Chương 7
Khi thằng Đức được vài tuổi thì mợ lại chuyển về bộ phận nấu ăn của Cửa hàng ăn uống dịch vụ Ngã Năm. Cứ vài ba ngày mợ lại mang về đầy một cặp lồng mỡ. Có hôm mang theo cả một bịch tóp mỡ to. Tóp mỡ là thức ăn rất được ưa chuộng thời ấy. Từ tóp mỡ có thể chế biến ra nhiều loại thức ăn khác. Nào băm nhỏ cho vào sốt với mắm tôm, với cà chua, với các loại canh, nào trộn với trứng để tráng, nào cho lẫn vào dưa chua kho với cá, nào dùng để rang cơm nguội, hoặc đơn giản, đảo lại trên chảo một lần nữa rồi cứ thế chấm mắm ăn với cơm. Tóp mỡ nhà Minh Việt thường ăn không hết, thỉnh thoảng mợ lại dúi cho nhà hàng xóm. Đó là những nhà không có người trong biên chế, không có tiêu chuẩn tem phiếu. Với họ, mỡ lợn là thứ thèm kinh niên. Vì thế nhận dúm tóp mỡ mợ đưa cho, những nhà ấy nhìn mợ cảm động rớt nước mắt. Mợ chỉ có thể xẻ chia được với họ vài ba miếng tóp mỡ thế thôi, còn mỡ nước thì phải gom lại để bán. Mợ thường bán mỡ cho một người ở trong xóm Khơ-me. Sau này mợ giao việc đó cho Minh Việt. Lần đầu tiên đặt chân vào xóm Khơ-me Minh Việt rất ngạc nhiên. Gọi là xóm Khơ-me nhưng cả xóm chỉ có một người Khơ-me duy nhất, đó là cái người vẫn thường mua mỡ nước của mợ. Nghe bố kể lại, vào những năm cách đây đã lâu có một trăm thiếu niên người Khơ-me được đưa về đây sinh sống. Bố mẹ họ là những nạn nhân của chiến tranh, họ được chính phủ ta nhận đưa về đây nuôi nấng. Đất nước họ ở đâu, quê quán, làng mạc của họ ở đâu, không ai biết cả, chỉ biết là họ cũng như những con em đồng bào miền Nam, là những người bị kẻ thù xua đuổi và bắn giết, họ cần được giúp đỡ. Trong số một trăm thiếu niên đó có một thiếu nữ. Sau hơn chục năm sinh sống ở An Lạc, vào một đêm nọ, tất cả những người Khơ-me đó lặng lẽ rút đi. Người ta kháo nhau rằng, những người đàn ông Khơ-me đó đã bí mật về nước để cầm súng chiến đấu trả thù cho bố mẹ họ. Không hiểu sao trong lần ra đi ấy họ lại để lại người phụ nữ duy nhất đã theo họ sang đây. Có người bảo chiến tranh không phải là công việc của đàn bà con gái. Có người lại bảo đúng hôm đoàn người rút đi thì cô gái bị ốm nên họ phải để cô ta ở lại. Có người khác nữa lại bảo họ hẹn ngày về đón cô gái nhưng khi về tới nước cả đoàn đã bị phục kích giết chết nên không còn ai nhớ tới việc quay trở lại nữa. Lại có người bảo trong số chín mươi chín người đàn ông Khơ-me đó có một người là chồng của cô gái. Người này là thủ lĩnh của đoàn nghĩa sĩ Khơ-me phục quốc, sau khi về nước, trở thành người rất có thế lực. Nhưng rồi trong một trận chiến người này đã bị bắn chết. Người phó của vị thủ lĩnh lên thay. Người phó này từng rất yêu cô gái Khơ-me đang sống ở đất An Lạc, nhiều lần cho người sang đón cô ta về nhưng cô ta không về. Người kể câu chuyện này còn khẳng định chắc như đinh đóng cột rằng chính người phó đã dùng súng ngắn của mình hạ sát chồng cô gái Khơ-me kia vì họ từng là tình địch của nhau. Tóm lại chuyện về xóm Khơ-me chẳng biết đâu mà tin. Theo lời chỉ dẫn của mợ, Minh Việt hỏi tìm đến nhà bà Khơ-me để đưa mỡ nước và lấy tiền chịu từ mấy lần trước. Cả xóm này đều gọi người đàn bà đó là bà Khơ-me, vì thế Minh Việt tìm nhà bà ta không khó khăn gì. Minh Việt cứ nghĩ đó là một người đàn bà đã già, ít ra cũng phải bằng tuổi mợ. Nhưng khi giáp mặt Minh Việt không biết phải gọi cái người đang đứng trước mình là cô, là bác, là bà hay là chị? Người phụ nữ này chỉ trạc hai sáu, hai bảy tuổi thôi. Chị ta mặc một chiếc váy đen có thêu những hình tháp bí ẩn bằng chỉ màu. Áo chị ta mặc màu trắng ngà. Cả áo và váy đều cũ kỹ, sờn mòn nhưng sạch sẽ. Khuôn mặt của chị xương xương, cằm hơi nhọn, đôi môi mỏng và tươi. Bên cánh mũi của chị cũng có một nốt ruồi nhưng không to như của mẹ Mến. Chị ta dường như không để ý đến thái độ ngạc nhiên và xét nét của Minh Việt, cứ nói cười luôn miệng, cởi mở và thân tình như đã quen biết từ lâu. Trong bếp nhà chị tỏa ra một thứ mùi rất thơm, mùi của bánh quế. Thì ra những cặp lồng mỡ nước được đưa đến đây là để làm thứ bánh rất quyến rũ trẻ con này. “Vào đây đã, em là con lớn của bác Nguyên Bình à? Ôi, con trai mà giống mẹ thế, xinh trai quá!” - Bà Khơ-me khen Minh Việt thế. Trong khi Minh Việt có ý sốt ruột chờ lấy tiền mang về cho mợ thì bà Khơ-me lại chả nói năng gì đến chuyện ấy, cứ quay ra hỏi những chuyện về bố, mợ và các em. Rồi ép Minh Việt ngồi xuống ghế “chờ chị một tí, một tí thôi”. Sau một tí ấy là xấp bánh quế còn nóng được mang từ bếp ra, đặt trên một chiếc đĩa có hình dáng rất lạ. “Ăn đi, Việt ăn đi, chị vừa làm bánh bằng mỡ của Việt mang đến đấy”. Minh Việt gãi gãi đầu bối rối. Thứ bánh quế này cái Vân rất thích. Thường thì Minh Việt chẳng bao giờ được ăn vì đó là thứ bánh dành cho trẻ con. Minh Việt là anh lớn trong nhà, ai lại ăn tranh với cái Vân thứ bánh ấy. Nhưng bây giờ thì Minh Việt được ăn cả một đĩa, do người ta mời hẳn hoi, rất đàng hoàng. Mùi bánh quế quệt mỡ bốc lên thơm ngậy. Nhưng mà Minh Việt còn chưa biết bà Khơ-me tên là gì? Chắc chắn chị ta phải có một thứ tên gọi nào đấy, thậm chí đó là một cái tên gợi nhắc sự trẻ trung và duyên dáng. Minh Việt liền chủ động hỏi:
- Cô ơi, tên cô là gì?
