← Quay lại trang sách

Chương 2

Trung đoàn hỗn hợp thuộc Quân đoàn 50 của Tưởng Giới Thạch chỉ vì đi diễn tập xa có mấy ngày, khi trở về thì toàn bộ lực lượng Quốc Dân đảng ở thị trấn An Lạc bị tiêu diệt.

Lũ giặc trọc bèn cố vớt vát bằng cách rải lực lượng ra bao quanh thị trấn, lấy cớ bảo vệ sự an toàn cho An Lạc tìm mọi cách giải cứu những phần tử Quốc Dân đảng đang mắc nạn.

Chính vì vậy tiểu đội của Nguyên Bình được lệnh phải gấp rút đưa bốn mươi ba tên phản cách mạng vượt sông sang Lãng Tiên ngay trong đêm, trước khi trời sáng.

Tất cả đang ngủ lập tức bị đánh thức dậy. Anh Mộc đôn đáo khắp nơi, chỉ kiếm được một chiếc thuyền gỗ nhỏ, mỗi chuyến may ra chở được mươi người. Anh Mộc quyết định nhanh: Qua sông thành năm chuyến, mỗi chuyến chở mười tên phản cách mạng và hai thị vệ viên đi theo áp giải, cố gắng tập kết toàn bộ ở phía bên kia sông trước khi quân Tàu cho lính tới kiểm soát bến đò.

Mấy chục tên phản cách mạng ngồi lẫn trong đám cói um tùm sát mép sông. Tất cả đều bị trói chặt. Tuấn Thành ngồi cách xa bố khoảng dăm mét, trời tối nên không nhìn rõ khuôn mặt của Phán Quý lúc này thế nào. Gió sông ào ạt thổi tới khiến Tuấn Thành tỉnh táo hơn dù hai cánh tay vẫn đau nhức. Tuấn Thành đã bớt sợ nhưng cái đói và sự khó chịu luôn dày vò cậu. Họ sẽ đưa đoàn người đi đâu đây? Chẳng lẽ cả nhà sẽ chết sau đận này ư? Họ đã lục xét, thu giữ toàn bộ giấy tờ, tài liệu ở hiệu Lúa Vàng. Nhưng còn một thứ họ không sờ đến. Đó là chiếc va ly học sinh của Tuấn Thành. Nếu họ mở chiếc va-ly này ra thì chắc chắn họ sẽ ngạc nhiên bởi trong đó có khá nhiều tài liệu Mác-xít. Tuấn Thành đã đọc chúng một cách giấu diếm và thường đem những gì đọc được ra tranh luận với bố. Phán Quý bây giờ đang ngồi kia. Ông đang nghĩ gì? Mười lăm năm về trước chính ông cũng đã suýt chết sau cuộc khởi nghĩa bất thành. Cả đời ông đi làm cách mạng, con cái ông cũng được hướng cho đi làm cách mạng. Nhưng sao lắm cách mạng thế? Cách mạng nào là đúng? Cách mạng nào là sai? Cách mạng nào là cách mạng chân chính? Cách mạng nào là không cách mạng? Ông Phán Quý ơi, ông đang bị dẫn lên đoạn đầu đài đấy. Người ta sẽ bắn chết ông như bắn chết một con chó vì ông là một trong những tên đầu sỏ của cái tổ chức đã lỗi thời, bị coi là phản cách mạng. Hiệu Lúa Vàng nhà ông từ nay vĩnh viễn không bao giờ còn xuất hiện như một thương hiệu uy tín nhất vùng An Lạc này nữa. Tuấn Thành bỗng ứa nước mắt. Trong những câu chuyện kể hàng đêm, có bao giờ Tuấn Thành hình dung ra một ngày nào đó bố mình lại phải khoác lên đầu một cái ách khủng khiếp đến thế. Ông là người của cách mạng từ rất sớm kia mà?

Phải, Phán Quý là người của cách mạng từ rất sớm. Vào quãng những năm hai bảy, hai tám, các ông Khanh, ông Được, ông Dự về An Lạc xây dựng một tổ chức cách mạng bí mật. Tổ chức này đấu tranh cho dân tộc độc lập, dân quyền tự do và dân sinh hạnh phúc. Các ông này được phân công như sau: ông Khanh vận động các nho sĩ, lý dịch, hào phú ở nông thôn. Ông Được vận động trong giáo giới. Ông Dự vận động trong công chức, binh lính. Người được ông Dự vận động đầu tiên trong công chức là Phán Quý.

Vài năm sau An Lạc ra đời một loạt chi bộ Quốc Dân đảng như chi bộ giáo giới, chi bộ công chức, chi bộ lính khố đỏ, chi bộ Văn đẩu, chi bộ Kha Lâm, chi bộ Đồng Tải, rồi Lạng Côn, Đức Phong, Kim Đới, Thái Ngơi, Đông Thông... Các chi bộ lãnh đạo phong trào lên rất mạnh. Nhiều chi bộ còn lập căn cứ địa, mở xưởng sản xuất vũ khí. Ở xưởng của ông Phồn thuộc chi bộ Đồng Tải còn sản xuất được cả bom. Vỏ bom đúc bằng gang và đất nung, trong ruột có chất nổ lẫn với mảnh chai, mảnh bóng đèn, dây thép cắt vụn. Bom sản xuất ra được cất trong hang núi Cột Cờ. Tết Nguyên Tiêu năm ba mươi, đảng bộ Quốc Dân đảng An Lạc quyết định khởi nghĩa đánh cướp tỉnh lỵ.

