Chương 6
Trại Pháo Thủ cũ trong thời kỳ tạm chiếm là nhà kho của quân đội Pháp. Sau ngày An Lạc giải phóng nó được chia cho những người dân thất tán khắp nơi trở về. Bố cái Lý trước làm nghề chăn nuôi ngựa cho quan công sứ, sau ngày quân Pháp quay lại An Lạc lần thứ hai bố nó làm nghề đóng xe bò và các loại yên cương cho ngựa. Về với chế độ mới, trong mớ tài sản của bố nó vẫn còn hai con ngựa, một con màu nâu, một con màu trắng. Hai con ngựa này đã giúp bố cái Lý trở thành phó chủ nhiệm Hợp tác xã vận tải thô sơ của thị trấn An Lạc. Trong số các thành viên của Hợp tác xã có cả ông Mật rỗ. Ông Mật rỗ góp vào Hợp tác xã chiếc xe bò của mình và suốt mười năm liền ông được nhận danh hiệu “kiện tướng vận tải”.
Cái Lý thường ra khu đầm cạn cắt cỏ cho ngựa. Trò chơi nào của đám trẻ phố Tứ Phủ cái Lý cũng tham gia một cách nhiệt tình, nhưng nó không bao giờ bỏ lơ công việc của mình. Khi các trò chơi kết thúc cũng là lúc nó đã cắt xong đầy hai bao cỏ, ung dung gánh về. Trong các trò chơi ở khu đầm cạn, Minh Việt hãi nhất là trò lộn đỉa. Trò này thằng Tịnh trọc rất thạo. Thằng Tịnh là con bác Mộc bí thư thị trấn. Đầu nó nhiều chấy nên nó cắt trụi tóc đi cho chấy khỏi còn chỗ làm tổ. Khu đầm cạn có nhiều vũng nước nhỏ. Thằng Tịnh chỉ cần cho chân xuống khua khua vài cái là cả đàn đỉa nhao nhao nổi lên. Nó thò tay xuống. Đỉa lập tức bám luôn vào. Nó thích bắt những con đỉa trâu to như ngón tay, da xanh thẫm, lườn bụng hơi vàng vàng. Những con đỉa này miệng to, dễ lộn. Mỗi khi nhìn thấy con đỉa bám vào tay thằng Tịnh, oằn mình giãy giụa, giãn ra, chun vào, cố dính chặt lấy da người để hút máu, Minh Việt thấy ghê ghê, gai ốc nổi khắp toàn thân. Nhưng thằng Tịnh lại rất thản nhiên với điều đó. Nó bẻ một cây cỏ cứng rồi lấy thân cỏ đó chọc vào phần đít của con đỉa. Xong nó vuốt nhẹ một cái, thế là toàn thân con đỉa bị lộn ngược, mặt da phía trong ra ngoài còn mặt da phía ngoài thì vào trong. Cơ thể con đỉa cấu tạo đơn giản, giống như cái ống chun vậy, khi bị lộn ngược nó chẳng có chút gan, ruột, phèo, phổi gì cả, may ra thì có tí máu vừa hút được của ai đó. Nếu không biết cách lộn thì sẽ phải loay hoay khá lâu vì con đỉa rất trơn, cầm vào nó cứ tuột đi. Chỉ có thằng Tịnh làm việc này là nhanh hơn cả. Nó làm cứ nhoay nhoáy. Rồi nó cắm la liệt xuống mặt đất những cọng cỏ có xác đỉa lột. Và nó hỏi một cách khoái cảm:
- Chúng mày trông có giống cảnh treo cổ trong phim Ba Lan không?
Những xác đỉa này gặp nắng nhanh chóng khô quắt đi. Nhưng khi mưa xuống, mỗi xác đỉa lại sinh ra hàng trăm con đỉa khác. Chúng lại tìm về các vũng nước để một chiều nào đó thằng Tịnh sẽ lại ra tay hạ sát chúng. Minh Việt cũng tìm thấy niềm khoái cảm khi ngồi xem những ngón tay của thằng Tịnh thao tác trên xác đỉa. Minh Việt sợ đỉa nhưng cố tìm cách che giấu điều đó, không biểu lộ cho ai biết. Một lần thằng Tịnh vung tay quá mạnh và con đỉa trâu to như ngón tay cái bắn vào cổ áo của Minh Việt. Minh Việt hốt hoảng, không dám thò tay vào móc con đỉa ở trong ngực ra, cứ quay mặt đi hướng khác gào thét, van xin thằng Tịnh bắt ra hộ. Nhưng thằng Tịnh bảo:
- Hóa ra thằng Việt thiu này sợ đỉa. Đã thế tao cứ để cho nó hút máu mày một lúc đã, rồi tao sẽ bắt nó ra lộn sau.
Thằng Tịnh nói thế và làm thế thật. Nó lại chạy ra chỗ vũng nước tìm bắt con đỉa khác. Minh Việt sợ quá, xung quanh thằng thì đang lúi húi lộn đỉa, thằng thì ngoác mồm ra cười, thằng thì vỗ tay đôm đốp khoái chí chế nhạo sự nhát gan của Việt thiu. Mặt Minh Việt tái mét đi. Cảm giác lành lạnh, buồn buồn trên làn da ngực càng làm Minh Việt kinh khiếp. Giữa lúc sự hoảng loạn đang lên đến cực độ thì cái Lý chạy đến. Nó dứt cúc áo ngực của Minh Việt ra và hình như chỉ lướt tay nhoằng một cái thôi. Thế là xong. Nó bảo:
- Xong rồi, con trai gì mà nhát thế?