Bà Khơ-me tủm tỉm cười:
- Không muốn gọi là Bà Khơ-me nữa à?
Minh Việt bảo:
- Cháu nghĩ là cô phải có một cái tên khác, tên thật của cô ấy mà.
Người đàn bà đang ngồi trước mặt Minh Việt bỗng tắt ngay nụ cười trên môi. Chị ta cúi nhìn những hình tháp thêu trên váy, nói như thầm thì với chính mình:
- Ừ, chị có tên chứ. Tên chị là Vi Lay. Những ngày đầu mới sang đây mọi người thường gọi chị là Vi. Có một người bây giờ vẫn còn gọi chị là Vi, ấy là mẹ Việt. Thôi, Việt cầm tiền về cho mẹ đi. Bánh ăn không hết thì mang về cho em.
Bà Khơ-me gói chỗ bánh quế mà Minh Việt chưa kịp ăn vào giấy rồi ấn vào tay anh. Minh Việt không đưa chỗ bánh quế ấy về cho cái Vân mà mang lên Xóm Đáy cho Cói. Cói báo cho Minh Việt tin cô đã chính thức trở thành tự vệ trực chiến phòng không của xí nghiệp Hai Bảy tháng Bảy. Vậy là không khí chiến tranh đã tràn tới mọi ngóc ngách của thị trấn An Lạc. Minh Việt cũng đã gia nhập tự vệ khối đường phố. Thị đội hướng dẫn cho các lực lượng tự vệ lập nhiều ụ pháo phòng không, có một ụ ở cổng Xí nghiệp Hai Bảy tháng Bảy và một ụ ở phía sau Nhà thờ. Minh Việt sẽ trực chiến ở ụ pháo Nhà thờ. Minh Việt bảo với Cói:
- Pháo anh sẽ chi viện cho pháo em.
Cói kể:
- Hôm qua tập vác đạn thử, em vác được nặng nhất, chạy cứ băng băng. Các chú ở Xí nghiệp bảo em có sức khỏe tốt, mai này sẽ xét cho vào làm công nhân hàn. Nhưng mà đội mũ sắt buồn cười lắm. Cứ sụp xuống đầu, nặng ơi là nặng! Mai bọn em sẽ tiếp tục tập phất cờ, tập nạp đạn, tập lấy phần tử...
Minh Việt bảo:
- Ở chỗ anh có chuyện ghê lắm, hôm đào công sự lôi lên toàn xương người.
Cói trợn tròn mắt:
- Thế á? Eo ơi, kinh nhỉ?
Đúng là khi đào công sự cho ụ pháo Nhà thờ, tự vệ đường phố đã liên tục đào phải xương người. Có những bộ xương thiếu chân, thiếu tay, đào tìm mãi vẫn không thấy. Có bộ xương lại chẳng thấy đầu đâu. Mọi người hoang mang không dám nhập tiểu. Sau bác Mộc bảo: “Thôi, đào tìm làm gì nữa, đây toàn là những chiến sĩ của ta bị địch bắt, chúng nó cắt chân, cắt tay rồi mới đánh cho chết, làm sao tìm đủ được xương cốt. Cứ nhập tiểu đi, để tôi khấn xin anh em thông cảm cho”. Lần đầu tiên nhìn thấy xương người, Minh Việt cứ thấy gai gai, ơn ớn. Dân đổ đến xem chật cứng. Ông Mật rỗ bảo: “Tí nữa thì tôi cũng nằm trong đống xương này rồi”. Sang đến hôm sau có người đến nhận cốt người thân. Cũng là nhận vu vơ thôi chứ toàn xương với cốt thế kia biết đâu là người nhà mình? Minh Việt tìm thấy cả những đoạn dây trói bằng nhựa lồng trong ống xương tay. Nhiều người khóc lóc, kêu gào thảm thiết rồi ngước nhìn đôi mắt quắc ánh căm hờn về phía tòa thánh đường bỏ không. Bác Mộc quyết định cho khai quật tiếp phần hầm mộ dưới nền đất nhà thờ. Người ta tìm thấy rất nhiều thứ nhưng xương người thì không có một mẩu nào cả. Thị ủy đứng ra tổ chức lễ truy điệu cho những người chết rồi đưa họ về an táng ở nghĩa trang liệt sĩ. Hai mươi tám tấm bia mộ được dựng lên nhưng tất cả đều ghi là Liệt sĩ vô danh.
