Chương 3
Mến là một trường hợp đặc biệt của khu Nhà Thờ. Cô là người duy nhất sống trong lòng thánh địa mà không phải là giáo dân.
Ngay từ khi bà Cả Ngật nhặt được Mến ốm o, rách rưới bên cột cây số Mười Tám mạn đi về Thái Bình, bà đã có ý cải đạo cho Mến nhưng cô dứt khoát không chịu. Trong ký ức nặng nề của một cô bé mười hai tuổi, hình chữ thập là một biểu tượng khủng khiếp. Nó không gợi nhắc điều gì khác ngoài cái chết. Ấn tượng không thể nào xoá đi được trong trí óc Mến là những chuyến xe trâu nối nhau chở những xác người hấp hối đi vào nghĩa địa có cắm những cây thánh giá. Hình chữ thập cũng là nơi có những vị mặc áo chùng thâm, mặt lanh tanh vô cảm, múc từng muôi cháo đổ vào bát cho đoàn người đói khát, nhàu nhĩ xếp hàng dài dưới sân nhà thờ. Nhiều người đã gục xuống chết ngay dưới nồi cháo loãng, trong mắt họ, hình ảnh cuối cùng của dương gian còn đọng lại là cây thánh giá trên đỉnh tháp chuông xoay nghiêng, xoay nghiêng đến chóng mặt. Bố mẹ Mến đã chết trong tư thế ấy. Chính Mến cũng tưởng mình đã chết dưới chân giáo đường với hình chữ thập dựng lên, ngả xuống, đổ ngang đổ dọc trong đầu.
Vì thế, Mến đã gào thét chống cự quyết liệt, không chịu theo bà Cả Ngật vào nhà thờ làm lễ thanh tẩy. Cô cũng không thích những hình khối uy nghi, những hình ảnh rùng rợn, thương xót, đớn đau của tòa giáo đường. Không khí trong nhà thờ cùng với những buổi đọc kinh và giảng đạo đối với Mến thật kinh khủng. Nó buồn nản, ảm đạm, khó hiểu và ức chế đến mức ngột ngạt. Hình như bà Cả Ngật có phàn nàn điều này với cha Phăng, và cha Phăng bảo rằng: “Con chiên lạc xa đàn nhất là con chiên biết tìm về sám hối một cách thành kính nhất”. Từ ấy bà Cả Ngật mới chịu bỏ mặc Mến, không ép chuyện cải đạo nữa.
Mến thoát khỏi sự kiềm tỏa của bà Cả, cứ thế lớn lên một cách hồn nhiên, vô lo cho đến một chiều kia, cô vào sân sau nhà thờ gánh nước, bỗng nhìn thấy một quả cam trĩu xuống bên hông nhà nguyện. Sát nhà nguyện là một vườn cây rộng, chạy thẳng ra cánh đồng. Mến chưa bao giờ đặt chân vào khu vườn ấy. Hôm nay nhìn thấy quả cam buông ơ hờ, ngon lành quá, Mến liền bỏ đôi thùng nước chạy lại bẻ. Bỗng Mến nhìn thấy bóng cha Phăng cùng với một thầy dòng đi bên hai người đàn ông mặc đồ lính trận từ hướng văn phòng đi xuống. Họ mất hút sau dải núi tự tạo có đặt bức tượng Đức Mẹ bồng con ở giữa khu vườn. Mến vừa bóc cam vừa để ý xem họ chui đi đâu mà bỗng dưng lại biến mất nhanh đến thế? Khi Mến ăn hết quả cam thì thầy dòng ló đầu ra, đi sau thầy là hai người lính lúc nãy đang khênh theo một chiếc cáng. Vật nằm trên cáng lúc đầu rất khó xác định, đến khi nhìn rõ mồn một thì Mến vội đưa tay lên bóp miệng cho khỏi thốt ra tiếng kêu kinh ngạc. Vật được khiêng là một người đàn ông đầu tóc cạo nham nhở, mình mặc bộ quần áo cánh nâu, hai tay bẻ quặt ra đằng sau, cổ tay bị trói lại bằng một sợi dây nhựa màu xanh. Một bắp chân của người đàn ông này bị bẻ gẫy hoặc bị cưa bằng lưỡi sắt, máu và tuỷ vẫn đang đùn ra, nhểu xuống đất thành một vệt dài. Đầu ông ta bị đập bẹp, không nhìn thấy tai đâu. Ông ta nằm trong một tư thế co quắp, hơi nghiêng, mắt nhắm nghiền, mặt đầy vết thâm tím. Có lẽ ông ta đã chết? Hai người lính trận khiêng cáng đi theo thầy dòng. Họ lách qua những tán cây rậm rạp của khu vườn, bước về phía cánh đồng. Tới cuối vườn thì Mến không nhìn thấy họ nữa. Mấy cây chuối cùng với vạt đu đủ mọc dầy đã cản mất ánh nhìn của Mến. Họ đưa người đàn ông ấy đi đâu nhỉ? Mến đã trải qua những giây phút hồn xiêu phách lạc, sau một hồi đứng chết lặng đi, cô lặng lẽ trở lại chỗ giếng nước, múc đầy hai thùng rồi đưa lên vai gánh về. Sáng hôm sau Mến vẫn thấy cha Phăng ra quán ăn tiết canh và uống rượu với lòng lợn như thường lệ. Cha vẫn làm dấu thánh, vẫn mỉm cười thân thiện với Mến và nhìn Mến bằng ánh mắt màu nâu xám ấm áp đến khó hiểu. “Con nghĩ gì vậy?”