Rằm tháng Giêng năm ấy các lực lượng tham gia khởi nghĩa đều đã tập kết đúng vị trí, khí thế đằng đằng, chỉ cần nhìn thấy pháo hiệu và lửa đốt ở đầu núi Cột Cờ là nhất loạt xông vào chiếm Tòa sứ và Dinh tuần phủ. Ông đội Cay được phân công vận động lính khố đỏ tạo phản. Lực lượng Kha Lâm do ông tổng Hộ chỉ huy, tập kết tại khu chùa Đồng. Lực lượng Văn Đẩu do ông Lý Chủ chỉ huy tập kết tại quán Tổng Thiềng. Lực lượng Đồng Tải do ông Phồn chỉ huy, mang theo bom, tạc đạn tập kết ở chân núi Cột Cờ, khi thấy pháo hiệu từ trại lính khố đỏ bắn lên thì đốt lửa trên đỉnh núi làm hiệu lệnh cho các nghĩa sĩ xuất trận.

Trăng sáng vằng vặc. Ông Phồn cùng với một số thân binh đem vàng hương lên đình Đẩu Sơn làm lễ thành hoàng. Đã qua hai mốt giờ mà vẫn không thấy pháo hiệu từ trại lính khố đỏ bắn lên. Các nhóm nghĩa sỹ đều căng mắt nhìn lên đỉnh ngọn Cột Cờ nhưng không thấy ánh lửa. Đến gần nửa đêm thì các nhóm lục tục cử người đến núi Cột Cờ để hỏi ông Phồn xem vì sao tình hình lại không diễn biến theo hiệp đồng. Ông Phồn cũng chẳng biết sự biến ở Tòa sứ, Dinh Tuần phủ và trại lính khố đỏ ra sao mà im ắng đến sốt cả ruột? Đúng lúc ấy có một chiếc xe ngựa hối hả lăn bánh theo con đường dẫn lên đỉnh núi. Khi nhìn thấy người đàn ông ngồi trên xe bước xuống, ông Phồn cùng mấy chục thân binh, nghĩa sĩ liền đổ xô lại.

- Phán Quý! Tình hình thế nào? Sao lại yên ắng thế? - Ông Phồn lên tiếng hỏi.

Người đàn ông từ trên xe ngựa bước xuống chính là Phán Quý, bí thư chi bộ Quốc Dân đảng trong hàng ngũ công chức. Phán Quý nói nhanh:

- Một đảng viên trong chi bộ tôi làm phản, đã hé lộ cơ sự với chánh sứ Béc-sông. Chánh sứ ra lệnh cho giám binh bố trí lực lượng phòng bị khắp nơi, lại báo cho quan ba trưởng trại lính khố đỏ cấm trại từ chập tối, thu hết vũ khí cho vào kho. Kế hoạch bại lộ rồi. Tôi phải tìm mọi cách mới lọt vào phòng giam tên phản bội trong Tòa sứ để giết người diệt khẩu. Tôi chưa biết hắn đã khai những gì, nhưng khả năng là chi bộ công chức lần này sẽ tổn thất nặng. Các ông hãy rút ngay may ra còn bảo toàn được lực lượng.

Phán Quý nói xong có ý quay ra xe ngay để xuống núi, nhưng ông Phồn níu lại, hỏi:

- Liệu có xông lên đánh liều được không?

Phán Quý bảo:

- Không thể! Có đánh tới rằm tháng Giêng năm sau cũng không chiếm nổi Tòa sứ và Dinh Tuần phủ. Giám binh đã bố trí quân Pháp ở tất cả những nơi đó rồi. Bọn mật thám cũng đang ra tay. Thôi, ông hãy báo cho anh em lui quân ngay. Chậm giờ nào là nguy thêm giờ đấy.

“Không được! Ông Phán Quý đứng lại đã”.

Từ phía sau ông Phồn bỗng có một người bước ra gọi giật ông Phán Quý lại. Đó là một người đàn bà đã cứng tuổi, quần đóng bịt, một tay cầm liềm, một tay xách bị tro bếp, đầu có quấn một chiếc khăn màu nâu đỏ. Phán Quý nhận ngay ra bà Quản Điền. Người đàn bà này đã từng bán năm mươi mẫu ruộng góp tiền cho tổ chức gửi người sang bên Tàu mua thuốc nổ. Cũng chính bà là người gánh hàng trăm quả tạc đạn từ xưởng sản xuất về giấu ở hang đá trong núi. Bà Quản Điền bước đến bên Phán Quý nhưng quay lưng lại như để nói cho tất cả mọi người cùng nghe:

- Thưa các quan! Nếu đêm nay các quan không lấy tỉnh thì em xin tự tử trước mặt các quan, em chết ngay bây giờ đây cho các quan xem.

Hành động của bà Quản Điền có vẻ như làm máu trong một số đảng viên sôi lên. Không thể để cho những bầu nhiệt huyết này bốc lên trong tình thế như hiện nay. Phán Quý liền gạt bà Quản Điền sang một bên, bảo:

- Lấy tư cách là ủy viên đảng bộ tỉnh, tôi yêu cầu các ông, bà đảng viên rút lui ngay. Làm cách mạng không thể liều. Còn người sẽ còn cách mạng. Sẽ có ngày chúng ta lấy tỉnh sau.

Không ngờ, nghe Phán Quý nói xong, bà Quản Điền bảo:

- Vậy thì em xin chết trước mặt các quan!