Sau lễ truy điệu, Minh Việt cứ tha thẩn đi lại trong khu thánh đường bỏ không. Anh trèo cả lên tháp chuông, chui xuống hầm mộ, vòng ra phía nhà nguyện, ngó cả vào nhà xứ. Minh Việt bỗng bần thần nghĩ tới việc chính tại nơi đây mình đã ra đời. Hai bên hông nhà thờ vẫn còn vài ba gốc liễu buông những hàng lá thưa mỏng. Nghe bảo trước đây dương liễu được trồng hai hàng thẳng tắp, lá xanh mướt bốn mùa, cha Phăng vẫn bẻ lá để rẩy nước làm phép thánh cho những đứa trẻ sơ sinh. Bây giờ hai hàng liễu chỉ còn vài nhánh thô kệch, cong queo, gập mình bên những bức tường xám mốc của Nhà thờ. Cây liễu nào cha Phăng đã bẻ để làm lễ rửa tội và đặt tên thánh cho Minh Việt? Không, Minh Việt không thể tin nổi cuộc đời mình đã từng có những tháng ngày sống trong môi trường đậm đặc màu sắc tâm linh như thế này. Trên những mảng tường nhà thờ vẫn còn những nét vẽ diễn tả những hình người ngộ nghĩnh, xa lạ, bí ẩn mà ám ảnh. Tất cả đều bị mạng nhện giăng kín. Không có hình vẽ nào giống khuôn mặt mẹ Mến cả. Không có hình vẽ nào mang dáng dấp bà Quản. Không có hình vẽ nào gợi nhắc cái quá khứ xa xưa chưa kịp đi vào tiềm thức của Minh Việt. Và tất nhiên, cũng không có hình vẽ nào làm Minh Việt liên tưởng đến những bộ xương người mà anh vừa mới trực tiếp đào lên từ bãi đất sau vườn Nhà thờ. Thế mà Minh Việt cứ thấy trong người có một cảm giác rất lạ. Dù ít dù nhiều qua những câu chuyện bà Quản kể thủa ấu thơ, Minh Việt vẫn lưu giữ đâu đó trong sâu thẳm máu thịt mình một sự liên quan đến khu thánh đường này. Nhưng cái sự liên quan ấy nó như thế nào, cụ thể là cái gì thì Minh Việt chịu, không thể nào gọi tên ra được.
Toàn bộ khu nhà nguyện, nhà kho, nhà xứ đều bỏ không hoặc đổ sụp. Đám dân mới chẳng mấy khi mò vào nhà thờ, chỉ có bọn trẻ con tìm vào đây chơi trò đánh trận giả. Ngày còn nhỏ Minh Việt cũng đôi ba lần vào đây để mót cam và đào củ chuối. Nhưng bây giờ thì khu vườn chẳng còn thứ gì ăn được, toàn cây tạp mọc xen kẽ với những đống rác to lù lù, chuột chạy suốt ngày đêm. Trận địa pháo phòng không được đặt ngay khu đất sát liền với mảnh vườn hoang của nhà thờ. Từ những ụ pháo này có thể nhìn qua khu đầm rộng thấy nóc đền Bà Sùng lấp ló phía sau rặng tre bao bọc thôn Khúc Trì. Ngày xưa bố Minh Việt đã đánh nhau với bọn lính Com-măng-đô đóng trong ngôi đền đó và trong số những vết sẹo ở chân ông bây giờ vẫn còn găm một mảnh đạn chưa lấy ra được. Bố còn bảo: “Cái Nhà thờ ấy ác thật, nếu không có đám dân binh bất ngờ vượt đầm lao sang thì nhổ được cái bốt Bà Sùng rồi”.
Sau cái hôm đào xương người được độ nửa tháng thì các trận địa phòng không gặp báo động. Đó cũng là ngày trận địa pháo của Minh Việt có dịp khai hỏa.
Bắt đầu là một hồi còi rú trên đỉnh núi. Rồi kẻng báo động vang lên. Tiếng kẻng chạy suốt từ đầu núi Cô Hồn, kéo một vệt dài xuống ngã Năm, vòng qua phố Tứ Phủ, dốc ngược lên khu Xóm Đáy. Rồi không phân biệt nổi kẻng ở khu nào gõ nữa. Cả thị trấn đều ran lên bởi tiếng kẻng, tiếng còi báo động, tiếng loa tay. Bom bỏ bên Phòng rồi. Người ta thì thầm vào tai nhau những thông tin khủng khiếp. Những tiếng ầm ì từ xa vọng về khiến người dân thị trấn lo lắng. Không biết đến khi nào thì bom nó bỏ xuống chỗ mình? Không biết pháo của mình có bắn trúng được máy bay của nó không? Nghe bảo trong núi Cô Hồn còn có cả tên lửa, nếu pháo bắn không trúng thì tên lửa sẽ phụt ra, chắc chắn máy bay nó sẽ rụng ngay tắp lự. Nhưng mà trúng thì nó sẽ như thế nào nhỉ? Nó vỡ toác ra hay là nó cháy thành tro bụi? Họa lỡ nó rơi vào nhà mình thì sao? Thế cho nên tốt hơn hết là khi nghe thấy tiếng kẻng cứ chui ngay xuống hầm. Cả nhà Minh Việt cũng chui xuống hầm. Bà nội bế cu Đức, thằng Đình dắt cái Vân, đứa nào vào góc của đứa ấy, như chỉ định từ trước của bố. Hầm nhà Minh Việt là hai cái cống bi nối liền nhau thông vào với một khoảnh hầm chữ A lợp mái sắt. Hai cái cống bi là do bố xin được ở dưới công trường, còn sắt lợp mái hầm là do Minh Việt mò vớt ở dưới sông, phía sau Xí nghiệp Hai Bảy tháng Bảy. Bố và Minh Việt đã chuẩn bị sẵn chỗ trú ẩn cho cả nhà, lại dặn dò cẩn thận từng người, hễ có kẻng báo động cứ chạy ra hầm, chờ kẻng báo yên mới được lên. Ban ngày bố, mợ, Minh Việt đều không có nhà, mọi sự giao phó tất cho bà nội. Thằng Đình cũng đã lớn, có trách nhiệm trông cái Vân và giúp bà đậy, mở nắp hầm. Minh Việt liên tục trực ở ụ pháo. Cứ tưởng tập luyện thế thôi chứ chắc gì đã đánh nhau. Thằng Mỹ nó ở mãi trong miền Nam, bay ra được đến đây cũng còn lâu. Thế nên hôm ấy khi nhìn thấy chiếc máy bay nó bay qua đầu Minh Việt cũng hơi hoảng. Nhưng rồi khẩu đội trưởng ra lệnh cho mọi người vào vị trí và hạ lệnh bắn thì Minh Việt cũng quên biến mất cả sợ hãi. Nó chỉ có mỗi cái máy bay, lại ở tít trên cao kia, còn toàn bộ dưới mặt đất này là của mình, sợ đếch gì, cứ nhằm cho kỹ, bắn cho nó tan xác ra chứ việc