. Tiếng cha Phăng hỏi làm Mến giật nảy mình. Mến vội che đậy sự lúng túng bằng cách giả bộ chạy xuống bếp lấy rau thơm lên cho khách. Mến như mụ mị người đi khi nghĩ đến hình ảnh người đàn ông nằm trên chiếc cáng ở phía sau khu vườn nhà thờ chiều tối hôm qua. Chẳng lẽ dưới mảnh vườn ấy là địa ngục, nơi vẫn dùng để hành hình các tội nhân? Tại sao lúc người đàn ông bị đánh đập đến biến dị cả thân hình ấy được khênh từ dưới lòng đất lên Mến không nhìn thấy cha Phăng đâu nhỉ? Thầy tu sĩ mặc áo chùng thâm dài quá gối, chân đi ủng, mắt đeo kính trắng lẽ nào giữ được vẻ mặt thản nhiên đến thế trước cái xác người kỳ dị đang nằm trên cáng? Khó hiểu quá! Mến không sao lý giải nổi những gì đã xảy ra vào buổi chiều hôm qua trong mảnh vườn trồng cây ăn quả thuộc khuôn viên nhà thờ. Những buổi chiều tiếp theo đối với Mến là cả một trò chơi ú tim. Mến thường cố ý lại gần chỗ vườn cây, nấp bên hông nhà nguyện nhìn về phía dải núi nhân tạo có hình Đức Mẹ chờ đợi những sự khác lạ với một tâm trạng vừa hồi hộp, lo sợ vừa tò mò, thích thú. Mến không còn gặp lại những hình ảnh hãi hùng như buổi chiều nọ nữa nhưng thính giác của cô bị kích thích ghê gớm. Cô nghe thấy những tiếng rên la, gào thét, không rõ rệt lắm nhưng có sức lan tỏa, gây bủn rủn chân tay. Mến cố lắng nghe mà không sao xác định được thứ âm thanh ám ảnh kia phát ra từ đâu. Nó âm âm, u u như bị hàng loạt ngách cửa bịt lại, chỉ còn thoát ra được một cách yếu ớt và bay là là trên mặt đất mà thôi. Mến chẳng lạ gì đường ngang ngõ tắt của khu thánh đường này. Phía cửa chính to rộng là nơi để xe của cha, của tỉnh trưởng, của các quan hai, quan ba Pháp và lũ lính trận ra vào thường xuyên. Nơi ấy có các dân binh phòng vệ nhà thờ đứng ngồi, mắt mũi dáo dác, lúc thành kính tôn nghiêm, lúc vằn lên những tia tàn ác. Mến không bao giờ đi vào nhà thờ bằng cổng ấy. Mến chỉ vào theo cái ngách nhỏ mà các bõ già vẫn đi. Ngách này nằm ở ngay bên hông nhà thờ. Lũ trẻ quanh xóm cũng thường vào sân nhà thờ chơi theo lối này nhưng vài năm nay bõ Câm cấm không cho chúng nó vào nữa. Chỉ có Mến là bõ cho vào vì bõ biết cô không có tính tò mò, mắt mũi không nhòm ngược, nhòm xuôi. Hơn nữa, bõ Câm không có con cái, thỉnh thoảng cũng có lúc bõ phải nhờ Mến việc này, việc nọ, nhất là lúc ốm đau, nên việc Mến ra vào nhà thờ dần trở thành một sự ưu tiên đặc biệt.
Sau cái lần Mến nhìn thấy người đàn ông bị hành hạ đến thân tàn lực kiệt ở trong vườn cây gần nhà nguyện cũng là lúc thị trấn An Lạc nóng dần lên như một cái nồi gang để trên bếp than đang bắt đầu bén lửa. Khắp nơi nói đến đánh nhau. Những tiếng nổ ở xa, đâu mãi tận bên Lãng Tiên, bên Hải An, bên Bảo Vĩnh ì ầm vọng về suốt đêm ngày. Rồi những tiếng nổ gần. Nổ ban ngày. Nổ buổi sáng. Nổ buổi trưa. Nổ trong đêm. Nổ ở phía trại lính. Nổ ở bến sông Sầu Diện. Nổ ở Trại Pháo thủ. Mến bước vào tuổi thiếu nữ trong thời đoạn đầy biến động như thế. Mến không xinh đẹp đến mức nhìn thấy là các chàng trai phải ngơ ngẩn. Thậm chí nốt mụn ruồi to khác thường ở bên cánh mũi trái còn làm cô không đáng để mọi người chú ý tới. Nghề nghiệp của Mến lại khoác lên Mến dáng vẻ của một cô gái lọ lem. Chính vì thế dường như mọi sự đều đang diễn ra một cách hối hả ở đâu đó xung quanh Mến chứ không phải với chính Mến. Mến vẫn bình yên, nhàn tản với cuộc sống lặp đi lặp lại đến buồn tẻ ở nhà bà Cả Ngật. Sức ám ảnh trong vườn cây ăn quả của nhà thờ còn trở đi trở lại trong cô đôi ba lần nữa. Nhưng rồi nó cũng không đủ để biến cô thành con người khác, nghĩa là không buộc cô phải quan tâm đến thời cuộc hơn.
Nhưng sau đêm thị trấn An Lạc bị tập kích thì Mến bắt đầu có những biểu hiện khác thường.
