm, lưỡi cày, cuốc xẻng giữa lòng thủ đô!

Các thợ rèn tay ngực vạm vỡ, đông hay hè thì cũng cởi trần lộ cơ bắp cuồn cuộn. Họ cho những thanh sắt vào lò rồi một lúc lôi ra những thanh đỏ rực, quai chan chát thành các loại lưỡi khác nhau. Hè thì khỏi nói, nhưng mồ hôi đầm đìa ngay giữa mùa đông.

Nhìn thật nể và kinh hãi.

Trong số các hộ dân sống trong ngôi nhà ấy có một gia đình rất đặc biệt, gia đình ông bà T.

Ông đi làm Nhà nước, người dáng nhỏ gọn, đẹp trang nhã. Lúc nào đầu cũng bóng, chải mượt như có bi zăng tin. Sơ mi dài tay, quần là kỹ cứng một hàng li chạy dọc ống quần. Đâu như ông làm ở một công ty vận tải, hằng ngày thấy đạp xe treo lủng lẳng trên ghi đông cái cặp da kiểu một quai ở góc. Kiểu cặp cho cán bộ cấp vụ. Thậm chí thứ trưởng ngồi Mát-cô-vích* cũng thường cặp ấy, móc tay qua quai nhưng vẫn phải nắm lấy góc cặp khi lên xuống ô tô.

Ông T cũng cặp hàng vụ trưởng, thứ trưởng, nhưng treo xe đạp, cứ lủng lẳng ngày bốn lượt đi về. (Hồi xưa Hà Nội làm việc theo giờ Pháp để lại, trưa 11 giờ còi hụ là về nhà ăn ngủ nghỉ, đến 2 giờ đi làm lại cho đến 5 giờ chiều, thành ra ngày đi về bốn lượt).

Ông bà T có năm người con, ba giai, hai gái. Gái lớn đầu lòng, ba giai kẹp giữa, rồi chốt lại là cô út. Giai đều đẹp, gái đều xinh.

Nhưng thật khổ.

Gái lớn bị động kinh, bình thường thì cũng khỏe mạnh, làm nghề đan len giống mẹ. Hối ấy Hà Nội có nghề đan len gia công cho các hợp tác xã cung ứng hàng cho nhà nước xuất khẩu. Có khi cô vừa đi vừa đan, những ngón tay thoăn thoắt như ngón tay nghệ sỹ theo một phím đàn. Nhưng đùng một cái bỗng lăn đùng ra sùi bọt mép ngoài đường. Mọi người lại hốt hoảng gọi bà T ra bế về, đang tuổi đôi mươi mơn mởn, thương thế.

Kế đến ba ông giai. Ông lớn nhất bảnh chọe, cao dong dỏng, dáng hào hoa giống bố, khỏe mạnh, có công ăn việc làm ngon lành, tên L. Mười mấy năm sau ngày đất nước thống nhất một lần gặp anh giữa Sài Gòn, thấy đưa “cạc vi sít” đề địa chỉ là một ngôi biệt thự trong một con phố yên tĩnh ở quận 3.

Ông kế dáng cũng ngon vậy, tên Hùng nhưng cả phố gọi “thằng Câm”. Thì vì câm mà chết tên như thế. Câm chả biết có được học hành gì không, chỉ biết là phải đi tù (mà hồi đấy gọi chệch đi là “đi cải tạo”) về tội móc túi từ nhỏ. Câm có biệt tài chơi bi rất mả. Đã bắn thì dù xa cũng bách phát bách trúng.

Giai thứ ba tên H, có tên là “H con”. H con người nhỏ gọn, mặt cũng xinh, nhanh nhẹt, nhảy tàu điện như hiệp sĩ lên xuống ngựa. H con chơi bi, xèng cũng mả chả kém gì anh. Có điều trường hoạt động của H con quanh khu vực rạp Tháng Tám. H con lẻn vào rạp xem phim rất nhanh. Có lần mình theo H con cũng xem phim lẻn, trốn vé, vì phim hay vé rất khó mua, hoặc những phim “cấm trẻ em dưới 16 tuổi”.