gì mà phải còi, kẻng ầm ĩ cả lên để nó ngồi trên đấy nó nhìn thấy mình chạy tán loạn nó cười cho. Mà nghe tiếng đạn nổ mới sung sướng làm sao. Rú... đoành!, rú... đoành! Đầu đạn kéo theo một vệt khói dài, vẽ vào khoảng không rồi tan biến đi, tỏa mùi diêm sinh nồng nặc. Khẩu pháo mà Minh Việt tiếp đạn vẫn khai hỏa chậm hơn pháo của Xí nghiệp Hai Bảy tháng Bảy. Đạn ở phía ấy bắn lên trời rồi các pháo thủ ở chỗ Minh Việt mới lấy được phần tử. Các anh trên Thị đội bảo điều ấy là đương nhiên vì trận địa phòng không bố trí theo kiểu đánh chặn địch bay từ hướng biển vào. Ụ phòng không Hai Bảy tháng Bảy đặt ở cửa sông nên sẽ phát hiện ra máy bay địch trước. Mà không chỉ có hai trận địa pháo phòng không của tự vệ Xí nghiệp và tự vệ Đường phố bắn mà còn có cả pháo ở chân cầu Lãng Tiên, pháo ở trên núi Cô Hồn, pháo ở đằng sau nhà Ủy ban, pháo ở khu Thị đội. Pháo to, pháo nhỏ, mười hai ly bảy, RBD, các loại cối, các loại súng bộ binh... đồng loạt nhả đạn. Nhưng chỉ được vài loạt đã không còn mục tiêu nữa để mà bắn. Chiếc máy bay lượn một vòng ngắn ngủi rồi vút ra phía cầu Lãng Tiên và loáng cái đã biến mất làm mọi người chưng hửng, không ngờ trận đánh diễn ra chỉ có tí tẹo thế. Kẻng báo yên lại rộ lên. Mọi người đổ ra đường chuyện trò bàn tán sôi nổi, có phần rôm rả nữa. Thực ra người dân thị trấn đâu có xa lạ gì với những cuộc chiến “đất đối không” như thế này. Giai đoạn sáu tư, sáu tám thị trấn An Lạc cũng đã từng là một cái chảo lửa đấy thôi. Chẳng qua dăm năm trở lại đây người ta quen với sự yên bình rồi. Người lớn thì đã muốn quên còn trẻ em thì chưa kịp nhớ những gì xảy ra hồi ấy. Bây giờ thoáng chốc tất cả lại hiện về như ngày nào. Người lớn lập tức nhớ lại những cảnh hãi hùng và nghĩ ngay đến chuyện phải làm gì để thích ứng với việc chiến tranh đã lại nổ ra ngay trên đầu mình. Trẻ con thì mở căng đôi mắt âu lo và tự giải thích theo kiểu của chúng. Chỉ có lứa Minh Việt là sẵn sàng chờ đợi và sẵn sàng ngẩng mặt lên nhìn trời, mặc dù cũng có đôi chút e dè ban đầu. Bây giờ thì không còn gì để mà phải e dè nữa. Với một biển lửa giăng sẵn như thế này, cái tàu bay sắt lơ lửng trên trời kia chẳng có gì đáng phải lo sợ cả. Minh Việt đã tự lẩm bẩm nói một mình như thế và mắt trước mắt sau, bỏ công việc lại cho đồng đội, chạy một mạch lên chỗ Cói. Cói đang tắm ở chỗ cửa sông. Minh Việt nhảy ùm xuống, ngay bên cạnh Cói, khỏa nước tung tóe, quẫy sóng ầm ầm với một niềm sung sướng tràn trề. Minh Việt đang có cái cảm giác của người chiến thắng. Minh Việt thấy như chính mình là người duy nhất đã đuổi được chiếc máy bay kia ra khỏi vùng trời An Lạc. Cói cũng đang mang tâm trạng như của Minh Việt. Và hai người thả sức trút niềm phấn khích xuống vùng nước trước cửa sông. Họ nô giỡn như hai con cá, hả hê và bung phá, ào ạt và mê mải, thích thú và say sưa, cho đến khi Minh Việt chợt nhận ra sự quá đà, vội rẽ nước lượn vào bờ. Hành động của Minh Việt quá bất ngờ và cương quyết, như thể chỉ chậm một chút nữa thôi anh sẽ bị con Hà Bá dưới dòng nước kia cuốn vào cõi chết, không sao gỡ ra được. Nhưng Cói không cho Minh Việt thoát dễ dàng thế. Minh Việt vừa xoãi mình lao đi thì Cói túm ngay lấy cẳng chân của anh lôi lại. Cói ôm chặt lấy đầu Minh Việt, ghì mặt anh vào bộ ngực dập dềnh êm ái của mình. Minh Việt cảm nhận được sự mềm mại của bầu vú Cói sau lớp vải sũng nước. Cói có một bộ ngực to quá khổ, các thiếu nữ An Lạc không ai có bộ ngực đầy tràn như thế. Bộ ngực mà Minh Việt đang úp mặt vào đấy như hai hòn đá lửa bắt cháy các đầu dây thần kinh của anh. Trong người Minh Việt bỗng có một sức nóng ghê gớm trào lên các thớ thịt, tỏa ra trên mặt da. Nhưng cũng ngay lập tức hình ảnh cái Lý như một dòng nước lạnh chạy dọc người Minh Việt. Cái bụng buộc chặt bởi một bó những khăn khố của nó như còn đang hiển hiện trước mắt anh. Cả cái tư thế chết ngồi của nó nữa. Không được! Khủng khiếp lắm! Sự thả lỏng thân xác vào lúc này sẽ là nguyên nhân dẫn đến kết cục bi thảm như cái Lý. Còn bố nữa. Bố cũng đang phải ngậm hờn, ngậm tủi với những công việc nặng nhọc ở dưới huyện miền biển kia. Cái giá phải trả cho những phút giây chấp chới như thế này là vô cùng lớn, Minh Việt không đủ sự nhẫn nại để trả đâu. Minh Việt cố sức vùng vẫy ra. Nhưng Cói cứ ôm cứng lấy anh. Hai đứa vào đến bờ thì mệt lả. Minh Việt nằm vật trên lớp cói bám đầy phù sa. Cói nằm vắt lên người anh. Cói thở hổn hển nhưng ánh mắt ngời lên những tia mê dại. Rồi Cói lại quắn lấy người Minh Việt, phả lên mặt anh những cái hôn cuồng nhiệt. Bỗng Cói bật hàng cúc áo ngực ra. Cói nâng mặt Minh Việt lên, ấp vào bấu vú trinh nguyên ấy. Bụng dưới Minh Việt đau tức. Các thớ thịt như đông đặc lại. Cả chút lý trí cuối cùng cũng không còn chỗ để giãn nỡ nữa. Minh Việt chồm lên người Cói. Lời Cói dồn dập bên tai Minh Việt:
- Đừng sợ! Sẽ không sao đâu.