Cô đặc biệt hứng thú đối với việc đi hái lá xương sông ở chân núi Cô Hồn. Cô thường đi sớm về muộn. Ẩn sau đôi mắt cô là nỗi bồn chồn day dứt không yên. Mỗi khi nhìn thấy bóng dáng một tên Com-măng-đô hay Bảo chính đoàn loáng thoáng ở đâu đó là tim cô cứ đập rộn lên. Nhưng nỗi lo sợ không giày vò Mến quá lâu. Cái người tưởng là đã chết ở trong núi ấy không ngờ hồi phục rất nhanh. Người ấy thường nhìn Mến bằng đôi mắt có những ánh lấp lánh rất lạ. Người ấy rất hiền. Người ấy có chiếc răng khểnh và khi cười có thể làm mụ mẫm bất cứ cô gái nào. Mến đã đưa người ấy ra chỗ hồ nước ở lưng chừng núi để tắm. Không ngờ người ấy thông thuộc quả núi còn hơn cả Mến. Người ấy bảo: “Cái hồ này chính là hốc mắt của con nghé. Nước hồ không bao giờ cạn vì có dòng suối kia đổ vào đây. Nhưng nước hồ cũng ít khi đầy. Nó chỉ đầy sau một cơn mưa lớn. Dãy núi này tôi đã từng đặt chân không sót một chỗ nào. Nó có hình con nghé nằm ghểnh đầu”. Mến đã ngồi bên lòng hồ vừa trông cho anh ta tắm, vừa nghe anh ta kể chuyện. Anh ta bảo: “Chân thế này là tạm ổn rồi, đêm nay tôi sẽ tìm ra vùng của ta thôi”. Mến thấy sợ, bảo: “Họ mà bắt được anh thì chết”. Anh ta cười: “Không lo đâu. Tôi chỉ cần ra đến bến đò Lãng Tiên là coi như xong. Chỗ ấy cài răng lược, người của ta rất nhiều”. Mến hỏi: “Vậy, mai em lên đây là không gặp anh nữa hả?”. Anh ta lại cười, và bất thần tiến sát lên bên cô, nói rất nhỏ: “Cô hãy cầu nguyện cho tôi nhé”. Mến bủn rủn cả người. Hơi thở của anh ta ấm sực bên tai Mến. Bờ môi anh ta hình như lướt nhẹ bên mang tai, dừng lại ở bên má cô. Mến run bắn người lên. Cô chẳng biết điều gì đang xảy ra với mình nữa. Lần đầu tiên cô được gần gũi với một người con trai đến thế. Lần đầu tiên cô được khám phá chính cơ thể mình. Lần đầu tiên cô được hưởng cái khoái cảm mà người con trai và người con gái có thể mang lại cho nhau. Tối hôm ấy Mến về nhà hơi muộn. Má cô vẫn còn đỏ bừng lên. Dư âm ngọt ngào của sự đụng chạm khác giới vẫn đang lan tỏa đâu đó khắp cơ thể cô, luồn lách tới từng tế bào. Chính điều đó làm cô đẹp đến ngỡ ngàng trong con mắt của bà Quản hội Con hoa. Bà Quản đang ngồi bàn với bà Cả Ngật về việc tổ chức lễ dâng hoa Đức Mẹ vào mấy ngày tới. Nhìn thấy Mến bước vào nhà, bà giật mình quay sang hỏi bà Cả Ngật:
- Con này năm nay nó bao nhiêu tuổi hả bà?
Bà Cả Ngật bảo:
- Đâu mười chín, hai mươi gì đó. Lớn thế chứ còn tồ lắm bà ạ.
Bà Quản xuýt xoa tiếc rẻ: “Giá nó mười bốn đổ lại thì tốt bà nhỉ?”. Bà Quản nói thế và hình dung ra Mến diện áo dài trắng, quần lụa hoa, thêm chiếc ô đen lợp chéo go, đi đôi guốc cao gót vào nữa thì sẽ chả chịu kém ai. Nhưng tuổi ấy chỉ vào hội Pha-ti-ma được thôi chứ không vào hội Con hoa được. Sau bữa đó bà Quản cảm tình với Mến lắm, lôi kéo cô vào nhà thờ bằng được để giúp bà một tay lo việc thánh. Ngay ngày hôm sau bà Quản đưa người sang nhắn bà Cả Ngật cho Mến sang nhà thờ giúp phục vụ cơm nước cho các cha và khách khứa ở các giáo phận về dự lễ. Liên tục mấy hôm liền Mến phải ở lỳ trong nhà thờ lo việc ăn uống cho các cha. Cô cương quyết không vào một hội đoàn nào cả, chỉ nhận mỗi việc phụ giúp nấu nướng thôi. Quần là áo lượt là việc xưa nay Mến không quen. Với lại, cô cũng chả thích các kiểu hội hè, rước xách của nhà thờ tí nào.
Tháng Năm năm nay cha Phăng quyết định tổ chức lễ dâng hoa Đức Mẹ thật to. Các quan người Pháp và người Việt đều rất ủng hộ. Buổi lễ được tổ chức ngay sau trận tập kích độ mươi hôm để chứng tỏ An Lạc chẳng hề hấn, sứt mẻ gì, chẳng qua Việt Minh húc đầu vào đá mà thôi. Giáo dân cả các xứ khác cũng kéo đến dự. Hình như họ muốn đến để học tập cách tổ chức đội “Ngự lâm quân Công giáo” của cha Phăng nữa. Mến chẳng hiểu ý đồ của các cha nhà thờ, chỉ thấy mệt phờ người với những công việc ngổn ngang theo sự chỉ đạo của các bà, các cô. Buổi chiều hôm làm lễ Mến cũng chen được vào sát cửa sân nhà thờ để xem các con hoa múa hát. Đó là lễ hội lớn nhất mà Mến được xem kể từ ngày về làm dân xứ đạo này. Đó cũng là lễ hội cuối cùng gợi nhắc những hào nhoáng tâm linh của một tôn giáo khó hiểu trong cuộc đời vô đạo của Mến.
Đúng giờ lễ, tiếng chuông nhà thờ đổ hồi, kiệu hoa được con hoa nâng lên vai. Trước buổi lễ, kiệu hoa đã được đưa vào nhà xứ để cha Phăng làm phép thánh. Bây giờ cuộc rước bắt đầu cử hành từ trong thánh đường đi vòng quanh khuôn viên nhà xứ sau đó trở về trước sân nhà thờ. Mười ba con hoa được chia làm sáu cặp, năm cặp đầu mỗi cặp cầm một sắc hoa, cặp thứ sáu thì cầm một bó hoa nhiều màu. Hoa được cắm vào mâm bồng. Các con hoa đều mặc áo tứ thân, thắt lưng hoa lý, hoa cà. Khi múa, dây lưng các màu bằng lụa bay lượn trông mềm mại, uyển chuyển, rất đẹp mắt. Trong lúc các con hoa múa hát, ở một góc sân con hoa thứ mười ba đánh trống cầm phách giữ nhịp. Lại có cả đàn, sáo, nhị đệm thêm vào nữa. Các con hoa vừa hát vừa múa.