Nhưng rồi H con cũng lại đi tù. Hoạt động loanh quanh các rạp xi nê thuộc “bang Bờ Hồ” (thời đó chưa gọi “quân khu”), hay trong Bách hóa Tổng hợp thì chả nói ai cũng biết tội gì. Từ chuyên môn gọi là “lính mổ”.

Hồi đấy cả bọn đi xem về hay tụ tập luận bàn về phim, nhất là kiểu phim phản gián Đông Đức như “Tối mật” hay phim tình báo “Chiến hạm nổ tung ở cảng”. H con vừa nhắc lại cảnh trong phim vừa khoa chân múa tay như đánh võ.

Có lần nó còn kể cho cả bọn nghe vụ bọn nó chơi “phò” thế nào, cái mặt đầy trứng cá có cảm giác vẫn rung lên rần rật. Rồi kể chuyện bị “997” (là số xe của cảnh sát hình sự) đuổi bắt.

Thương nhất là gái út tên Lan. Tên đẹp, người đẹp thế, lúc bấy giờ vào cuối những năm sáu mươi, ước chừng mươi tuổi. Lan được mẹ chăm chút kỹ, thương chiều, hay mặc váy đầm, áo sơ mi tay bồng bềnh có chun ôm chặt cánh tay trắng trẻo. Mặt như thiếu nhi Liên Xô. Nhưng Lan nào được gọi tên, mà cũng bị cả phố gọi “con Câm”. Lan cũng bị câm từ bé.

Cây hồng bì sát hàng rào nhà Lan mỗi hè đều trĩu quả. Mùi hồng bì ngát mấy quang gánh của các bà bán rong là chuyện của các bà mẹ. Với trẻ con ở phố N thì những quả hồng bì trên cành cây ngôi nhà số 6 mới là cớ tụ tập, leo trèo. Hồi đó trong mỗi số nhà trong phố đều có một cây của mùa. Số 4 là cây roi (trong Nam gọi mận) quả to và ngọt sau mỗi trận mưa đêm, sáng ra sân ngập đầy roi rụng, trẻ con xông vào tranh cướp. Lại còn có cả một cây nhãn trĩu quả ngay hàng rào chìa ra ngoài đường suốt ngày bị ném gạch. Số 6 hồng bì. Số 8, số 10 là ổi, một loại ổi đặc biệt ngọt giòn, gọi ổi găng. Số 13 cây táo, là một nhà sân không có hàng rào, dưới cây táo là máy nước công cộng. Cành táo là là tầm với của bọn học sinh cấp hai Ngô Sĩ Liên nên chả cần gạch đá gì, đâm ra được yên.

Mấy chục năm, phố đổi đời phố, người theo phận người. Nhiều nhà chuyển đi, dân từ nơi khác đến. Nhiều chuyện lắm!

Nhưng từ mùi hồng bì mà nghĩ đến Lan. “Con Câm” ngày xưa vẫn đấy. Nhà bán rồi nhưng “con Câm” vẫn chưa thể xa N.

Bốn chục năm từ lúc vào Nam với hàng trăm lượt đi về phố N, lần nào lúc xe từ từ rẽ vào con phố nhỏ cũng nhìn thấy “con Câm” dưới mái dù với cái tủ thuốc lá nhỏ. Rồi những lúc đi bộ, xe máy hay xe đạp lướt qua một cách bàng quan. Cùng lắm cũng chỉ một cái liếc nhìn vội rồi lướt nhanh qua.

Trưa nay nhấp cái vị hồng bì, nghĩ ngợi thế nào mà ngồi không yên được. Bèn xỏ dép lê ra đầu phố, giữa cái góc hõm vào của tòa nhà hãng dầu Shell thời Pháp giờ là trụ sở bộ K, chỗ cái tủ thuốc lá dưới mái dù. Mỉm cười gật đầu chào “con Câm”, ra dấu làm hiệu, chỉ vào đầu “nó” rồi chỉ vào mình và chỉ về phía những ngôi nhà trong phố N. Ra ý hỏi “cô có nhớ tôi không?”. “Con Câm” giờ đã thành một người đàn bà ở tuổi cuối ngũ tuần, khuôn mặt hơi gầy nhưng không quá khắc khổ. Lan mỉm cười gật đầu chào lại thật rạng rỡ như bày tỏ một nỗi vui mừng khôn xiết. Đầu gật gật tỏ ý “tôi nhớ chứ” và chỉ về phía nhà số 10. Kéo cái ghế nhựa mời ngồi xuống bên cạnh. Hỏi mua thuốc lá thì chỉ có lèo tèo vài loại, mỗi loại một bao. Lấy một gói Thăng Long bao thường giá 10 nghìn. Nhưng trong ngăn tủ đầy ắp những “phơi đề”. Liên tục những khách đến ghi, trả tiền.