Minh Việt vục đầu vào giữa hai khe vú của Cói. Rồi anh ngậm chặt lấy đầu ti hồng hồng như cánh sen non đang nhấp nhô trên ngực Cói. Cói ghì chặt lấy bờ vai Minh Việt. Hai bàn tay Cói vuốt xuôi xuống dưới lưng rồi bấu chặt lấy eo hông anh. Tay Minh Việt thả sức lần mò, khám phá cơ thể Cói. Đúng lúc Minh Việt đang thở dốc, thân nhiệt đã bốc cao đến độ tan chảy cả cái hình thể rừng rực giới tính thì tiếng còi hú trên đỉnh núi Cô Hồn bỗng vọng tới, réo khắp triền sông. Rồi kẻng phòng không từ xa lan tới, rõ dần, thôi thúc, dồn dập. Mớ âm thanh hỗn loạn này lập tức đẩy lui mọi cảm xúc đang dâng tràn ngập trong người Minh Việt. Cói cũng lỏng người ra, rồi rất nhanh, lách khỏi vòng tay Minh Việt. Cói vừa đóng lại cúc áo vừa hớt hải chạy về phía Xí nghiệp Hai Bảy tháng Bảy. Vừa chạy Cói vừa như muốn nói điều gì đó nhưng không nói được, chỉ đưa tay chỉ chỉ lên trời, rồi lại chỉ về phía Xí nghiệp. Minh Việt hiểu là ai phải trở về với vị trí chiến đấu của người ấy, chuyện đang dang dở sẽ được tiếp tục vào lúc khác. Minh Việt gật gật đầu và mặt bỗng dưng đỏ dừ.
Minh Việt không vội vàng như Cói. Anh ra mép sông gột rửa qua đầu tóc rồi mới chạy về phía Nhà thờ. Những tiếng nổ bắt đầu rộ lên ở khoảng này khoảng kia của thị trấn. Và những cột khói bốc lên, đậm đặc ở phía cầu Lãng Tiên. Chạy về gần tới Nhà thờ thì Minh Việt cảm nhận được một cái gì đó thực sự là chiến tranh đang bủa vây xung quanh mình. Tiếng nổ lúc này trở nên dai dẳng và khó chịu. Trên trời không phải chỉ một mà từng tốp máy bay đang tuần tự lao vào bắn phá thị trấn. Chúng không vội vàng, hốt hoảng, hay cúp đuôi chạy một mạch như cách diễn đạt của bảng tin đường phố mà hùng dũng tiến vào, thản nhiên nghiêng mình trút bom, thản nhiên phụt đạn xuống các trận địa phòng không. Chúng thực hiện công việc của mình một cách cần mẫn và kiên trì.
“Cháy rồi! Cháy rồi!”.
Bỗng có tiếng hô của ai đó bật ra từ dưới hố trú ẩn cá nhân. Tiếng hô ấy ngay lập tức kéo thành một chuỗi hò reo vui mừng. Nhưng những tiếng reo hoan hỉ ấy không kéo dài được lâu. Trên trời vẫn sầm sập những bất trắc và chỗ này chỗ kia của thị trấn vẫn bùng lên những cột khói hình nấm trước khi xòe ra như một đám mây đen. Minh Việt lao vào dòng người tiếp đạn đang hối hả dưới chân hào quanh ụ pháo. “Bê năm hai! Kìa bê năm hai!”. Những tiếng kêu ngạc nhiên, cả một chút lo âu ập vào tai Minh Việt. Minh Việt đang nấp ở dưới hào cũng cố ngẩng lên nhìn xem cái “Pháo đài bay” của thằng Mỹ nó thế nào. Trong các buổi huấn luyện các chú ở thị đội vẫn thường hay nói nhiều về cái thứ máy bay này. Bây giờ thì cái thứ ghê gớm ấy nó đang ở trên đầu kia. Và nó bay về phía cầu Lãng Tiên. Ối trời ơi, cái bụng nó nhả ra sao mà nhiều bom thế kia? Chỉ cần một quả thôi là cây cầu sẽ bay ngay khỏi hai mép sông, đổ xuống nhiều thế kia thì đến cả con sông cũng biến mất chứ nói gì đến mấy sợi cáp treo mỏng mảnh vắt qua đôi bờ?
Hướng...
Tốc độ...
Cự ly...