Lúc này Minh Việt mới dám nhìn xuống chỗ vùng da ngực. Vết đỉa cắn vẫn còn, máu rỉ ra to bằng hạt đỗ. Từ hôm ấy Minh Việt không dám tiến gần đến chỗ bọn thằng Tịnh mỗi khi chúng nó chơi trò lộn đỉa. Minh Việt rất thích cưỡi ngựa. Đôi ba lần Minh Việt được cái Lý cho ngồi lên lưng con ngựa màu nâu của nhà nó. Minh Việt vẫn còn nhớ cái cảm giác lần đầu tiên được cưỡi ngựa. Minh Việt cứ ôm chặt cứng lấy người cái Lý. Lúc đầu thì thích nhưng sau thì những đốt sống lưng của con ngựa gồ lên, chọc vào hai bên mông, đau điếng. Cái Lý có thể điều khiển con ngựa chạy nhanh, chạy chậm tùy theo ý muốn. Có một lần khi Minh Việt đã tạm quen với việc cưỡi ngựa, cái Lý cho con nâu lồng lên. Được hai vòng đầm thì Minh Việt không giữ được thế ngồi, ngã tụt xuống. May rơi đúng xuống đám cỏ dày nên không đau lắm. Cái Lý hốt hoảng, vội cho dừng ngựa, nhảy xuống, chạy lại chỗ Minh Việt ngã. Minh Việt vờ nằm im không nhúc nhích. Đến khi cái Lý nâng người Minh Việt lên, lần đầu tiên cậu thấy rùng mình khi chạm phải hai vật tròn mềm ẩn sau làn áo ngực của cô bạn gái. Cái Lý đã thành người lớn rồi! Cái Lý càng ngày càng phổng phao ra, dáng dấp thon mềm, gợi cảm. Nhất dáng, nhì da cái Lý có được cả hai thứ đó nhưng bước sang tuổi dậy thì tự nhiên một bên má của cái Lý nổi vết rám. Lúc đầu vết rám còn nhỏ và mờ. Rất nhanh sau đó vết rám loang rộng và thẫm màu hơn, y như mẩu bánh mì cháy. Cái Lý không còn tham gia mọi trò đùa nghịch của lũ con trai phố Tứ Phủ nữa. Bước sang năm sau bọn thằng Tịnh cũng không còn chơi trò lộn đỉa. Tất cả bỗng thấy mình khác trước. Minh Việt là đứa vỡ giọng đầu tiên trong đám con trai. Sau đó ít lâu là thằng Tịnh, thằng Hoàn, thằng Huy. Riêng cậu Chột nhà bà Quản thì vỡ giọng trước đó vài năm. Bọn thanh niên mới lớn phố Tứ Phủ bắt đầu bàn tán về con gái. Cái Lý thường được đưa ra bàn về bộ ngực, về cái eo lưng, về lớp vải quần khít chặt phía trên đùi. Nhưng ý kiến thống nhất cuối cùng vẫn là cái Lý có họ hàng xa với Thị Nở. Trong những lần bình luận như thế, Minh Việt không hăng hái đồng tình nhưng cũng không phản đối. Chỉ có một người luôn nổi xung lên mỗi khi nghe mọi người chê cái Lý xấu, đó là thằng Tịnh. Thằng Tịnh không thấy Lý có cái gì xấu cả. Lý là đứa con gái dịu dàng, vị tha, nhân ái nhất phố Tứ Phủ. Lý cũng là đứa con gái có dáng người đẹp nhất, làn da trắng nhất, cái miệng xinh nhất, mái tóc dài nhất, khuôn mặt thanh tú nhất, chỉ có mỗi một bên má là không đẹp nhưng cũng không đáng chê, không làm hỏng đi tất cả những gì mà Lý có. Cái Lý của riêng thằng Tịnh là như thế. Minh Việt vô tâm không mấy khi nghĩ quá sâu xa về cái Lý. Tuy nhiên ký ức tuổi thơ vẫn lưu giữ mối thiện cảm giữa Minh Việt với Lý, nên Minh Việt thường không tham gia bàn luận về Lý để tránh cho mình khỏi phải nói ra những điều không muốn nói. Cái Lý dường như cũng biết lũ con trai bình luận gì về mình nên nó sống ngày một thu hẹp lại. Tối tối nó thường sang nhà Minh Việt ngồi bóc lạc cùng bà nội và mợ. Những năm ấy cuộc sống của những gia đình công nhân viên chức như bố mợ Minh Việt rất kham khổ. Mợ đẻ đứa em thứ tư, thằng Đức, nên bị chuyển xuống đội chăn nuôi, không còn nhặt nhạnh được nhiều thức ăn, thức uống như trước đây nữa. Mỗi lần đẻ thêm em bé là một lần nhà sa sút đi. Có lần mợ bảo:
- Cứ yên yên một tí là lại nghỉ đẻ. Nghỉ xong đi làm, nó lại tống bố nó sang chỗ khác. Thôi bây giờ tắt vòi lại không đẻ nữa, để ít hôm rồi bảo với bác Mộc xin cho về tổ kem.