Dứt lời, bà Quản Điền đưa liềm lên giật phăng yết hầu. Việc làm của bà Quản Điền làm mọi người kinh hãi. Ông Phồn vội lao đến đỡ bà Quản nhưng máu ở cổ bà đã xối ra, sủi bọt theo nhịp thở ngắt quãng, đứt đoạn. Nhóm người bên sườn núi bỗng náo loạn cả lên. Phán Quý còn đang chết trân trước việc không ngờ này thì ông Phồn lại tỏ ra bình tĩnh hơn. Ông Phồn bảo:

- Không cứu được nữa rồi. Tất cả rút ngay xuống chân núi, tôi sẽ ở lại táng tạm bà Quản xuống dưới vách đá kia. Mọi người đi mau!

Phán Quý không dám chần chừ thêm, vội lên xe ngựa cho phu đánh thẳng xuống chân núi. Mấy ngày sau đó Pháp đưa lính về triệt hạ Văn Đẩu, Kha Lâm, Đồng Tải. Ông Phồn bị bắt đưa đi Côn Đảo. Lý Chủ trốn nhưng không thoát, bị bắt đưa đi căng Hải Phòng, sau bệnh chết ở nhà thương Tam Quán.

Một số ông Đội, ông Thừa, ông Kí bị đuổi về quê hoặc đổi đi nơi khác. Tên phản bội chưa kịp khai ra Phán Quý nhưng ông cũng bị thải loại khỏi tòa công sứ. Những tưởng đã chết bởi đận ấy nhưng Phán Quý thoát được, chuyển sang kinh doanh thóc lúa, lập hiệu Lúa Vàng nức tiếng mấy tỉnh Bắc Kỳ, sau còn buôn bán thêm cả tơ lụa nữa.

Thế rồi cơ hội lại đến khi Quân đoàn 50 của Trung Hoa dân quốc kéo vào. Các đồng chí cũ lại tìm đến với Phán Quý bàn việc phục quốc. Trong số những người tìm đến với Phán Quý có một người từ Côn Đảo thoát chết trở về. Phán Quý mang rượu ra đãi bạn nhưng cuộc rượu phải bỏ nửa chừng vì ông Phồn bảo với Phán Quý rằng:

- Tôi bây giờ là người của Đảng Cộng sản. Chúng ta làm cách mạng theo kiểu cũ là không được. Tôi muốn mời ông tham gia Việt Minh, vào đoàn thể, ông có giúp được không?

Phán Quý đáp ngay:

- Cách mạng mà giao vào tay lũ dân đen thì có khác gì nấu canh cái dân tộc này. Ông lại muốn trở về với những cuộc khởi nghĩa nông dân ngu xuẩn trong lịch sử à? Thôi, ông đi đường ông, tôi đi đường tôi, xem ai phục quốc nhanh hơn.

Ông Phồn cố níu kéo:

- Thực tế là họ đã làm cách mạng thành công, chẳng lẽ ông còn nghi ngờ điều ấy?

Phán Quý bảo:

- Chẳng qua họ gặp may thôi. Tôi không bao giờ ủng hộ việc trị nước lại đặt vào tay những kẻ vô học. Đời thủa nhà ai con sen thằng ở nhà tôi mà lại dám lên mặt dạy tôi thế nào là cách mạng, là giai cấp? Chúng nó chỉ biết cách mạng gói gọn có hai chữ: Ăn no! Ông đi theo chúng nó để rồi mất tất mà được gì? Được làm một người nghèo à? Còn chúng nó, chúng nó chỉ mất cái bụng đói còn được tất cả. Sao lại có cái thứ cách mạng bố láo như thế? Bây giờ là cơ hội giật lại ngọn cờ về tay mình, sao ông lại bảo tôi bỏ đường lớn để đi vào ngõ cụt? Bữa rượu hôm nay nhạt quá. Rượu quý không gặp bạn hiền đâm ra hỏng mất rồi.

Ông Phồn không nói thêm được câu nào nữa. Thế là cuộc rượu bỏ.

Bây giờ thì Phán Quý bị vứt lăn lóc giữa rừng cói như thế này đây. Ông có chết cũng không mấy nặng lòng nhưng cả nhà ông cùng chết trong đận này, kể ra oan nghiệt quá chăng? Ông ngồi nhìn lên đỉnh Cột Cờ như mười lăm năm trước nín thở chờ đợi ánh lửa bùng phát lên từ đấy. Không có ánh lửa nào thắp sáng niềm tin cho ông ở bờ bên kia cả. Nước sông Sầu Diện vẫn óc ách chảy xuôi, vô tình, vô nghĩa quá thể. Thằng Tuấn Thành nó đang ngồi nhìn ông từ góc khuất kia. Ông biết chứ. Nhưng ông không dám nhìn lại nó. Sắp tới, nó phải chết oan vì ông. Nó đã biết cách mạng là gì đâu. Trong những lần giảng cho nó nghe bài học đầu tiên về cách mạng, nó thường hỏi ông:

- Người giàu và người nghèo làm cách mạng ai quyết chết hơn ai?

Ông bảo:

- Người nghèo.

Nó bảo:

- Thế thì cách mạng của người giàu sẽ rất nửa vời, khó thành công!

Ông thường tránh tranh luận với nó vì coi nó còn nhỏ. Vậy mà nó vẫn bị người ta trừng phạt như ông. Người ta có coi nó là còn nhỏ đâu. Nó là một tên phản cách mạng từ trong trứng nước kia mà. Anh nó đã chết rồi. Chết một cách đớn hèn. Mới nghe có vài tiếng súng nổ đã đứt mạch máu ra mà chết. Chết khổ chết sở. Sợ sệt như thế làm sao nối được chí ông?