Điểm xạ dài...
Bắn!
Điểm xạ ngắn...
Bắn!
Bắn!... Bắn!... Bắn!
Tiếng hô của người chỉ huy bắn trên mặt hào vẫn tiếp tục không ngơi. Thời gian trôi đi rất nhanh. Khi tất cả mọi tiếng nổ đều ngưng thì mọi người vẫn trong tư thế sẵn sàng nổ súng và chưa nghĩ là trận chiến đã kết thúc. Sự im ắng như lớp màn vô hình đè nặng lên tâm trí mọi người một lúc khá lâu. Cho đến khi tiếng còi trên đỉnh núi Cô Hồn réo những hồi báo yên thì mọi người mới dám ồn lên, phá vỡ khoảng không ngột ngạt bao phủ quanh mình.
- Sập cầu Lãng Tiên rồi!
- Cả trại lợn bị trúng bom, gần hai trăm con chết!
- Ụ pháo Hai Bảy tháng Bảy bị tên lửa dập, chết cả trung đội tự vệ rồi!
Những thông tin đầu tiên đưa đến làm Minh Việt bàng hoàng. Mọi người đang hối hả với việc dập tắt các đám cháy, đào dỡ những mảng tường sập, cấp cứu người bị thương, tìm kiếm những người mất tích. Minh Việt băng mình bơi qua khu đầm nước phía sau nhà thờ, men theo lối tắt cắm cúi chạy tới chỗ ụ pháo phòng không Hai Bảy tháng Bảy. Cả một vòng người đang bao quanh lấy khu đất biến dạng toang hoác. Không thể nào hình dung ra nổi vài giờ trước đây chỗ này là một trận địa với những đường hào ngang dọc, những ụ đất cao thấp, những nòng súng to nhỏ, những hòm đạn chất chồng, nhấp nhô. Một hình địa khác đã được thay thế. Thảm khốc và bi thương. Khẩu pháo đã bị ném ra ngoài công sự, nòng pháo cong gập lại, lá chắn pháo cong queo. Máu thịt trộn lẫn với đất cát, đá sỏi. Người ta đang lùa xẻng, bổ cuốc, bới tay để tìm từng xác người trong đống đất lở loét, tơi tả. Năm xác, sáu xác, tám xác, chín xác... Từng khuôn mặt được nhận diện. Có những khuôn mặt không bao giờ còn nhận diện được. Có những thân hình đàn ông, đàn bà. Nhưng cũng có những thân hình không sao biết được là đàn ông hay đàn bà. Không tìm thấy Cói mặc dù chính Minh Việt đã lăn xả vào đào bới. Minh Việt không tin rằng xác Cói đã tan ra, đã không còn nguyên vẹn hình hài, đã lẫn vào với đất cát, thậm chí đã bay xuống sông và trôi ra biển. Nhất định Cói phải còn đâu đó, có thể là đang nằm úp mặt vào lòng đất, có thể là đang ôm chặt lấy một hòm đạn, có thể bị mảnh đạn cứa ngang bụng, có thể mất một bên đùi hoặc một cánh tay, nhưng bộ ngực phải còn, eo lưng phải còn, khuôn mặt phải còn. Vòng tay của Minh Việt còn chưa kịp ôm hết tấm thân của Cói kia mà. Làm sao Cói có thể tan ra từng mảnh được?
Nhưng việc đào bới phải dừng lại vì tiếng còi trên núi Cô Hồn đã lại cất lên rồi. Người ta vội vàng đưa những xác người đi, vội vàng cấp cứu những người còn đang dở sống dở chết và vội vàng nhảy xuống hào, xuống hố cá nhân để tiếp chiến trận mới.
Trời tối sập xuống. Toàn thị trấn mất điện. Đây đó ánh đèn bão và đèn Hoa Kỳ ẩn hiện trong đêm như những đốm lửa ma trơi. Tiếng nổ lại vang lên nhưng nó không thành dàn, thành chuỗi như buổi chiều mà đơn lẻ, rời rạc. Cũng may là trận chiến không kéo dài. Sau khi còi báo yên cất lên, lập tức có lệnh cho trung đội tự vệ đường phố nghỉ ngơi, thay ca. Minh Việt mệt bã người nhưng không muốn rời khỏi hào. Nhìn sang các đồng đội cũng đều giống anh cả. Hình như họ đang cố chờ để đánh tiếp. Đến khi trung đội trưởng quát lên họ mới lục tục đứng dậy. Trong bóng tối nhập nhòa, Minh Việt nhìn thấy thằng Tịnh cùng trung đội dự bị của nó đang lầm lũi đi vào thay thế vị trí trực chiến. Trông thằng Tịnh cũng rất mệt mỏi. Cả ngày qua nó phải có mặt ở những chỗ vừa bị bom để đào bới, khuân vác, cứu hỏa, cứu thương. Dân thị trấn không ai còn có thể ngồi yên được.
Cả thị trấn nhớn nhác.
Toàn dân thị trấn băng mình lao đến những đám cháy khét lẹt ngay sau khi dứt tiếng súng phòng không.
Bây giờ thì đêm đã ập xuống, một đêm không thể ngủ được, một đêm đầy lo sợ, khắc khoải chờ đợi ánh ngày.
Đêm của căm thù và nước mắt.
Trời chưa sáng bố đã đạp xe về, hối hả giục bà và các em thu dọn đồ đạc để sơ tán về quê. Bố bảo:
- Chết thật, bố chủ quan quá, không đưa bà và các em đi trước. Tình hình còn căng lắm. Nhà ta chỉ được ở lại bố, mợ và Minh Việt thôi.
Mợ vừa đùm rúm các thứ cho bà mang đi vừa dấm dứt khóc. Trước đó mợ đã kịp tranh thủ nấu cho Minh Việt bát cháo. Mợ bảo:
- Chả biết thế nào đâu con ạ. Thôi thì chỉ còn biết trông chờ vào ông bà mình linh thiêng phù hộ cho cả nhà qua cái đận này.