Mợ có họ hàng xa với bác Mộc nên ít nhiều cũng được lãnh đạo ngành quan tâm, ưu ái. Nhưng vì nghỉ đẻ luôn nên không thể ngồi mãi một vị trí được. Sau khi sinh con Vân mợ phải xuống làm việc ở tổ bánh. Bây giờ đẻ thằng Đức, không còn chỗ nào xếp cho mợ nữa nên họ đành phải đưa mợ xuống tổ chăn nuôi. Từ ngày xuống tổ chăn nuôi, nhà rất túng thiếu. Bố Minh Việt vẫn làm thủy lợi ở mãi dưới huyện biển. Đã mấy lần tỉnh định rút bố về trên Ty nhưng lần nào cũng trục trặc vấn đề: Chưa xác minh rõ quan hệ giữa đồng chí Nguyên Bình và cô Mến trong thời gian diễn ra trận tập kích chiến lược thị trấn An Lạc năm năm ba.
Khó thì phải tính. Nhà đông miệng ăn, lương thực nhà nước bao cấp không đủ, mợ phải nhận thêm lạc sống về bóc thuê. Đã có thời kỳ cả phố Tứ Phủ là một “xưởng bóc lạc tay”. Bắt đầu từ nhà Minh Việt, sau lan ra các nhà khác. Ai cũng muốn có thêm đồng “kiếm bơ gạo” hoặc “cải thiện rau mắm” nên nhờ mợ nhận lạc về bóc suốt đêm. Hết mùa lạc lại đến mùa dán hộp. Hộp đựng bánh, hộp chứa thuốc Phi-la-tốp, hộp vỏ bao thuốc lá... Qua mùa dán hộp lại đến kỳ rọc giấy. Giấy báo, giấy sách, giấy vở học sinh. Máy móc không chia nhỏ được thì đưa về cho dân Tứ Phủ rọc tay. Mợ là người giỏi tìm việc trong thời bấy giờ. Nhưng việc đều hơn cả vẫn là bóc lạc. Lúc đầu mọi người đều bóc bằng tay. Sau cải tiến bóc bằng thanh tre, rồi dùng búa ghè nhẹ. Thanh niên nam nữ đến nhà nhau chơi, vừa chuyện trò vừa thò tay bóc lạc, vui lên lại hát đồng thanh nữa. Lý là người tích cực đến nhà Minh Việt nhất. Bố cái Lý là người của Hợp tác xã vận tải. Mấy năm ấy Hợp tác làm ăn được nên kinh tế nhà cái Lý nghe ra có phần ổn hơn nhà Minh Việt. Lý rất quý mợ Minh Việt. Bà nội lại là người hay chuyện. Vì thế Lý qua lại như người nhà. Lý cũng tìm thấy sự thanh thản trong công việc bóc lạc. Ở đấy Lý không phải nghe tiếng ì xèo, chê bôi của đám trai mới lớn. Mợ lại là người thẳng tính. Thằng nào có lời bất nhã với Lý là mợ đốp vào mặt ngay. Thế là tối tối đám trai gái rủ nhau đi sinh hoạt Đoàn, Đội, đi xem phim, xem kịch, đi tập tự vệ thì riêng Lý ngồi bóc lạc ở một góc nhà với bà nội và mợ. Có một người cũng hay đến ngồi bóc lạc cùng với Lý là thằng Tịnh. Thằng Tịnh rất ít nói. Nó cứ ngồi lỳ hết buổi tối, đến khi nào Lý đứng dậy ra về thì nó cũng ra về. Có một hôm Lý rủ mợ Minh Việt:
- Tối mai cháu với cô đi xem kịch nhé? Họ diễn ở chỗ hợp tác xã bố cháu. Bố cháu cho cháu giấy mời.
Mợ bảo:
- Ừ, mai nghỉ một buổi lạc đi xem cho nó khỏi tù đời. Mấy giờ?
Lý bảo:
- Bảy giờ. Cháu thấy bố cháu bảo thế.
Nhưng hôm sau thằng Đức bỗng sốt cao. Bà nội cứ giục mợ đi xem để bà ở nhà trông thằng Đức cho nhưng mợ không đi nữa. Khi cái Lý đến, mợ gọi Minh Việt vào và bảo:
- Con đi xem với em Lý nhé! Nó chẳng bao giờ dám đến chỗ đông người một mình đâu. Con đi với em cho em nó vui, tối nào nó cũng đến ngồi đây thui tủi bóc lạc với mợ, tội lắm.
Minh Việt bảo:
- Mợ phải cho cả cái Vân đi cùng với con cơ. Chỉ hai đứa đi, con ngại lắm, chúng nó nhìn thấy lại trêu.
Mợ bảo:
- Ừ, mợ cho cả em Vân đi cùng hai đứa. Mợ cho cả mấy hào lẻ nữa đây, em nó đòi cái gì thì mua.
Cái Vân là đứa em thứ ba của Minh Việt. Chính Minh Việt đã nhìn thấy nó chui ra từ cửa mình của mợ ở nhà hộ sinh hơn chục năm về trước. Tối hôm ấy nó vừa xem kịch vừa khóc thút thít. Vở kịch nói về đơn vị tự vệ của một nhà máy đã bắn cháy một chiếc máy bay của Mỹ, nhưng người nữ chỉ huy trưởng lại hy sinh. Tất nhiên còn có cả chuyện tình yêu, chuyện sản xuất, chuyện hiểu lầm nữa nhưng nội dung chủ đạo của vở kịch là tinh thần chiến đấu hy sinh dũng cảm của những người công nhân vừa giỏi tay búa vừa chắc tay súng. Tan vở, mọi người kéo nhau ra về, riêng cái Lý vẫn ngồi yên không nhúc nhích. Minh Việt giục:
- Về thôi, Lý!