Chúng tôi mọn mạy, phàm hèn
Dám đâu ghé mắt trông lên bàn thờ
Ngửa xin tràn xuống ơn thừa
Rộng ban giải tấm lòng thơm trước tòa
Khi dâng hoa, các con hoa tỏ lòng thành của mình bằng các động tác lúc thì úp hai tay vào ngực, khi thì giơ hoa lên hoặc làm động tác ước lệ như đang hái hoa. Các con hoa nhìn chung được luyện tập kỹ nên khi vào điệu rất đều và tự nhiên. Tay cầm hoa uốn lượn, các ngón tay, cổ tay, cánh tay dẻo và đẹp mắt. Bàn chân, khuỷu chân nhún nhảy, có lúc chỉ đi bằng năm đầu ngón chân như đi xuyến, có lúc bàn chân chuyển động là là mặt đất, nhẹ êm, lại có lúc dừng một chân làm trụ để xoay người, rất duyên dáng. Khi múa, cả đội hình con hoa được di chuyển, sắp xếp theo hình thập giá rồi lại biến hóa thành hình ngôi sao, hình mặt trăng, hình mỏ neo, hình triều thiên. Bái vịnh xong các con hoa lần lượt tiến hoa.
Chúng con bồ liễu phận hèn
Ơn thương đã được bước lên gọi mừng
Đóa hoa khóm nóm tay bưng
Cứ thế, nào là Nhiệm thay hoa đỏ hồng hồng, nhuộm riêng Máu Thánh thơm chung lòng người chuyển sang Xinh thay hoa trắng tốt lành, vì cùng nhân đức đồng trinh Đức Bà, lại đến Quý thay này sắc hoa vàng, sánh nhân đức mến Bà càng trọng hơn tiếp theo Dịu thay hoa tím càng màu, ý trên Bà những cúi đầu vâng theo rồi Lạ thay là sắc hoa xanh, mừng Bà nhân đức trọn lành cực cao...
Mến xem đến tan buổi lễ thì thấm mệt. Bõ Câm bảo Mến mang thức ăn lên cho cha Phăng. Lần đầu tiên Mến bước chân vào phòng riêng của cha. Khi Mến đẩy cánh cửa ra thì cha Phăng đang ngồi bệt dưới đất, đầu gục lên thành ghế. Mến đặt thức ăn lên bàn rồi bước tới dìu cha đứng dây. Mùi rượu tỏa ra nồng nặc. Cha uống quá nhiều, uống suốt mấy ngày hôm nay nên người rũ xuống. Khi Mến chạm vào người cha thì cha từ từ mở mắt ra. Cha ngẩng phắt đầu lên rồi từ từ gục đầu vào thành ghế. Mến dùng hết sức đỡ cha dậy, đưa cha vào giường. Tới bên giường, cha bỗng ôm chặt lấy Mến. Hình như cha rất cần thứ da thịt mát lạnh toát ra từ người Mến. Chiếc áo nâu xẻ tà có túi Mến mặc hôm nay ôm lấy eo lưng mảnh khảnh làm cơ thể Mến nổi bật lên những đường nét duyên dáng, nữ tính. Chiếc cổ khoét rộng, mái tóc vén cao lên, phần mang tai của Mến trắng hồng, mát mẻ và quyến rũ quá. Cha Phăng hôn vào phần dưới mang tai của Mến. Mến thấy rùng mình, vội giãy giụa tìm cách thoát ra khỏi tay cha. Nhưng quả thật là cha rất yếu. Mến chỉ vùng dậy một cái là cha đã tuột xuống giường, oặt ẹo như một dải chăn mỏng. Nhìn cha trong tình cảnh ấy Mến lại thấy thương hại. Ở cha vừa có nét đại lượng, cao cả vừa có nét uy quyền, độc ác. Cha vừa là thánh nhưng cũng lại rất đời khi luôn sốt sắng qua lại với đám các quan ở trại lính và Tòa sứ cũ. Quanh cha có rất nhiều đoàn, hội, rất nhiều các bà, các chị, mặc dù mấy năm trở lại đây ít có điều kiện tổ chức tế lễ, rước xách nhưng đám đàn bà con gái quần là áo lượt vẫn thậm thụt qua lại nhỏ to với cha. Liệu đứng trước họ cha có còn là thánh nữa không hay cha cũng ham muốn, trần tục như những người đàn ông khác? Hôm nay với hành động của cha, Mến chưa thấy cha đáng ghét dù có lúc cô thấy sợ. Cha đang rất say và mệt, cha ôm hôn Mến như vẫn thường tỏ sự âu yếm với con chiên chứ chưa hẳn đã vì sự thôi thúc của sắc dục. Bằng chứng là cha hầu như không còn khả năng nhận biết những gì xảy ra xung quanh nữa. Mến kéo chiếc vỏ chăn đắp lên nửa người cha, rồi xuống bếp bảo với bõ Câm:
- Cha uống nhiều quá nên say, ngủ rồi, bõ nấu cho cha bát xúp, nửa đêm mời cha xơi cho lại người.
Xong xuôi, Mến cũng theo ngách nhỏ bên hông nhà thờ trở về nhà. Bà Cả Ngật ngủ lâu rồi. Mấy hôm nay bà phải nghỉ hàng để tham gia chuẩn bị cho lễ dâng hoa. Hôm nay mọi sự đã xong, chắc mệt nên phải ngủ từ sớm. Mến cũng thấy mệt bã người, thay quần áo ra xong là cô chui tọt vào giường, thả cho toàn thân trôi vào miền vô cảm kỳ bí.