Cố gắng bằng thứ ngôn ngữ chưa bao giờ được học, thể hiện bằng ra hiệu, chỉ trỏ qua lại, lên giời xuống đất để hỏi chuyện Lan. “Con Câm” ra dấu và mình hiểu đã có hai con, một trai một gái. Khuôn mặt trĩu nặng đưa bàn tay lên thái dương, đôi mắt nhắm lại để nói là con trai đã chết. Rồi giải thích thêm bằng cách đưa hai cổ tay chéo nhau, bàn tay nắm lại với khuôn mặt đậm buồn: “chết trong tù”!

Trời ơi, sao cái dớp tù tội trong gia đình ấy nó vẫn không chịu buông tha đến đời con cháu thế!

Hỏi về con gái, chồng con thế nào? Khuôn mặt được giãn ra, bàn tay đưa cách mặt đất một khoảng vài tấc với bốn ngón tay giơ lên.

À, “có cháu ngoại bốn tuổi đấy”!

Một người đàn ông ghé đến, mình “anh ơi” đến mấy lần định hỏi cái bật lửa, chả thấy nói gì. Hóa ra cũng là ông câm. Ra hiệu hỏi có phải chồng không, thì “bàn tay” đáp lại là không phải. Cố vận dụng hỏi “có sợ công an không?” bằng cách chỉ tay vào cái bót cảnh sát canh cửa nhà riêng một nhà ngoại giao nước ngoài, thì lại thấy có một ông xe ôm đứng đấy. Thế là “con Câm” cười và ra dấu đấy là lão xe ôm, bằng cách đưa hai tay như nắm một cán tay ga đang tăng tốc. Trình ngôn ngữ câm điếc của mình tuy chưa được đào tạo bao giờ mà cũng đủ để “nghe, nói, hiểu” về một phần nho nhỏ của một phận người.

Nhà “con Câm” đã bán, hỏi giờ ở đâu thì chỉ về phía cuối đường Trần Hưng Đạo, phía đê sông Hồng.

Ôi hồng bì, cái mùi ngai ngái hấp dẫn thế lại đưa về một câu chuyện đầy hồi ức mà đậm buồn.

Nhưng thôi cũng mừng, “con Câm”, cô bé Lan xinh đẹp xửa xưa, bà Lan câm bán thuốc lá góc phố N bây giờ vẫn còn nở được những nụ cười tươi lắm. Ghi số đề chắc kiếm đủ sống, chắc cũng chả sao, chắc không ai nỡ “thực thi pháp luật” với người đàn bà khốn khổ này, cũng chỉ cò con thôi mà.

Cái mảnh trời nhỏ qua lỗ thủng mái dù chiếu thẳng một tia nắng xuống đất. “Con Câm” ngồi đây từ hàng chục năm rồi, và sẽ còn ngồi bao năm nữa. Tối mùa đông hay trưa hè đổ lửa nóng bốn mươi độ. Hỏi những ngày nắng vừa qua thế nào, “con Câm” U60 rùng mình nhăn nhó tả sự khủng khiếp!

Lần đầu tiên trong đời mình chơi đề. Chả có ý niệm gì, đánh đại con 59 là số tuổi và con 64 là số may mắn lúc lên mười, lần đầu tiên trong đời mình trúng số giải bét trị giá hai đồng (lúc bấy giờ tương đương bốn bát phở mậu dịch).

Lại nóng rồi, ngoài trời ba bảy độ C. Nhưng chưa nghe ai nói ăn hồng bì bị nóng như nhãn, vải.

Chỉ thấy rằng cắn quả hồng bì thơm ngon nhưng buồn quá!

Chú thích:

* Mát-cô-vích: tên phiên âm một nhãn xe ô tô con, do Liên Xô sản xuất. HẾT