Lý quay ra bảo:
- Chờ em tí.
Chờ mãi vẫn không thấy Lý đòi về, Minh Việt đành dẫn cái Vân ra ngoài cổng mua cho nó mấy quả mận còn sót lại trên mẹt hàng của người bán rong. Khi quay vào Minh Việt không thấy Lý đâu cả. Nhìn lên sân khấu thấy mấy người đang thu dọn đạo cụ, Minh Việt chạy lên ngó nghiêng tìm cái Lý. Một người đàn ông hỏi:
- Cháu tìm ai?
Minh Việt vẫn đang ngơ ngác chưa biết nói thế nào thì người đàn ông lại chỉ vào cánh gà, bảo:
- Cô ấy vào trong kia kìa. Chắc muốn gặp mặt diễn viên?
Minh Việt chạy vào trong cánh gà, thấy có hành lang dẫn vào một căn phòng còn đang sáng ánh đèn. Minh Việt bước về phía ấy nhưng chưa tới cửa phòng thì gặp Lý đang đi ra. Ánh mắt Lý ngập tràn niềm vui. Thấy Minh Việt, Lý cất giọng rất tự nhiên:
- Cái Vân đâu hả anh Việt? Mấy anh em mình về đi!
Minh Việt hỏi:
- Vào trong ấy làm gì?
Lý không trả lời mà hỏi lại:
- Anh thấy vở kịch hôm nay hay không? Cô đóng vai chỉ huy trưởng tự vệ giỏi nhỉ? Cô ấy khóc thật đấy. Em nhìn rõ nước mắt của cô ấy rơi ra hẳn hoi nhé!
Minh Việt hơi khó chịu về thái độ của cái Lý nhưng đêm đã muộn nên vội dắt tay cái Vân ra về. Tới đầu phố, cả ba gặp thằng Tịnh đang đứng chờ ở chỗ cống Đá. Không biết từ bao giờ người ta đặt hai phiến đá rất to ở mép đường nơi bên dưới có con mương chảy qua. Dãy phố Tứ Phủ được ghi mốc từ cống Đá này cho đến ngôi đền Tứ Phủ nằm ở cuối phố. Trước đây người già gọi phố này là phố Cống Đá. Sau khi có ngôi đền người ta chuyển dần sang gọi là phố Tứ Phủ. Chỗ cống Đá nằm ở ngã tư đường, là nơi tối tăm, đi qua đó thường có cảm giác sờ sợ, bình thường chẳng ai dám ra đứng đó một mình. Vậy mà thằng Tịnh lại đứng đó, như có ý chờ đám Minh Việt đi xem về quả cũng táo gan thật. Nhìn thấy ba người, thằng Tịnh hỏi ngay:
- Sao chúng mày không bảo tao trước để tao xin vé đi xem cùng?
Minh Việt vội thanh minh:
- Lý có giấy mời, đáng lẽ đi xem với mợ tao nhưng vì thằng Đức ốm nên tao với cái Vân được đi ké. Có biết trước đâu?
Lý chẳng nói gì, chỉ lặng im, tay vẫn giữ chặt vạt áo. Hình như Lý có giấu cái gì ở trong đó nhưng Minh Việt không để ý. Thằng Tịnh bảo: “Nực lắm, ngồi đây cho mát đã về làm gì vội, không ngủ được đâu”. Cái Lý bảo: “Thôi, em về đây, muộn rồi, bố em lại mắng”. Thằng Tịnh hào hứng đi theo. Minh Việt đưa cái Vân về trước rồi cùng thằng Tịnh đưa cái Lý về nhà ở khu Trại Pháo thủ cũ.
Hình như trong con mắt của cái Lý, đám Minh Việt vẫn còn rất trẻ con, không thể hiểu được những điều sâu kín của một thiếu nữ đã trưởng thành. Lý không bao giờ tâm sự, chuyện trò gì với Minh Việt cả. Có một người tương đối hiểu Lý, đó là mợ nhưng mợ không có nhiều thời gian để gần gũi, sẻ chia với Lý những chuyện đàn bà, con gái. Nhà Lý chỉ có một bố một con, Lý lại tự ti về nhan sắc của mình nên hầu như không có bạn. Lý lẩn tránh đám con trai phố Tứ Phủ mới ngày nào còn chung những trò chơi con trẻ với Lý. Lý rất sợ những lời xì xào, chê bôi của đám thanh niên mới lớn này. Mỗi lời đàm tiếu của một thằng con trai nào đó vô tình buông ra đối với Lý không khác gì một con đỉa trâu ném vào người Minh Việt. Lý càng sợ, càng tránh thì lại càng gặp phải, đi đâu cũng gặp, tới đâu cũng thấy, chỉ có đến nhà Minh Việt là đỡ tủi phận hơn cả. Ở đó Lý thường xuyên gặp thằng Tịnh, mà thằng Tịnh thì không bao giờ nói gì với Lý. Có thể thằng Tịnh trân trọng Lý, nhìn thấy nhiều cái đẹp của Lý. Nhưng Lý lại nghĩ rằng cái sự im lặng ấy chẳng qua chỉ là chưa đến lúc. Ai cũng biết thằng Tịnh nghịch ngợm, lém lỉnh. Với cái tư duy của một thằng con trai nghịch như quỷ sứ ấy, thử hỏi khi cất lên lời nói luận bàn về nhan sắc của Lý sẽ khủng khiếp đến đâu? Vì thế với Tịnh, Lý còn thêm một chút e dè, cảnh giác nữa. Tất cả những điều này nằm ngoài sự lưu tâm của Minh Việt. Minh Việt đã trở thành lao động chính của gia đình, toàn làm việc nặng, việc bóc lạc buổi tối chỉ dành cho đám đàn bà con gái và trẻ nhỏ. Những ngày này Minh Việt đang cố gắng hoàn thành chỉ tiêu “một ngàn viên gạch ba banh” bố giao cho. Minh Việt cùng thằng Đình, con Ánh dùng xe cải tiến chở xỉ ở chỗ mợ về, rồi tôi vôi, rồi cho xỉ trộn vào khung, và cứ thế vung chày sắt mà nện. Bố bảo phải xây thêm một gian nữa chứ nhà bây giờ nhiều người, chỗ chui ra chui vào chật lắm. Minh Việt lại lớn rồi, cái Ánh cũng lớn rồi, lại thằng Đình, cái Vân, cu Đức, không thể dồn tất vào một gian cùng với bà nội được. Hễ có ngày nghỉ là bố lại cởi trần trùng trục cùng làm với Minh Việt. Bố cầm xẻng xúc xỉ vào khung cho Minh Việt hai tay hai chày giã xuống. Không có bố thì thằng Đình, cái Ánh thay nhau xúc cho Minh Việt. Ngày nào cũng nện chày gang nên cơ bắp Minh Việt nở nang ra trông thấy. Minh Việt vốn là một đứa trẻ có thể chất tốt nên khi bước sang tuổi thanh niên, dáng vóc khá vạm vỡ, to khỏe. Dường như Minh Việt đã quên cái tuổi thơ buồn thảm ở Xóm Đáy rồi. Hình ảnh mẹ Mến ngày một trở nên xa mờ trong Minh Việt. Bà Quản và cậu Chột thỉnh thoảng vẫn gặp Minh Việt nhưng cái tình máu mủ ruột rà vốn không có, nay ít ở gần nhau nên cũng ngày một phai lạt. Chỉ có một lần Minh Việt bỗng nhớ bà Quản. Nhớ quay, nhớ quắt, nhớ đến mức bỗng dưng muốn được gặp mặt bà ngay lập tức. Thế là Minh Việt dừng việc đóng gạch lại, rửa qua người, khoác cái áo vào rồi thủng thẳng đi về phía Xóm Đáy.
Tới cống Đá, Minh Việt bỗng sững người lại vì gặp một đám ma đi ngược lại phía mình. Thường thì đám ma bao giờ cũng đi xuôi về phía Xóm Đáy, bãi tha ma của thị trấn nằm ở phía ấy. Nhưng đám này lại đi ngược về phía phố Tứ Phủ. Và đây là lần đầu tiên Minh Việt tận mắt chứng kiến một đám ma lạ lùng như thế. Đi đầu là một đoàn người mang cờ đen viền chỉ trắng, tiếp theo là một đoàn người mang áo trắng trùm miễu. Chiếc xe tang đi sau đoàn người mặc đồ trắng, trên nóc xe có một cây thánh giá buộc một dải khăn tang mỏng. Trong xe có đặt một cỗ quan tài được phủ vải đen, thêu hình thập giá màu trắng. Các góc quan tài có thắp nến. Sau xe tang là đủ mọi thành phần đi đưa đám, hầu hết là đi bộ, có vài ba người dắt xe đạp theo bên cạnh. Minh Việt vô cùng bất ngờ khi thấy bố dắt xe đạp đi trong tốp cuối, khuôn mặt trầm mặc, lặng lẽ. Minh Việt cũng đã nhận ra cậu Chột đi ngay phía sau chiếc xe đòn. Bên cạnh cậu Chột là ông Mật rỗ. Đến lúc này thì Minh Việt đã lờ mờ cảm nhận được người đang nằm trong quan tài kia là ai? Thảo nào đang ngồi đóng gạch mà bụng Minh Việt nóng như có lửa đốt, mọi ý nghĩ đều tập trung về Xóm Đáy với hình ảnh thân thương là bà Quản. Minh Việt lẳng lặng nhập vào đoàn người đi bộ đang rì rầm đọc kinh đưa xác đồng đạo. Đám tang đi qua phố Tứ Phủ thì rẽ về phía chân núi Cô Hồn. Thì ra bãi tha ma của những người theo đạo chính là khu mả Tàu. Ngày mẹ Mến chết người ta không đưa ra khu nghĩa địa này. Đây vốn là khu đất của một giáo dân người Tàu cúng tiến cho Nhà thờ từ thời cha bề trên còn sống nên người ta vẫn thường gọi là khu mả Tàu. Khu này chỉ dành riêng cho những giáo chức hoặc người có công với xứ đạo. Bà Quản được coi là một trong những người có chức tước, dù chỉ là một cái chức cỏn con, còn sót lại của xứ đạo. Vì thế cả xứ đạo đã quyên góp tiền bạc để làm một cái lễ đưa xác tương đối đàng hoàng cho bà. Ông Mật rỗ cùng năm bà vợ của mình cũng xúm vào lo làm đám cho bà Quản. Tuy nhiên tang phục chủ yếu là đồ cũ, được nhặt nhạnh từ những xó xỉnh nào đó, còn tang chế thì giản đơn, hoán cải đi nhiều. Không có linh mục làm phép huyệt, không có chín tiếng ba hồi chuông sinh thì [1], không có lễ chồng mồ [2], cũng chẳng có đội bát âm và hội hát. Đã từ lâu nhà thờ bỏ hoang, tháp chuông rỗng không, đám tang bà Quản là một sự kiện hiếm có của thị trấn An Lạc kể từ sau ngày giải phóng. Minh Việt theo đoàn người đưa xác bà Quản tới khu mả Tàu, chờ người ta đắp cho bà mồ yên mả đẹp xong xuôi đâu đấy mới dám tiến tới trước mộ bà. Minh Việt khẽ lẩm nhẩm:
- Bà Quản ơi, cháu không hiểu lắm về bà cùng cái đạo của bà, cháu cũng chẳng biết nói gì với bà lúc này, cháu chỉ ân hận là đã không qua lại với bà sau khi cháu chuyển về ở với bố. Bây giờ bà xuống dưới đó bà đừng trách cháu, cháu hứa với bà là cháu sẽ thường xuyên qua chơi với cậu Chột để cậu ấy khỏi buồn...