Ngồi ở góc khuất, lún mình trong bụi cói Tuấn Thành vẫn đang cố suy đoán xem bố nghĩ gì vào lúc này. Thuyền đã sang được một chuyến rồi. Chuyến thứ hai đang lạch cạch rời bãi. Vẫn chưa đến lượt cha con Tuấn Thành. Có một người trong đội áp giải dẫn Tuấn Thành đi nhưng không phải để lên thuyền mà ẩy cậu ngồi lút vào một bụi cói cách đám người bị trói khá xa. “Mày nhận ra tao chưa?”. Một giọng nói thoảng nhẹ, bạt đi trước gió sông. Ngay sau đó cái người áp giải ngồi xổm xuống cạnh Tuấn Thành và lật chiếc mũ vải trên đầu ra. “Sao mày lại dẫn tao ra đây?”. Tuấn Thành hỏi lại khi đã nhận ra người đang ngồi cạnh mình. Nguyên Bình móc trong túi quần soóc ra một gói nhỏ. “Đây là xôi gấc, tao lấy trong bữa trưa hôm qua, mày phải cố gắng nuốt cho hết để lấy sức”. Nguyên Bình vừa nói, vừa ấn từng miếng xôi đã khô cứng vào miệng Tuấn Thành. Tuấn Thành ăn một cách khổ sở nhưng dù sao thì cũng phải nuốt. Nguyên Bình rút con dao găm bên mình, cứa nhè nhẹ lên sợi dây trói trên tay Tuấn Thành. Chuyến thứ ba bắt đầu vượt sông. Đến lượt Nguyên Bình lên thuyền. Nguyên Bình dắt Tuấn Thành lên ngồi ở phía đầu mũi. Nước sông rút cạn nên thuyền nhanh chóng ra đến giữa dòng. Nguyên Bình cầm súng đứng ở đầu thuyền, lưng quay lại đám người bị trói đang ngồi chen chúc giữa lòng thuyền. Người chèo ngồi ở phía cuối, hai tay liên tục khoát mái. Đội viên áp giải thứ hai đứng sau người cầm mái chèo, mũi súng hếch lên trời. Nước sông vỗ lóc bóc bên mạn thuyền. Gió tạt những hạt nước nhỏ vào mặt Tuấn Thành. Hai bên bờ im ắng đến khó chịu. Cố căng mắt ra mới nhìn thấy vài đốm lửa nhỏ như đom đóm chỗ bụi cói ở bến bên kia. Tuấn Thành liên tục thở gấp. Nguyên Bình đứng ở mũi thuyền, thỉnh thoảng lại lấy gót chân gẩy gẩy vào vai Tuấn Thành. Một người thì sốt ruột đến cuống cả lên, còn một người thì hồi hộp, căng thẳng đến toát cả mồ hôi. Cảm giác phấp phỏng lo sợ cứ len lén, len lén luồn vào lồng ngực Tuấn Thành. Cuối cùng thì Tuấn Thành cũng lấy được can đảm. Cậu khẽ cựa mình, gồng tay lên. Sợi dây trói đứt tung. Một cảm giác tê dại xâm chiếm suốt cổ tay của Tuấn Thành. Nín thở ngồi yên một lát cho máu lưu thông xuống các ngón, rồi như một chiếc lò xo bị nén lâu ngày vụt bật lên, Tuấn Thành lao cả người vào Nguyên Bình. Con thuyền chòng chành, xoay ngang ra giữa dòng. Người chèo thuyền và đội viên áp giải ở cuối mũi bị bất ngờ, lúng ta lúng túng, tức thời chẳng biết xử trí thế nào. Những người còn lại trên thuyền ồn lên như bầy mối vỡ tổ, một số nháo nhào đứng phắt dậy.

- Tất cả ngồi xuống, ngồi xuống. Nếu không tôi bắn! - Tiếng người áp giải gào lên giữa lòng sông hoang vắng.

Nguyên Bình bỗng nói vọng từ dưới sông lên:

- Cứ cho thuyền cập bờ đi, đừng bắn xuống sông, để tôi lặn theo tên bỏ trốn.

Bóng hai người ở dưới sông dềnh lên, ngụp xuống một lúc rồi xa hẳn, mặt nước lại trở về lặng ngắt. Con thuyền lấy lại được thăng bằng, tiếp tục lao mũi về phía Lãng Tiên. Người áp giải còn lại định rê mũi súng xuống mặt sông, tìm cách nhả đạn vào tên tù sổng nhưng sợ đám tù gây xáo động nên không dám gạt mũi súng ra khỏi lòng thuyền. Sáng hôm sau, bốn mươi hai tên phản cách mạng được giao cho người của Bộ tư lệnh khu. Một tên đã trốn thoát, Nguyên Bình không đuổi bắt lại được. Trước khi trở về An Lạc, Nguyên Bình xuống lán giam tạm, nhìn mặt bọn phản cách mạng lần cuối. Phán Quý ngồi dựa đầu vào cột lán, mắt lim dim, nét mặt phờ phạc. Khi Nguyên Bình đi đến gần, vẫn ngồi yên trong tư thế đó, ông ta bỗng hỏi như cho chính ông ta nghe vậy:

- Nó trốn thoát rồi chứ?

Nguyên Bình sững người:

- Ông nói ai?

Phán Quý bỗng mở trừng mắt ra:

- Cậu nói đi, thằng con tôi thoát rồi phải không? Nó không đáng chết mà, có phải nó thoát rồi không?

Ánh mắt của Phán Quý khi ấy phát ra những tia khẩn nài đau đớn. Nguyên Bình không dám nhìn lâu vào đôi mắt ấy. Cậu khẽ gật gật.