Nhưng gần về sáng thì Mến tỉnh dậy, chạy vội ra đằng sau bếp nôn thốc nôn tháo. Bắt đầu từ hôm ấy, hầu như sáng nào Mến cũng nôn khan. Mùi cháo lòng là kẻ thù của khứu giác Mến. Cứ mỗi khi nồi cháo sôi ùng ục, hơi mỡ quẩn với mùi tiết, mùi gạo thoảng bay khắp gian buồng là Mến lại vuốt cổ nôn khan. Gân xanh ở cổ Mến nổi những đường mờ mờ. Mến hay thấy mệt và thèm ăn chua. Vào nhà thờ lấy nước, mắt trước mắt sau thế nào Mến cũng phải vặt được một thứ quả gì đó ở trong vườn. Những đổi thay ở Mến không qua được mắt bà Cả Ngật. Bà chết sững người. Bà lôi ngược tóc Mến từ dưới bếp lên nhà trên, vả cho tối tăm mặt mũi rồi hỏi:
- Mày bôi tro trát trấu vào mặt bà như thế à? Mày ăn nằm với ai? Bà tống mày ra khỏi nhà chứ bà không để cái giống mèo mả gà đồng ở trong nhà bà nghe chưa? Nói ngay, mày ngủ với ai?
Mến vừa đau, vừa sợ, cứ khóc ưng ức ở trong cổ họng. Bà Cả Ngật giậm chân bình bịch ở nhà trên rồi lại vỗ đùi bành bạch chạy xuống nhà dưới. Bà xót công nuôi nấng từng ấy năm của bà. Bà tiếc đứt ruột vì cái dự định của bà bị hỏng. Bà đã có ý gả con Mến cho anh cai Doãn, lính ở trên quận, vẫn thường đến quán ăn của bà. Nghe ra anh ta cũng ưng ý, bàn tới bàn lui, cả hai đều hả lòng rồi, chỉ còn hẹn ngày nữa thôi. Nhưng thế này thì bà mất cả chì lẫn chài rồi. Thế này thì còn ai rước cái của nợ kia về nhà nữa. Rồi lại suốt đời cắm mặt xuống đất làm lụng nuôi con và ôm lấy cái tiếng không chồng thôi. Sao số bà khổ thế, nhục thế? Ông trời sao nỡ đày đoạ bà thế, cho bà rước cái của lăng loàn, đĩ thõa, ngu đần kia về làm gì để bây giờ muối mặt với thiên hạ, nhục nhã với giáo giới, đồng đạo. Mà ai mới được chứ, nó có đi đâu ra khỏi nhà bà đâu nhỉ? Suốt ngày làm lụng với bà, chỉ có mấy hôm vừa rồi sểnh ra ít bữa lo việc ở nhà thờ thôi, chẳng lẽ nó đã kịp hủ hóa nhanh đến thế? Bà Cả Ngật đau đớn, rền rĩ, đánh đập Mến chán tay rồi lại ra ngồi bệt giữa nhà than khóc. Mến cũng thấy nhục nhã quá, thương bà Cả Ngật quá nhưng đâu có ngờ mọi sự nó lại ra thế này. Khốn khổ cho cái thân Mến, khốn nạn cho cái đời Mến, nhìn bà mẹ nuôi như đang đứt từng khúc ruột, ngồi hời lên những tiếng ai oán, thảm thiết, Mến lại càng thấy ân hận. Ai mà biết được cái chuyện trai gái lại dễ dẫn đến những điều phiền phức như thế này. Đời Mến chỉ va chạm có một lần duy nhất với cái người đàn ông tưởng đã chết ở chân núi Cô Hồn đấy thôi. Lần thứ hai là với cha Phăng, mềm oặt, ngúc ngắc như một thân chuối đổ sau bão. Sự va chạm với cha Phăng không gợi lên điều gì cả. Nó không phải là sắc dục. Nó không phải là chuyện của đàn ông và đàn bà. Nhưng nếu là cha Phăng thì sao nhỉ? Có thể bà Cả Ngật sẽ đỡ đau đớn, chua xót hơn chăng? Liệu có đỡ tủi phận, muối mặt, nhục nhã hơn không? Có thấy lòng mình thanh thản, vợi bớt đi những nặng nề, u ám hơn không?
Một ý nghĩ lóe lên trong đầu Mến. Nó đến rất nhanh rồi cứ thế trở đi trở lại trong Mến. Và Mến quyết định nói cái điều mà cô cho rằng làm thế bà Cả Ngật sẽ bớt tủi nhục hơn. Lúc đầu, bà Cả Ngật ớ người ra. Chả nhẽ lại như thế thật sao? Cha Phăng là một con người vô cùng đáng kính trong con mắt bà Cả. Cha là người có thế lực cả ở bên đời lẫn bên đạo. Cha lại thuộc một dòng giống cao sang, có thể làm được những việc dời sông lấp bể, nếu con Mến có một cái gì đó với cha, tuy không đến nỗi tưng tưng sung sướng nhưng cũng không đến nỗi phải hổ thẹn. Thế là khí hỏa trong người bà Cả Ngật cứ tụt dần, tụt dần. Càng nghĩ, bà càng thấy nhẹ nhõm. Ừ, nếu thế thì đáng được an ủi quá đi chứ. Nếu thế thì con Mến cũng đâu đáng trách. Nó phải thế nào đấy mới được cha yêu, cha quý. Tất nhiên việc của cha là việc kín đáo, chuyện của cha là chuyện động trời, nhưng như thế chẳng phải nhà bà là trường hợp hi hữu đặc biệt của cả xứ đạo này đấy sao? Mà cái lẽ hi hữu ở đây nó huyền diệu lắm. Nó mang lại cho bà Cả Ngật một cảm xúc thầm kín, không nói ra được nhưng vô cùng phấn khích.
Bà Cả Ngật xoay ra đối xử với Mến khác hẳn mấy ngày vừa qua. Bà thì thụt qua lại chỗ cha Phăng, rồi chăm lo cho Mến đến đầu đến đũa, cứ như thể Chúa đã gửi gắm cho bà một việc trọng, cao cả mà đắng cay lắm, vinh quang đấy nhưng cũng là kiếp nạn thử thách phải gánh chịu. Mến tự dưng thoát khỏi tình trạng khốn nhục, tiếp tục sống trong nỗi phấp phỏng lo âu, vừa căng thẳng vừa mừng vui, vừa chờ đợi một điều gì đó rất mơ hồ lại vừa hốt hoảng sợ hãi cho cái kết cục sẽ phải đến trong nay mai không biết sẽ ra sao?