Bỗng Minh Việt cảm thấy như có ai đó đang nhìn mình. Quay lại Minh Việt bắt gặp ánh mắt của một cô gái trạc tuổi cái Lý thấp thoáng phía bên kia cây thánh giá nơi vòm mộ cổ. Minh Việt ngỡ ngàng trước khuôn mặt của cô gái lạ. Nó gợi nhắc một hình ảnh đã xa lắc. Đúng rồi! Khuôn mặt của mẹ Mến. Cô gái có khuôn mặt rất giống mẹ Mến. Nhưng đôi mắt của cô ta to hơn, trong trẻo hơn, thành kính hơn. Và cô ta có một mái tóc xoăn ngả màu vàng, hung hung. Cô gái có vẻ e ngại, cứ lấp ló bên vòm mộ cổ không dám đi ra. Minh Việt đang mải nghĩ về sự có mặt của cô gái có đôi mắt to tròn ấy thì bỗng có một bàn tay đập lên sau bả vai.
- Cậu Chột! - Minh Việt mừng rỡ khi nhận ra người đến sau lưng mình - Cháu không biết bà mất, sao cậu không cho cháu biết để cháu về chịu tang bà?
Cậu Chột như không nghe thấy Minh Việt nói gì, đưa tay về phía vòm mộ cổ, vẫy vẫy. Đến lúc này cô gái có đôi mắt to tròn mới từ sau vòm mộ khép nép bước ra. Cậu Chột quay lại bảo với Minh Việt:
- Quên mất cái cuốc, bảo nó quay lại lấy mà chờ mãi ngoài xe không thấy nó ra, hóa ra gặp Việt ở đây nên nó ngại.
Minh Việt hỏi:
- Con bé ấy nó là con nhà ai thế hả cậu?
Cậu Chột cúi xuống nhặt cái cuốc đưa cho cô gái, phẩy tay ra hiệu cho cô ta bước đi trước rồi quay ra bảo với Minh Việt:
- Nó là con lai đấy. Mẹ nó là người Xóm Đáy, bị bọn Pháp hiếp trước khi rút xuống tàu vào Nam. Cả thị trấn An Lạc này có hai đứa con lai, một lai trắng là con Cói này, còn một lai đen là thằng Tân ở xóm chân cầu. Thôi, về đi. Việt bây giờ cao lớn nhỉ?
Minh Việt hỏi:
- Cậu ơi, thế sao ngày xưa cháu không biết cái Cói nhỉ?
Cậu Chột bảo:
- Mẹ nó sang sống ở bên Phòng, mãi sau này mới về Xóm Đáy. Mẹ nó chết cũng lâu rồi. Mợ lấy nó về nuôi. Mợ quý nó lắm. Trước khi chết mợ bảo: “Thương nhất con Cói!”
Minh Việt không hỏi thêm gì nữa. Tối hôm ấy, trong khi cả nhà ngồi bóc lạc, bố ra sau nhà xúc xỉ cho Minh Việt đóng gạch. Bố bảo:
- Bà Quản chết vì lao lực đấy. Khổ thân bà ấy, việc của cả thiên hạ mà cứ vơ vào mình.
Minh Việt bảo:
- Sao bố biết mà bố không cho con về thăm bà ấy?
Bố bảo:
- Bố cũng chủ quan, không nghĩ bà ấy lại chết nhanh thế. Sáng nay đi làm, giữa đường gặp bác Mộc, biết tin, bố quay lại đưa bà ấy một đoạn đường. Có nhiều chuyện bố không nói với con được. Bố cũng khổ tâm lắm.
Minh Việt bỗng thấy người nhão hết cả ra. Bố bảo:
- Thôi con vào nghỉ đi, để bố đóng nốt cho.
Minh Việt đứng lên đi vào trong nhà. Hôm nay không thấy cái Lý đến. Thằng Tịnh vẫn ngồi thu lu bên bà nội. Minh Việt hỏi mợ:
- Cái Lý hôm nay không đến hả mợ?
Mợ bảo:
- Hôm trước tao vừa đưa nó đi may áo, bố nó được Hợp tác thưởng cho một mảnh vải màu lá chuối, chắc hôm nay được áo nên đi lấy rồi.