- Tôi biết những việc cậu làm. Tôi ghi ơn cậu.

Phán Quý nói rất nhanh câu đó rồi thật bất ngờ, với một hành động quyết đoán, ông ta văng người quật đầu vào cây cột được đắp bằng gạch. Một số người ngồi gần đó kêu rú lên. Nguyên Bình hoảng hồn, chân tay bủn rủn hết cả ra. Có mấy thị vệ nữa chạy đến. Họ nâng đầu của Phán Quý lên. Cú đập quyết tử đã làm một mảnh đầu của Phán Quý bẹp rúm lại. Máu từ đó rỉ ra thành hai dòng, chảy xuống cổ và cằm. Mắt ông ta trợn ngược lên, đảo lòng rồi thất thần, bạc phếch đi. Một thứ dịch trăng trắng, nhờn nhợt từ đó tràn ra. Mảng đầu bẹp dúm, lõm xuống, biến dạng bây giờ bắt đầu phồng lên, há miệng...

Tám năm sau Nguyên Bình mới lại có dịp trở lại bến đò Lãng Tiên.

Đó là một đêm tối trời, Nguyên Bình náu mình bên vạt cói già, chờ đến giờ nổ súng, mở màn cho cuộc tập kích vào thị trấn An Lạc.

Trung đội của Nguyên Bình có nhiệm vụ tiêu diệt đội Com-măng-đô ở đền Bà Sùng thuộc thôn Khúc Trì, cách nhà thờ An Lạc một dải đầm rộng.

1 giờ 55 phút trận đánh bắt đầu. Tiếng bộc phá nổ ở phía kho xăng cùng với vệt sáng hắt lên nền trời là tín hiệu cho các mũi tấn công đồng loạt khai hỏa.

Trung đội trưởng Nguyên Bình khi tiến quân vào đền Bà Sùng đã không ngờ tới khả năng đội Ngự lâm quân Công giáo có thể vượt dải đầm rộng chỉ trong vài phút bằng ca nô do người Pháp trang bị. Khu đầm này thông ra với sông Sầu Diện. Khi nhà thờ lập đội dân binh, cha Phăng thường thích mặc áo sáu túi, giắt súng ngắn trước bụng, đi lại truyền đạo cho giáo hữu ở khu xóm Đáy bằng ca nô theo đường sông. Lực lượng trinh sát của bộ đội An Lạc đã không tính đến chiếc ca nô vẫn nằm như một con sư tử ngủ trên mặt đầm sau nhà thờ. Khi những tia lửa nhoằng lên ở phía đền Bà Sùng, cha Phăng lập tức cho đội Ngự lâm quân Công giáo lên tàu vượt mặt đầm sang bờ bên kia cứu nguy cho lực lượng biệt kích đang bị vây hãm. Trung đội của Nguyên Bình bị đánh tạt sườn, đành chững lại, không phát triển, thọc sâu được nữa, phải mất gần một tiếng sau mới tạm đẩy lui được lực lượng dân binh của cha Phăng. Mục tiêu đền Bà Sùng đành phải bỏ ngỏ, đến khi tổ chức tấn công tiếp thì trời đã gần sáng. Các cánh quân khác đều đã tiêu diệt xong mục tiêu, đang lặng lẽ rút ra ngoài theo hiệp đồng, chỉ mũi của Nguyên Bình “sa lầy” ở thôn Khúc Trì với một bên là đạn của bọn Com-măng-đô, một bên là đạn của đội dân binh nhà thờ. Quân Pháp bừng tỉnh sau một đêm kinh hoàng, đang bắt đầu đưa lực lượng từ Hải Phòng sang giữ lấy An Lạc. Nguyên Bình lệnh cho toàn trung đội rút lui, anh cùng một tổ ở lại vừa chặn địch vừa rút sau. Rút ra tới giữa thị trấn thì Nguyên Bình trúng đạn. Một viên đạn đã phá vỡ bắp chân phải, xé toạc phần cơ rắn chắc gần điểm gập của đầu gối. Trời đã sáng hẳn. Thiết giáp của Pháp đang nghễu nghện bò đi bò lại trên con đường dẫn ra bến đò Lãng Tiên. Phía kho xăng và kho vũ khí vẫn tiếp tục dội lên những quầng lửa đỏ cùng những tiếng nổ lúc rời rạc, lúc liên hồi. Hàng chục sắc lính, cả Pháp lẫn Việt đổ xô đến những địa điểm vừa bị tấn công, cố vớt vát những gì còn sót lại. Tòa Sứ cũ, tổng kho đạn, trại pháo thủ, bộ chỉ huy Bảo chính đoàn, Ty công an, bốt điện, bốt Cô Hồn, tất cả hầu như đã bị san phẳng hoặc xé rách nham nhở. Tiếng súng của lực lượng bảo vệ đường rút cho bộ đội An Lạc nhỏ dần rồi tắt hẳn ở phía bờ sông Sầu Diện. Cuộc tập kích đã thành công, đúng như trong kế hoạch. Chỉ có mũi tấn công của Nguyên Bình là không hoàn thành nhiệm vụ. Mọi người đã không nghĩ ra một mục tiêu vô cùng quan trọng nữa là nhà thờ An Lạc, nơi có tới 120 dân binh được tổ chức lại dưới cái tên Đội Ngự lâm quân Công giáo. Tổ ba người cuối cùng ở lại chặn địch cũng đã chết mất hai. Nguyên Bình cố lết đến cổng Rồng, nơi dẫn lên ngọn núi Cô Hồn thì kiệt sức. Không còn cách nào khác Nguyên Bình đành lăn vào một bụi cây đang xòe ra, rậm rạp, nơi chân núi rồi ngất xỉu sau khi rơi tọt vào một cái hốc nông choèn, được che lấp bởi rất nhiều cây dại. Cả ngày hôm đó, hàng trăm gót giày chạy qua, chạy lại chỗ Nguyên Bình nằm mà anh không hề biết gì hết. Cơn sốt đã ấn đầu Nguyên Bình xuống, đẩy anh chìm vào vô thức.