Bây giờ thì cái kết cục ấy đã đến.
Sau những giờ phút vật vã, khổ sở đứa trẻ đã ra đời từ Mến và nó ngay lập tức bác bỏ cái danh phận hờ được khoác lên người khi còn ở dạng bào thai.
Cả bà Cả Ngật và cha Phăng dường như đều không bận tâm lắm đến cái sắc diện của đứa trẻ, mặc dù họ cũng hơi có chút lấn cấn trong lòng khi lần đầu nhìn thấy thằng bé. Niềm tin được thắp lên trong họ cháy âm ỉ suốt một năm qua, không dễ mà tắt phụt đi được. Bà Cả Ngật rất yêu đứa trẻ. Hình như với bà, đứa trẻ là sự gửi gắm của Chúa, nó có giống cha Phăng hay không, bà chẳng lấy làm bận lòng về điều đó nữa. Thằng bé ăn khỏe, ngủ khỏe, đôi mắt lúc nào cũng mở to nhìn lên trần nhà, trong trẻo nhưng thoáng u buồn. Nó có vẻ hiểu sự ra đời của nó là trớ trêu và nó không ngừng lý giải cho cái sự trớ trêu ấy bằng một cơ thể khỏe mạnh, một đôi mắt trầm tư, khắc khoải, lúc nào cũng như đang dõi về xa xăm, trắc ẩn và đầy dự cảm bất hạnh.
Cha Phăng cũng yêu thằng bé chả kém gì bà Cả Ngật. Có lẽ trong thẳm sâu vô thức của người đàn ông hiến cả đời mình cho sứ mệnh hành đạo này cũng có khát vọng trường tồn hiện sinh bản ngã. Khát vọng ấy được bắt cháy một cách mơ hồ trong ông ta, đến khi đứa trẻ ra đời thì nó không thể tắt được nữa, nó - cái khát vọng nhỏ nhoi ấy - cứ cháy mãi trong bầu khí giả tưởng ẩn sâu dưới đáy góc tâm hồn. Vì thế cậu bé Minh Việt được hưởng một cuộc sống đầy yêu thương mà không cần biết tới cái khắc nghiệt định mệnh đang đón đợi. Những tháng tuổi đầu tiên của Minh Việt trôi đi cùng sự giãy chết của một thể chế đã úa tàn. Đội quân khổng lồ của người Pháp đang rã đám từng mảng, thời tiết chính trị biến động từng ngày, công việc hành đạo của cha Phăng đang có vẻ đi vào ngõ cụt. An Lạc nằm cách cảng biển Hải Phòng không xa. Khi những phát đại bác cuối cùng làm xong công việc của nó ở lòng chảo Điện Biên, An Lạc trở thành nơi dồn chứa tất cả các sắc lính thua trận. Hơn tám năm về trước Trung đoàn hỗn hợp thuộc Quân đoàn 50 của Tưởng Giới Thạch buộc phải rút khỏi An Lạc sau khi đã tìm mọi cách ở lại mà không được. Sau đó đến những đội viên thị vệ của An Lạc cũng phải ngậm ngùi ra đi, mang theo lời thề sẽ có ngày trở về đuổi sạch người Pháp ra khỏi thị trấn. Suốt tám năm qua các đội viên thị vệ không ngừng mơ tới ngày băng qua sông Sầu Diện, vượt bến đò Lãng Tiên, tiến vào giải phóng thị trấn thân yêu của họ. Bây giờ thì An Lạc nằm trong vòng ngắm của họ rồi. Nguyên Bình cùng đội quân tiếp quản đã có mặt ở bên kia bến đò Lãng Tiên. An Lạc tạm thời còn đang là một khối bùng nhùng những quan quân thất trận, những tàn dư cũ nát của một thể chế đã lỗi thời, những con buôn chiến tranh và đám cò mồi chính trị, những khuôn mặt mệt mỏi, bơ phờ của đám giáo dân các xứ dồn tụ về chờ ngày được hót đi. Chúa đã vào Nam rồi, đám chiên ghẻ chẳng còn lý do gì để mà ở lại đất này nữa. Cha Phăng bận tối mắt, tối mũi với việc tổ chức cho đám chiên mà cha chăn dắt suốt bao nhiêu năm qua xuống tàu vào Nam theo Chúa. Toàn bộ số dân khu vực Nhà Thờ sẽ ra đi hết. Đành phải bỏ lại giữa lòng thị trấn An Lạc này ngôi thánh đường to đẹp mà Đức bề trên đã từng mất nhiều công sức xây dựng. Thị trấn Nét Mặt Buồn rồi đây sẽ chỉ còn dòng nước mắt chảy tràn cùng ngọn núi Cô Hồn như nốt mụn ruồi đơn lẻ bên cánh mũi phập phồng mà không còn tiếng chuông nhà thờ vang lên vào mỗi buổi chiều nữa. Việt Minh sẽ là những chủ nhân mới của thị trấn này, Nét Mặt Buồn sẽ chỉ còn là ký ức phai mờ trong lòng những người như cha Phăng mà thôi. Một trăm ngày là khoảng thời gian để các bên tham chiến tập kết về hai bờ vĩ tuyến mười bảy. Một trăm ngày này cũng là khoảng thời gian để những người như cha Phăng tích cực lo cho đám chiên sùng đạo di cư về phương Nam. Tàu Mơ-na và tàu Giê-nê-ran chở hết chuyến này đến chuyến khác, nửa triệu giáo dân đã rời cảng Hải Phòng theo về nước Chúa trên những chiếc tàu này. Các tàu chiến cũng tham gia chở giáo dân di cư. Lại thêm mấy trăm nghìn người nữa đặt chân xuống những chiếc tàu chiến của người Pháp, gửi gắm thân phận mình cho biển cả đưa về nơi Chúa ngự, bất biết nơi đến ở đâu, có những gì đang đón đợi? Bà Cả Ngật và Mến cũng đã chuẩn bị từ lâu, ráo riết nhưng âm thầm vì họ sẽ là những người ra đi cuối cùng. Hàng cháo lòng chưa bao giờ đắt khách như những ngày này. Cha Phăng cũng đã hứa sẽ để dành chỗ cho mẹ con bà Cả Ngật trên một chuyến tàu quân sự đặc biệt. Chuyến tàu này sẽ nhổ neo trước khi Việt Minh tiến vào thị trấn Nét Mặt Buồn.