Minh Việt húp được nửa bát cháo thì cu Đức đòi ăn cùng. Mợ mắng cu Đức, bắt nó ra xe cải tiến cho anh Đình, chị Ánh kéo đi về quê. Minh Việt đưa tay ra giữ nó lại, nhường cho cu Đức ăn hết bát cháo rồi mới bế nó ra xe. Cái Ánh và thằng Đình mỗi đứa một càng, bà nội đẩy đằng sau. Trên xe là cái Vân, thằng Đức và một đống những bao bố, chăn chiếu. Ngoài đường cũng có nhiều nhà đẩy xe đi như thế. Có lẽ sau trận bom hôm qua, không nhà nào còn dám ở lại nữa. Dòng người sơ tán mỗi lúc một đông. Bố nhìn hút theo chiếc xe của bà rồi mới lên yên xe đạp đi. Bố lại phải xuống huyện để tham gia đánh trả chiến hạm Mỹ từ ngoài biển bắn vào. Mợ cũng hớt hải đến cơ quan để vào “chiến dịch sản xuất”. Minh Việt khóa chặt cửa nhà rồi chạy lên chỗ trận địa pháo Hai Bảy tháng Bảy. Người ta đã phát hiện ra thêm hai xác chết nữa ở bãi cói ven sông. Đều là những xác bị cháy nham nhở. Họ là những người bị bỏng cho đến chết. Trong hai người ấy không có Cói.
Như có một linh cảm đặc biệt, Minh Việt liền chạy đến khúc sông chiều hôm qua anh vừa tắm cùng Cói. Chỉ vài bước chân sau bờ đê là thấy vết máu. Minh Việt lần theo dấu máu chạy xuống bãi. Và anh nín thở khi nhìn thấy một đám vải dập dềnh bên mép nước. Minh Việt vội nhảy những bước dài trên đám bùn nhão nhoét, hướng tới chỗ đám vải đang bập bềnh, bập bềnh lên xuống theo mực nước. Từng đám máu lắng lại chưa kịp đông gặp phải những bước chân của Minh Việt, loang ra những vệt đỏ nhờn nhợt. Khi đám vải được lật lên thì Minh Việt kinh hoảng, bật ngửa người ra đằng sau, ngã ngồi xuống bùn.
Cói!
Cói biến dạng đến mức Minh Việt phải oẹ ra cả nửa bát cháo vừa kịp húp lúc sáng. Người Cói trương lên, căng chật trong lớp vải áo thô dày. Cả một khoảng ngực đẫm máu. Một bên ngực vẫn còn nhô cao sau lớp vải cháy. Bên ngực còn lại là một vết lõm ghê rợn, lổn nhổn những thớ thịt bầm đỏ. Và đôi mắt. Đôi mắt mở to hết cỡ, như lộn cả tròng ra ngoài, đờ dại, lạnh ngắt. Mái tóc hung vàng như một búi râu ngô bết lấy khuôn mặt lấm bùn vô cảm, không thần sắc. Tanh! Tanh khủng khiếp. Tanh lợm giọng. Minh Việt đạp chân trên bùn để lùi lại. Rồi Minh Việt lật người bò lết về phía chân đê. Có mấy bóng người đang chạy trên mặt đê. Minh Việt ú ớ kêu gào. Rồi Minh Việt lại nôn. Nôn thốc nôn tháo ra một thứ dịch vàng vàng trắng trắng, tanh chưa từng thấy. Hết dịch thì nôn khan. Nôn đến rát cả cổ họng. Và trong khi mọi người đổ xô xuống chỗ xác Cói thì Minh Việt lại ôm mặt khóc rưng rức. Khóc như trẻ con bị đánh đòn. Khóc như một lần sau cuối để không bao giờ còn được khóc nữa.
Xác Cói vẫn chưa phải là xác cuối cùng.
Những ngày sau đó người ta vẫn còn tiếp tục tìm kiếm. Tìm được người nào an táng người đấy. Vừa an táng vừa nổ súng chiến đấu. Không có ngày nào yên tiếng súng. Không có đêm nào không bắn lên trời những đường đạn đỏ rực. Không có sáng nào Minh Việt không đọc những dòng chữ viết trên bảng tin đầu phố Tứ Phủ. Những dòng tin giống nhau đến mức người ta chỉ cần thay đổi con số là trở nên nóng hổi.
Ngày, tháng, năm...
Địch đã đánh An Lạc 16 điểm với 220 quả bom phá, 206 đạn tên lửa, 49 quả bom bi mẹ và bắn 90 đạn pháo lớn, giết hại 78 người, làm bị thương 120 người, tàn phá, tiêu hủy nhiều nhà cửa, trường học, bệnh xá...
Minh Việt đã đọc những dòng tin đó với một thái độ rất khó giải thích. Vừa như thờ ơ lại vừa như khao khát. Vừa như bỏ mặc lại vừa như không thể không quan tâm. Và những dòng tin ấy cứ từng ngày từng ngày đi qua não bộ Minh Việt. Cho đến ngày thứ Một trăm chín mươi tám thì đột nhiên bảng tin không thay đổi con số nữa. Những dòng chữ ấy được giữ nguyên đúng hai mươi bảy ngày mới được xóa đi, thay vào đó là những tin tức về việc ký kết Hiệp định Pa ri.
Chiến tranh đã kết thúc trên bầu trời An Lạc. Với những thành tích xuất sắc trong thời kỳ tham gia tự vệ trực chiến phòng không, Minh Việt và thằng Tịnh được tuyển thẳng vào làm công nhân ở Xí nghiệp gạch ngói An Lạc. Đây là một xí nghiệp đã có từ lâu nhưng bước vào thời kỳ khôi phục lại thị trấn nó được mở rộng qui mô sản xuất nên phải tuyển thêm người. Cả bố và bác Mộc đều bảo Minh Việt vào đấy là rất hợp vì anh đã từng hoàn thành chỉ tiêu Một ngàn viên gạch ba banh trong vòng hai tháng. Minh Việt cũng không mong gì hơn. Sau sáu tháng đi làm Minh Việt súng sính trong bộ quần áo mới, cùng Ban giám đốc và toàn thể cán bộ công nhân viên Xí nghiệp long trọng tổ chức lễ đón danh hiệu “Đơn vị thi đua xuất sắc”. Tại buổi lễ bác Mộc đã đọc một bản báo cáo rất dài, nội dung chẳng liên quan gì đến gạch ngói cả. Đã vậy, bác còn dừng lại nói kỹ về đoạn sau đây:
Năm 1972 là năm địch đánh phá ác liệt An Lạc. Nhưng năm 1972 cũng là năm toàn huyện có bước tiến bộ đáng phấn khởi, mọi mặt sản xuất phát triển, đời sống nhân dân địa phương và nhân dân sơ tán tạm thời ổn định. Các ngành thương nghiệp, lương thực, thực phẩm, từ một vài cửa hàng đã chia lẻ thành mười một cửa hàng và còn tổ chức thêm các đội bán hàng lưu động về các thôn xóm, ra tận trận địa trực chiến để bán hàng phục vụ đồng bào và chiến sĩ. Các mặt công tác văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao vẫn được duy trì tích cực.
Sau buổi lễ, bác Mộc rỉ tai thằng Tịnh nói gì đó. Nó không gật mà cũng chẳng lắc, nét mặt rất khó hiểu. Khi Minh Việt hỏi thì nó bảo:
- Hôm qua tao để nhầm bài phát biểu cho ngành thương nghiệp vào cặp của bố tao. Nhưng cũng chẳng sao. Mọi người vẫn vỗ tay ầm ầm đấy thôi.
Cuối năm đó thằng Tịnh được huyện cử đi học ở nước ngoài. Trước hôm đi mặt nó buồn thiu. Nó bảo: “Cứ tưởng đi Liên Xô, hóa ra lại đi Bun-ga-ri, chắc chẳng ăn thua gì!”
Thằng Tịnh đi rồi, Minh Việt bỗng mắc bệnh trầm uất. Cả ngày đi làm, tối về Minh Việt lại ra bờ sông ngồi một mình. Đôi ba lần cậu Chột phải ra lôi anh về ngủ cùng. Minh Việt hay mơ thấy Cói. Rồi ú ớ lảm nhảm. Ngay cả trong lúc nhồi đất vào khuôn ngói Minh Việt cũng thường xuyên nhìn thấy Cói đang dập dềnh trên mép nước ven sông. Người thợ làm cùng với Minh Việt đã cắt phải tay anh trong lúc như thế. Sợi thép sắc như dao đã cứa đứt một đốt ngón tay út của Minh Việt. Nhìn máu chảy ròng ròng từ tay mình mà Minh Việt cứ ngỡ máu của Cói. Trong khi mọi người rối rít đưa anh đi băng bó, sát trùng, anh cứ bình thản như không, ánh mắt dõi vào một điểm nhìn vô định. Giám đốc xí nghiệp phải gặp riêng bố Minh Việt. Bố Minh Việt lại trao đổi với mợ và bác Mộc. Sau đó cả nhà quyết định đưa Minh Việt vào bệnh viện điều trị. Anh không chịu dùng một loại thuốc nào cả. Anh bảo anh không bị bệnh. Rồi anh cứ lảm nhảm nói chuyện một mình. Anh thường chạy đuổi theo một bóng hình tưởng tượng nào đấy và bảo đó là Cói. Có một lần bóng hình ấy không mất hút như mọi khi mà ra ngồi xuống chiếc ghế đá ở dưới sân bệnh viện. Minh Việt mừng quá, tiến sát đến đằng sau lưng, không nói một câu, cứ lẳng lặng chờ người ấy quay lại. Minh Việt đứng chờ mãi, chờ mãi, cuối cùng người ấy cũng quay lại. Đúng là Cói. Cói gầy quá. Mặt Cói xương xương chứ không tròn đầy. Mắt Cói cũng không to đen mà hơi dài. Chỉ có nốt ruồi của Cói là không thay đổi. Cói nhìn Minh Việt hơi ngỡ ngàng một chút rồi reo lên:
- Kìa, Việt, Minh Việt phải không?
Minh Việt tủm tỉm cười nhưng nét mặt tỏ ra thất vọng ngay vì giọng nói này không phải của Cói. Anh quay lưng, lê những bước chán chường về phòng bệnh. Nhưng người ngồi trên ghế đá vội đứng dậy chạy đuổi theo túm lấy tay áo của Minh Việt, lắc lắc:
- Việt, Việt không nhận ra mình à?
Minh Việt vẫn không có một cử chỉ nào tỏ ra có quen biết với người ấy. Người ấy lại lắc lắc tay Minh Việt, nói một hơi dài:
- Chết thật, mới có mấy năm mà đã quên chị rồi. Chị là Vi Lay đây. Bà Khơ-me đây mà. Sao Việt lại ở đây? Việt bị bệnh gì? Trông Việt gầy và xanh quá! Việt ở phòng nào? Người nhà Việt có ai ở đây không? Chị đi thăm một người bạn bị ốm nhưng người ấy lại ra viện rồi. Chị định ngồi nghỉ một lúc rồi về. Việt sao thế? Sao Việt chẳng nói năng gì cả? Mà nhìn mắt của Việt kìa! Sao mắt Việt lạ thế? Chẳng có chút thần sắc nào cả. Việt không nhận ra chị thật sao?
Người đàn bà ấy sẽ còn quấy rầy Minh Việt nữa nếu không có mợ đến kịp. Mợ lôi người đàn bà ấy ra chỗ chiếc ghế đá mà bà ta vừa ngồi. Minh Việt bỏ về phòng. Mợ và người đàn bà lạ lùng ấy ở lại ngồi nói chuyện với nhau khá lâu. Sau hôm ấy, ngày nào người đàn bà đó cũng vào thăm Minh Việt.
Cho đến một ngày Minh Việt nhận ra người đàn bà ấy là Vi Lay!