Tại sao người dân An Lạc lại gọi dãy núi nằm án ngữ giữa thị trấn bằng cái tên Cô Hồn?

An Lạc xưa kia là trấn Biên Hải, thuộc xứ Câu Lậu. Những đoàn người đầu tiên đặt chân tới xứ này là các chiến binh của một bà nữ tướng dưới quyền Hai Bà Trưng. Thời ấy nơi đây chỉ có một dải núi dài như hình con nghé nằm, xung quanh chân núi là vịnh nông đang được phù sa bồi đắp. Cùng với sự hiện diện của các chiến binh những xóm làng cũng bắt đầu mọc lên rải rác dưới chân núi. Từ những xóm làng đầu tiên này dần hình thành nên các tổng Kha Lâm, Văn Đẩu, Trữ Khê, Phù Lưu, An Lạc, Phù Liễn... Đến triều đại nhà Trần, địa hạt Biên Hải thuộc huyện Nam Sách, phủ Kinh Môn, châu Hạ Hồng, trấn Hải Dương. Khi ấy ngọn núi có hình con nghé có tên là Phù Liễn. Vào dịp thái tử Hoảng đi thị sát vùng biển, có dừng tại trấn Biên Hải, ra lệnh dựng cột thật cao, treo cờ Đại Việt trên đỉnh Phù Liễn, từ ấy núi có tên là Cột Cờ. Dân Văn Đẩu xây dựng dưới chân núi một ngôi đình, gọi là đình Đẩu Sơn. Vào những năm cuối của thế kỷ 13, với khí thế sục sôi giết giặc Nguyên Mông, dân chúng Văn Đẩu tập trung tại đình Đẩu Sơn cử ra một bô lão là cụ Hai Chấn thay mặt dân chúng về kinh dự Hội nghị Diên Hồng bàn quốc sự. Từ ấy ngọn núi này lại mang tên Đẩu Sơn.

Khi chính phủ bảo hộ Pháp kiểm soát được xứ này, đã đặt ở đây một tỉnh lỵ có tên là An Lạc với cái nghĩa tốt đẹp: an cư, lạc nghiệp. Người Pháp cũng đã trèo lên núi, san bằng ngọn Đẩu Sơn, dựng tháp canh, cắm cờ tam tài, xây đài quan trắc khí tượng và hầm địa chấn. Người Pháp đi đến đâu những con đường rải nhựa hoặc láng xi măng lăn theo đến đấy. Một con đường nhỏ, rất đẹp, uốn lượn theo sườn núi, leo lên đến tận đỉnh núi nơi đặt đài quan trắc được xây dựng. Con đường được bắt đầu từ một phố chính của thị trấn An Lạc. Đường lên có cổng đắp hình lưỡng long chầu nguyệt, hai bên đề đôi câu đối: Đông Pháp Thiên Văn đại tổng cục - Bắc Kỳ Phù Liễn thị danh sơn. Vậy là từ đây ngọn núi này có tên mới: Thiên Văn.

Còn tên Cô Hồn ra đời từ khi nào?

Trong cuộc khởi nghĩa bất thành của những đảng viên Quốc Dân đảng, có một sự kiện không ai quên được, đó là việc bà Quản Điền dùng liềm rạch cổ tự vẫn nêu cái chí một lòng phục quốc. Bà Quản Điền chết rồi nhưng mấy trăm quả tạc đạn do bà góp công, góp của làm ra vẫn còn nằm yên trong hang đá ở phần bụng của dải núi hình con nghé. Sau mấy tháng tích cực tìm kiếm, cuối cùng người Pháp cũng đã tìm ra chỗ giấu bom của bà Quản. Lạ một điều, bao nhiêu lính Pháp vào hang thì bấy nhiêu bộ xương đè lên nhau mà lấp đường vào chứ không sao lấy ra nổi một quả tạc đạn. Hồn ma bà Quản hiện về với quần đóng bịt, đầu quấn khăn nâu đỏ, dùng liềm rạch cổ hết tên Pháp này đến tên Pháp khác là nỗi kinh hoàng cho chính quyền bảo hộ, thêu dệt ngàn vạn những điều huyền bí, phủ lớp sương mờ khó hiểu lên dải núi linh thiêng nằm giữa lòng thị trấn. Cuối cùng người Pháp buộc phải dùng đại bác bắn vào hang núi, xoá sạch những dấu vết u uẩn gợi nhắc những ám ảnh nổi loạn của đám dân bản xứ. Tạc đạn có thể đã bị phá hủy, nổ âm ỉ trong lòng núi suốt mấy ngày liền, nhưng hồn ma bà Quản thì không súng đạn nào huỷ diệt được, bà vẫn hiện về vật cổ những viên quan hai, quan ba Pháp trong Trại pháo thủ vào đêm Nguyên Tiêu hàng năm. Sau Phán Quý đã trình lên Chánh sứ một dự án tâm linh khả dĩ có thể làm yên lòng người Pháp, ấy là cho dựng một ngôi miếu thờ bà Quản Điền ngay giữa lưng chừng núi, nơi bốn mươi quả đại bác đã nã vào cửa hang chứa bom. Ngôi miếu dựng xong thì Phán Quý về vườn, người dân quanh vùng cũng bắt đầu gọi núi Thiên Văn bằng một cái tên mới, không có trong văn bản: Núi Cô Hồn!