Mến sẽ không khó khăn cho sự lựa chọn nếu cô không bất ngờ nhận ra người đàn ông ở chân núi Cô Hồn. Người đàn ông ấy bỗng dưng có mặt ở đầu phố Tứ Phủ trong bộ quân phục sậm màu, súng đeo trễ trước bụng, bước đi điềm tĩnh, đàng hoàng cùng vài ba người nữa. Hôm đó Mến đi lấy nợ cho bà Cả Ngật, khi ngang qua phố Tứ Phủ, tới trước cửa hiệu Lúa Vàng cũ, cô tò mò ngắm nhìn dòng chữ viết bằng phấn trắng, to đậm: Ủy ban quân quản lâm thời thị trấn An Lạc. Cạnh đó có mấy anh lính Việt Minh xách súng đứng gác. Mến thấy là lạ. Vậy là những người lính ở bên kia bến đò Lãng Tiên đã có mặt ở phố chính của thị trấn rồi. Họ là những người đầu tiên trở về đây sau hơn tám năm bị đẩy bật ra khỏi thị trấn. Rồi đây họ là chủ và những người như cha Phăng là kẻ thù của họ. Họ sẽ làm cỏ ngôi giáo đường vốn chứa vô vàn tội ác, sẽ treo cổ đám dân binh nhà thờ, sẽ đuổi những giáo dân chăm chỉ đọc kinh nhất lên núi ở với khỉ, sẽ xử bắn tất cả những ai từng làm cai, đội xách súng theo người Pháp. Mến rất lo sợ điều ấy xảy ra. Nhưng nghĩ đến người đàn ông của mình Mến lại thấy hồi hộp, mong mỏi, run rẩy, bồn chồn. Thật khó phân biệt được cảm xúc của Mến lúc này. Sự thực là cô chưa kịp hiểu gì nhiều về người đàn ông ấy. Ngay cả khi người ta làm chủ cơ thể cô, cô cũng chỉ nghĩ một cách giản đơn rằng chiến chinh là việc của những người đàn ông, còn đàn bà như cô chỉ biết yêu và yêu hết mình cho người đàn ông của mình mà thôi. Cô lớn lên giữa lúc chiến tranh đang chụp xuống quanh cô nhưng cô không hiểu gì về nó. Cô là người đứng giữa hai làn đạn mà không biết mình thuộc về phía nào. Ở cô chẳng có cái gọi là ý thức chính trị gì hết. Cô chỉ biết cô thuộc về người đàn ông có đôi mắt rất hiền đã từng nhìn cô mê dại bên hồ nước cạn trên ngọn núi Cô Hồn năm nào. Cô đã có con với người ấy. Theo lẽ thông thường thì đã có thể coi cô là vợ của người ta được rồi. Nhưng nếu bây giờ người ấy trở về và đuổi mẹ con cô cùng bà Cả Ngật lên núi ăn lá dại mà sống thì sao? Người ấy có thế lực, có súng đạn trong tay, có sự thâm thù với đám giáo dân một lòng thần phục cha Phăng, ai biết được người ấy sẽ làm gì khi An Lạc thuộc về Việt Minh? Mến cứ tần ngần trước cửa trụ sở đóng tạm của Ủy ban quân quản lâm thời mà nghĩ vu vơ về người đàn ông thầm kín của cô. Cô nhìn những người lính đi đi lại lại kia, thấy họ nghiêm trang nhưng có nét gì đó lành lành, dễ gần, quân phục trên người họ trông không gớm ghiếc, nhức mắt như những kiểu quần áo mà anh cai Doãn vẫn mặc. Sức mạnh toát ra từ họ không hàm chứa sự tàn ác như đám dân binh mà Mến vẫn thường gặp. Mến có thiện cảm với họ dù Mến đang rất lo sợ sự có mặt của họ ở thị trấn này. Những luồng cảm xúc trái ngược trong Mến không ngừng hành hạ cô. Lý trí không soi sáng được điều gì khi mà khoảng tối trong lòng Mến được đám dân Nhà Thờ dát một thứ hắc ín suốt bao ngày qua. Người ấy chưa từng hứa hẹn điều gì với Mến cả. Người ấy cũng không nói những lời mà đàn ông thường nói với đàn bà khi phải lòng nhau. Người ấy cứ thế chiếm ngự Mến như không thể không ăn trái cam trước mặt, không thể không hái bông hoa trong tầm tay với. Mến chỉ còn biết đờ đẫn trước hành động của người ấy, chẳng kịp nghĩ suy hay nói đúng hơn, chẳng muốn nghĩ suy gì hết, cứ thả lỏng mọi cảm xúc cho sự luyến ái âm thầm mà chằm bặp, lặng lẽ mà ngốn ngấu, rụt rè, e ngại nhưng không thể không đi đến cùng...
Giữa lúc những kỷ niệm vừa đẹp đẽ vừa nặng nề ấy len lén trở về trong Mến thì người đàn ông hiện ra ngay trước mắt cô như một cơn mơ trong giấc ngủ tạm. Người ấy từ trong trụ sở Ủy ban quân quản bước ra, vừa đi vừa nói chuyện với hai người đàn ông mặc quân phục nữa. Họ có vẻ như đang tập trung bàn bạc một vấn đề gì đó quan trọng lắm. Mến dụi mắt nhìn lại cho kỹ rồi không kìm nén được, cô cất tiếng gọi:
- Nguyên Bình!