Cả một tuần sau đó vẫn không thấy cái Lý đến nhà Minh Việt. Thằng Tịnh cũng chỉ đảo qua đảo lại, không ngồi lỳ như mọi hôm. Minh Việt không để ý đến chuyện ấy, tối nào cũng đóng xong hai chục viên ba banh là mượn xe bố đạp xuống Xóm Đáy. Nhà bà Quản bây giờ chỉ còn mỗi mình cậu Chột ở. Minh Việt hỏi: “Cái Cói đâu?”. Câu Chột bảo: “Nó về ở nhà nó, ở cuối bãi ấy”. Minh Việt tìm sang nhà cái Cói. Nhà Cói ở tuềnh toàng, chẳng có thứ gì ra hồn. Ánh mắt Cói nhìn Minh Việt cứ ngài ngại. Nhà Cói sát cửa sông, vào những ngày hè nóng nực gió lùa lên mát lạnh. Thị trấn dạo này mất điện luôn, Minh Việt thường chơi ở Xóm Đáy đến muộn mới về. Mợ hỏi thì Minh Việt bảo con lên cầu treo ngồi hóng mát, nằm sớm nực lắm, không ngủ được. Với cậu Chột và Cói thì ánh đèn điện là thứ xa xỉ, còn lâu họ mới được hưởng. Họ chỉ được hưởng ánh sáng hắt ra từ Xí nghiệp cơ khí đóng tàu Hai Bảy tháng Bảy phía bên kia bãi sông thôi. Đó là khu vực dư thừa ánh điện nhất thị trấn. Điện cho sản xuất công nghiệp luôn được ưu tiên. Xí nghiệp Hai Bảy tháng Bảy trước đây là nhà kho của quân Pháp. Sau này, cùng với việc xây dựng cây cầu treo, trên đã cho An Lạc xây dựng một xí nghiệp đóng tàu thủy. Hôm khởi công xây dựng là ngày hai bảy tháng bảy, cả thị trấn ra quân rầm rộ, Minh Việt cũng nằm trong đội hình học sinh gõ trống cổ động cho lễ động thổ. Bây giờ xí nghiệp trở thành điểm sáng về lao động sản xuất của thị trấn. Trong các hội nghị, mỗi khi đọc báo cáo về công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở An Lạc bao giờ bác Mộc cũng dừng lại nói thêm về Xí nghiệp cơ khí Hai Bảy tháng Bảy. Đó là biểu tượng của công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đánh dấu sự trưởng thành của giai cấp công nhân An Lạc, mở ra một sự phát triển về chất đối với công cuộc xây dựng thị trấn. Cùng với Hợp tác xã vận chuyển thô sơ, với hàng loạt cửa hàng mậu dịch, cửa hàng ăn uống quốc doanh của ngành thương nghiệp, Xí nghiệp Hai Bảy tháng Bảy đã và đang góp phần xóa sổ lao động nông nghiệp, sau kế hoạch năm năm lần thứ ba, nhất định An Lạc sẽ đạt được mục tiêu thành thị hóa, không còn ai chân lấm tay bùn nữa, tất cả sẽ là công nhân, sẽ đi đầu trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở các tỉnh miền duyên hải. Quả thật xí nghiệp Hai Bảy tháng Bảy luôn là niềm tự hào của người dân An Lạc. Chỉ vài năm sau ngày xây dựng nó đã bành trướng hết một vệt bờ sông dài rộng phía đông thị trấn. Nhà xưởng của xí nghiệp dọc ngang, tít tắp như một khu phố mới. Ban ngày đi qua thấy những người thợ hàn một tay cầm mặt nạ che mặt, một tay châm que hàn vào những khối sắt lớn, ánh điện lóe lên, vụn sắt cháy đỏ rơi lả tả. Ban đêm, trên nóc phân xưởng hàn, hai ngọn đèn pha to như hai cái mâm đồng soi sáng cả khúc sông. Xóm Đáy ở khúc bồi phía bên này bờ sông, nhờ hai ngọn đèn pha ấy mà đỡ cảm thấy tối tăm, đỡ cảm thấy mục tiêu phố hóa quá xa lạ đối với mình. Ngoài xí nghiệp Hai Bảy tháng Bảy ra, cả thị trấn An Lạc chỉ còn có khu Tứ Phủ và khu Ngã Năm là có điện nhưng phập phù, điện rất yếu, dây tóc bóng điện cứ đỏ đòng đọc như mấy sợi len rối. Mà tình hình thì chưa biết đến lúc nào mới cải thiện được. Bác Mộc thỉnh thoảng đến nhà Minh Việt chơi, qua câu chuyện giữa bố và bác, chỉ thấy nói về việc hậu phương dốc lòng ủng hộ cho tiền tuyến. Mà đã dốc lòng ủng hộ cho tiền tuyến thì còn cái gì để xây dựng thị trấn nữa? Việc đánh nhau để giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước là chuyện không thể đừng được. Nhất định phải đánh cho không còn thằng Mỹ nào ở miền Nam nữa mới thôi. Thanh niên An Lạc đã thay nhau hết lứa này đến lứa khác lên đường nhập ngũ rồi. Cậu Chột cũng đã mấy lần lên thị đội xin đi bộ đội mà không được vì bị hỏng một bên mắt, không đủ tiêu chuẩn về sức khỏe. Nhiều đêm từ Xóm Đáy về, Minh Việt gặp hàng đoàn bộ đội lặng lẽ hành quân về phía chân cầu Lãng Tiên. Bố bảo đó là khu vực tập kết bộ đội lên tàu đi Bê. Việc di chuyển diễn ra rất