Người ta thích gọi tên núi là Cô Hồn có lẽ cũng còn vì nó tương thích với dòng sông Sầu Diện. Khi toàn bộ khu vực vịnh nông quanh chân núi Cột Cờ đã được phù sa bồi đắp biến thành thổ địa của các nhóm cư dân từ các nơi kéo về, cũng là lúc biển rút ra xa, các dòng sông tự chôn sống mình, chỉ còn một dòng duy nhất làm công việc nhuần tưới, như mạch máu của một cơ thể đất mà thôi. Dòng sông ấy đón đoàn thuyền của thái tử Hoảng vào, đưa thái tử đến với ngọn Phù Liễn cây cối giăng mắc như rừng già, rất nhiều hoa thơm quả lạ, lại nhiều cầm thú quý hiếm, đứng trên đỉnh núi, ngắm nhìn bao quát ra xung quanh, thấy cảnh vật sơn thuỷ hữu tình, có cảm giác đang được đặt chân lên chốn địa linh văn vật, thái tử hứng khoái, quyết định hạ trại nghỉ ngơi.

Thái tử lần theo con đường mòn giữa những bụi lau lách sim mua đi về phía đồi thông nơi có dòng suối róc rách chảy. Vượn hót, chim kêu, mùi trái chín thoang thoảng đưa hương, bao loài cây lạ xòe hoa nở cánh trước mắt thái tử khiến ngài cao hứng cứ đi mãi không muốn dừng, miệng lại còn lẩm nhẩm đọc thơ nữa. Bỗng ngài nhìn thấy đôi bắp chân trần trắng ngà, thuôn thuôn, chắc khỏe thập thò dưới lớp vải nâu bã bên đám cỏ tranh nọ. Định thần, nhìn kỹ, ngài nhận ra một cô gái đang lúi húi cắt cỏ, yếm thắt qua gáy, vai để trần, đôi tay như múa lượn, dáng dấp khỏe khoắn, quê kệch nhưng mát mẻ, lấm láp nhưng tự nhiên, hạ tiện nhưng gợi hứng, mộc mạc nhưng bắt cháy dục tình. Đến khi nhìn rõ mặt người cắt cỏ, thái tử thật sự xúc động trước vẻ đẹp của sơn nữ, bỗng dưng động tình, một lòng muốn truy hoan dù cô gái hết sức chống cự. Sau thái tử rút kiếm lệnh, xưng dòng giống hoàng tộc, sơn nữ nọ mới kinh hoảng vội quỳ sụp xuống chịu lỗi, nhận một lòng hầu hạ.

Thái tử đã có một buổi chiều nồng nã ân tình với sơn nữ trong chiếc lều cỏ bỏ không nằm kề bên bờ suối. Sau đó quân hầu tìm đến bẩm với thái tử đằng Tây đang có một cơn dông to, mây mưa sắp kéo đến, mưa ngàn thác đổ, chẳng thể biết trước được lành dữ thế nào, xin thái tử hạ sơn cho yên lòng kẻ hầu cận. Thái tử vội theo quân hầu rời núi, trước khi đi ngài có hỏi qua họ tên, bản quán của sơn nữ nọ rồi bảo:

- Ta sẽ cho người rước nàng về kinh để sớm tối gần gũi, hầu hạ ta.

Những ngày sau đó cô gái cắt cỏ bên núi cứ ngóng chờ hoài mà không thấy có kiệu loan nào tới rước cả. Mầm sống trong bụng cô ngày một to lên. Đám hào mục trong làng truy gắt, cuối cùng cô gái phải nhận là đã hầu hạ Đức thái tử đương triều nên mới có cái sự xấu mặt ấy. Đám hào lý không tin, đường đường là thái tử con vua mà lại thèm ngủ với cái con bé cắt cỏ, hạ tiện xứ quê mùa này à? Thế là lệ làng thế nào thì cứ thế mà làm cho đúng, cho nghiêm. Họ trói cô sơn nữ chửa hoang vào một tảng đá to rồi đem quẳng xuống sông. Cô gái than khóc thảm thiết. Trước khi bị dìm chết cô thề rằng: “Nếu gái này bị oan thì không đá nào dìm nổi”. Quả thật cứ hạ thuỷ lần nào là dây thừng đứt tung lần ấy, cô gái lại nổi phềnh trên mặt nước. Hàng tháng sau cô mới chịu theo dòng trôi ra ngoài biển Đông. Sau này đoàn thuyền nào đi qua khúc sông ấy cũng nhìn thấy khuôn mặt cô gái với đôi mắt mở to, u buồn, chập chờn dưới mặt nước lăn tăn sóng vỗ. Khuôn mặt ấy lúc thì vỡ ra theo cánh sóng, lúc tụ lại dưới mặt nước phẳng lặng, gây hoảng sợ cho tất cả các ngư phủ qua lại khúc sông này. Sau tin đồn về tới kinh thành, thái tử vội ban chiếu giải oan cho cô gái và lệnh cho chính quyền sở tại lập miếu thờ. Từ ấy khuôn mặt cô gái không còn hiện lên mặt nước nữa. Nhưng dòng sông lại mang tên Sầu Diện. Thị trấn An Lạc nằm lọt thỏm giữa một bên là núi Cô Hồn, một bên là dòng Sầu Diện man mác chảy trong u sầu, tẻ lặng. Chính điều này đã làm Cha bề trên của Đức Phờrăngxoa Đơ Bêhiêng khi đặt nhà thờ xứ ở đây bảo: Thị trấn này như một khuôn mặt có dòng nước mắt chảy tràn, lại gắn một vết chàm nhỏ là ngọn núi Cô Hồn kia, bây giờ thêm một gác chuông nữa để chiều chiều rung lên những tiếng thở dài. Ôi, quả đúng là thị trấn Nét Mặt Buồn!