Đúng là Nguyên Bình thật. Anh đang cùng mấy đồng chí của mình dừng lại trước cửa ngôi nhà dùng làm trụ sở Ủy ban quân quản để chờ xe tới đón đi. Nguyên Bình nghe thấy tiếng gọi, quay ra nhìn Mến từ đầu đến chân, mày nhíu lại như cố nhớ xem người đang đứng trước mặt mình là ai, rồi anh bỗng bước nhanh tới bên cô, nói một cách dứt khoát:
- Cô nhầm người rồi. Tôi không quen biết cô.
Giữa lúc Mến sững sờ không thốt nổi một lời thì người đàn ông luôn án ngữ trong tâm tưởng cô đã quay gót trở lui. Mến không tin vào tai mình nữa, chỉ thấy con phố Tứ Phủ như tối sầm lại. Mến vội vịn vào gốc cây bàng gần đó để giữ cho mình khỏi ngã. Cô cảm thấy đất dưới chân như đang chao đảo. Phía sau cô có tiếng của một người đàn ông cất lên:
- Ai vậy Nguyên Bình? Người quen của cậu hả?
Giọng Nguyên Bình gạt đi:
- Không, không. Báo cáo thủ trưởng, cô ta nhầm người đấy ạ. Kìa xe đến rồi, mời thủ trưởng lên xe cho kịp họp.
Quả là có một chiếc xe đang trờ tới và cả đám bọn họ lục tục mở cửa xe, bước lên. Mến úp nón vào bụng, rảo bước về phía cuối phố. Mến đi như chạy, trong đầu như có cả một đàn ong đang bay. Đúng là Nguyên Bình rồi. Không thể có chuyện anh ta không nhận ra Mến được. Người đàn ông ấy đã cố tình phủi Mến đi như phủi một hạt bụi trong ký ức mà thôi. Có thể do công việc của anh ấy đang rất phức tạp nên buộc phải hạn chế tiếp xúc với những người quen biết cũ chăng? Hay anh ấy sợ Mến sẽ gặp họa giữa thời buổi nhốn nháo, hỗn quân hỗn quan này? Tất cả các ý nghĩ trong Mến đều không làm cô thỏa mãn, nó như những dòng sông có khởi nguồn mà không tìm ra tới biển cả. Nó làm cho đầu óc cô như muốn vỡ tung ra. Thái độ của người đàn ông ấy thật quá khó hiểu đối với Mến. Mến không muốn tin anh ta là một người tàn tệ, vô tình, vô nghĩa. Mến tìm mọi cách biện hộ cho cách cư xử lạ lùng vừa rồi nhưng không sao yên được lòng mình.
Giữa lúc ấy thời hạn cuối cùng của khoảng thời gian một trăm ngày đã đến.
Toàn bộ giáo dân khu Nhà Thờ đã dứt bỏ An Lạc ra đi. Bà Cả Ngật và Mến được cha Phăng cho ngồi lên xe chạy một mạch ra tới bến tàu. Họ bước xuống một chiếc tàu chiến vẫn dùng để chở xe tăng. Cha Phăng xếp cho ba bà cháu một góc boong ở trên tầng hai. Bà Cả Ngật trải chiếu xuống mặt boong rồi mắc chiếc võng gai lên cho mẹ con Mến nằm. Cha Phăng ở một phòng riêng trên tầng ba của con tàu. Thỉnh thoảng cha lại xuống boong bế thằng nhỏ con Mến, đi đi lại lại giữa các tầng, nói những lời âu yếm với nó, cho nó những thứ bánh trái mà người ta dâng lên cha. Thằng bé bụ bẫm, đáng yêu lắm. Quần áo nó mặc trên người là thứ vải nhung lót lụa do chính tay cha nhờ mua ở mấy hiệu vải lớn bên phố. Cổ chân nó đeo lục lạc bằng bạc cũng do chính tay cha tặng. Nó có đôi mắt đẹp nhưng buồn. Nó không khóc, không cười, ai bế cũng được, riêng với cha Phăng nó tỏ ra khá quyến luyến.
Buổi chiều hôm đó, Mến ôm con trong lòng mà mắt không rời bến cảng. Mến đã nhận ra một dáng dấp quen thuộc. Phải, vẫn là người đàn ông ấy. Anh ta đang đứng dưới chiếc dù che tạm nơi đầu cầu cảng, lúc thì lật lật sổ sách để trên bàn, lúc quay ra trao đổi bàn bạc gì đó với mấy người xung quanh. Họ đều mặc quân phục cả. Thái độ của họ khẩn trương, nghiêm túc lắm, cả một chút lạnh lùng nữa. Bỗng Mến nhìn thấy từ phía ngoài cổng cảng hàng đoàn lính Pháp và lính Việt nối đuôi nhau tiến về chỗ mấy con tàu đang đỗ. Nguyên Bình và những đồng chí của anh đang làm những thủ tục cuối cùng cho đội quân thất trận xuống tàu rút đi. Anh là người chiến thắng. Trong nỗi mừng vui này anh chưa biết là mình còn có một cậu con trai nữa. Anh cần phải biết điều đó. Và Mến đã gào lên:
- Nguyên Bình! Nguyên Bình!
Nguyên Bình đang bước từng bước chậm rãi trên cầu cảng. Tiếng gọi của Mến làm anh sững lại. Mến giơ cao đứa bé lên cho anh ta nhìn thấy. Nhưng anh ta đã lại bước đi về phía bờ kia của cầu cảng, khuất sau những người lính Pháp đang xếp hàng xuống tàu. Mến lại gọi:
- Nguyên Bình! Nguyên Bình!
Tiếng gọi của Mến chỉ làm một người duy nhất đang đứng trên mặt boong gần đó, giật mình!