Cha Phăng rất thích cái tên ấy. Mọi thư từ, giấy tờ của ông trên đầu đều in dòng chữ: Thị trấn Nét Mặt Buồn, An Lạc, ngày, tháng, năm...

Thị trấn Nét Mặt Buồn bây giờ đang bị cào cấu, rạch xé nham nhở bởi trận tập kích đêm qua của Việt Minh. Tháp canh trên đỉnh núi Cô Hồn cạnh đài quan trắc cũng đã bị pháo cối quật đổ. Người Pháp đang rầm rập đưa nguyên vật liệu lên để sửa chữa lại. Dân thị trấn sau một đêm kinh hoàng lại trở dậy làm việc bình thường. Quán cháo lòng của bà Cả Ngật không những không phải đóng cửa mà còn đặt thêm nửa cỗ lòng nữa mới đủ bán cho đội dân binh nhà thờ. Cha Phăng là khách hàng quen thuộc của bà Cả Ngật. Cha muốn ăn tiết canh, cháo lòng tại quán chứ không muốn đưa về phòng. Bao giờ cha cũng ngồi một mình ở gian trong. Bà Cả Ngật chạy ra, chạy vào phục vụ cha rất tận tình, thỉnh thoảng còn hỏi cha vài câu về tình hình chiến sự thế nào, lễ hội trong tháng tới ra sao? Cả thị trấn An Lạc có hai khu vực tập trung giáo dân là khu Nhà Thờ và khu Xóm Đáy. Khi Đức bề trên của cha Phăng truyền đạo đến đây thì đám dân theo Ngài đầu tiên là những vạn chài nằm rải rác ở cuối dòng Sầu Diện, nơi dòng sông chuẩn bị đổ ra biển. Đám dân này khi nhập đạo rồi, liền bỏ thuyền lên bờ ở quanh khu đất bồi chỗ dòng Sầu Diện vặn mình đổi hướng. Đây là chỗ đất đầu thừa đuôi thẹo của An Lạc, là đáy sông nên gọi là Xóm Đáy. Xóm Đáy là xóm đạo toàn tòng nhưng dân ở đây rất nghèo. Họ lên bờ nhưng không biết làm ruộng, chỉ biết đan lưới rồi bắt tôm, bắt cá hai bên bờ sông mà sống qua ngày. Sau này cùng với việc xây dựng tỉnh lỵ, Đức bề trên đã cho xây ngôi nhà thờ to cao ngay bên một bờ đầm rộng, gần trung tâm thị trấn. Tòa công sứ xây xong thì nhà thờ cũng được khánh thành. Tòa ngang dãy dọc, nhà nguyện, nhà bếp, nhà kho, văn phòng, nhà khách, hội trường, sau này cha Phăng cho xây thêm một gian để máy phát điện nữa, khu nhà thờ trở thành một quần thể góp phần tạo nên cái dáng vóc như ngày nay của An Lạc. Nhà thờ xây xong, tín đồ các nơi cũng kéo đến dựng nhà, mở chợ, thành lập các hội đoàn... ngày một đông đúc. Có điều dân đạo khu Nhà Thờ giàu hơn dân đạo khu Xóm Đáy. Dân đạo khu Nhà Thờ nếu không là công chức, binh lính thì cũng là dân buôn bán hoặc làm nghề thợ thủ công. Bà Cả Ngật về khu này ở từ khi ông Đội Ngật còn sống. Sau khi ông Đội chết vì say rượu thì bà Cả ở vậy, nuôi đứa con nuôi, chẳng đi thêm bước nữa. Bà Cả là người sùng đạo, rất chiều cô con nuôi nhưng cũng rất khắt khe. Con Mến năm nay đã mười chín rồi. Hồi bà nhặt về nuôi nó đâu có mười một, mười hai. Mến giúp bà làm mọi việc, từ dồi lòng, làm nhân, hãm tiết, pha cháo đến đổ rượu, rửa bát, nhặt rau. Mến thường phải lên núi Cô Hồn lấy lá xương sông về dồi lòng. Không có thứ lá đó coi như miếng dồi bỏ, không còn mùi vị riêng của nó nữa. Lá xương sông có rất nhiều ở chân núi Cô Hồn, chỉ cần qua cổng Rồng vài bước chân là thấy xương sông mọc, xanh thẫm từng vạt.

Buổi chiều hôm ấy, Mến cũng quờ tay vào bẻ lá xương sông như mọi khi nhưng cô đã rú lên khi trông thấy một người đàn ông nằm chết trong bụi cây.

Cùng với tiếng rú của cô cái xác ấy bỗng dưng mở mắt ra.

Cái xác ấy chưa chết và cái xác ấy chính là Nguyên Bình Cô Mến rụng rời chân tay nhưng rồi nhanh chóng lấy lại bình tĩnh. Đôi mắt của người chưa kịp chết kia hiền và đẹp quá. Anh ấy đang nhìn cô cầu khẩn...