bí mật. Chân cầu Lãng Tiên vào ban ngày hầu như không thấy có tàu bè gì, thế mà đêm đến hết đoàn bộ đội này đến đoàn bộ đội khác cứ hun hút đi về phía bờ sông để sáng hôm sau mất tăm, không còn thấy một bóng quân phục nào. Xung quanh núi Cô Hồn có rất nhiều đơn vị bộ đội đóng quân, thuộc đủ các quân binh chủng khác nhau. Ngoài bộ binh ra, đêm đêm hàng đoàn ô-tô chở các loại súng pháo khí tài cũng nhằm hướng bến sông Sầu Diện để trút hàng xuống tàu. Rồi tàu đưa người và vũ khí đạn dược đi đâu thì không ai biết. Bác Mộc mỗi khi gặp bố đều nói câu cửa miệng: “Tình hình miền Nam căng lắm”. Căng như thế nào? Chẳng ai hình dung ra. Minh Việt đã tới tuổi nhập ngũ nhưng bác Mộc bảo: “Cứ ở nhà đóng nốt cho bố mày nghìn viên gạch ba banh đi đã, rồi đi bộ đội sau”. Để đảm bảo cho việc vận chuyển vũ khí và hành quân an toàn, bí mật, thị trấn ấn định giờ giới nghiêm. Sau hai mươi hai giờ người dân thị trấn không ai thò mặt ra ngoài đường nữa. Mọi sinh hoạt cộng đồng đều kết thúc trước giờ đó. Minh Việt thường về quá giờ giới nghiêm nên cảm nhận được sự hối hả của cả nước đang “dốc lòng cho tiền tuyến”. Các con đường của thị trấn rùng rùng chuyển động trong im lặng. Cũng có đôi ba nhà mở hé cửa ra xem các đơn vị bộ đội chuyển quân. Trong số những người ra đi kia biết đâu lại có con cái họ? Và họ muốn được nhìn thấy con em mình lần cuối trước khi chúng đi vào chiến trường.
Không ít lần Minh Việt đi chơi về quá giờ giới nghiêm. Những lần như thế Minh Việt phải nấp vào một chỗ nào đó chờ cho đoàn quân đi qua mới dám ló mặt ra. Một lần Minh Việt bắt gặp sự lạ. Hôm ấy có một đoàn bộ đội đi qua cống Đá, theo con đường cắt vuông góc với phố Tứ Phủ. Con đường đó dẫn họ ra chân cầu Lãng Tiên. Cả đoàn đang đi bỗng ồ lên ngạc nhiên khi phát hiện ra có một cô gái mặc chiếc áo xanh đứng bên phiến đá chăm chú nhìn theo hàng quân. Vừa khi ấy hàng quân có lệnh dừng lại để nhường đường cho một đoàn xe vận tải vượt lên trước. Ánh đèn pin dẫn đường cho đoàn xe quân sự không biết vô tình hay hữu ý đã quét qua mặt cô gái. Lập tức đám bộ đội nhao nhao lên.
- Chà, đẹp quá!
- Ôi, nàng tiên nữ áo xanh!
- Em ơi, chờ anh về nhé!
- Cho anh gửi lại tí tình trong người hậu phương nhá!
- Anh ra chiến trường để bảo vệ nhan sắc cho em đây, em gái ơi!...
Ngay cả Minh Việt khi nhìn thấy ánh đèn lướt qua mặt cô gái cũng sững sờ vì vẻ đẹp của cô ta. Nhưng Minh Việt còn kinh ngạc hơn khi nhận ra người đứng đó không phải ai khác mà chính là cái Lý! Khi đoàn xe quân sự cùng đơn vị bộ đội đi qua, ngã tư Cống Đá trở lại yên lặng, Minh Việt chui ra khỏi chỗ nấp cũng là lúc không nhìn thấy cái Lý đâu nữa. Lạ thật! Đám trai tráng như Minh Việt khi đi qua Cống Đá còn nổi gai người, phải nín thở đi cho nhanh vậy mà cái Lý lại dám ra đó đứng vào lúc đêm hôm thế này thì thật không hiểu nổi. Mà sao cái Lý lại xinh đẹp như văn công thế nhỉ? Không phải khuôn mặt của cái Lý mà đám trai Tứ Phủ vẫn chế nhạo mà là một khuôn mặt khác, như đã được hóa trang, đẹp như cô diễn viên chính trong vở kịch bữa trước Minh Việt mới được xem. Lại cả chiếc áo xanh nữa. Có thể đó là chiếc áo mà mợ đã dẫn cái Lý đi may. Và đó là một chiếc áo rất ấn tượng khi được một đứa con gái như cái Lý mặc vào. Ngày thường chẳng bao giờ cái Lý dám ăn diện. Trong khi mọi người đang phấn đấu khoác lên mình chiếc áo thợ lam lũ thì ăn diện là tội lỗi. Người đẹp như mợ không ăn diện đã đành, người xấu như cái Lý mà ăn diện thì lại càng trở nên lố bịch. Nhưng hôm nay Minh Việt thấy cái Lý rất đẹp. Và rõ ràng là nó đã làm sửng sốt cả một hàng quân. Đến chính Minh Việt cũng bàng hoàng cả người. Tai sao mọi ngày Minh Việt lại không nhận ra điều ấy ở cái Lý nhỉ? Minh Việt loay hoay với ý nghĩ đó cho đến hết đoạn đường còn lại. Nhưng sau một đêm ngủ dậy, sáng hôm sau Minh Việt không còn vương vấn gì về chuyện của đêm trước nữa. Chưa bao giờ cái Lý là mối bận tâm của Minh Việt, xưa nay vốn dĩ vẫn thế, huống hồ lúc này hình ảnh của cô bé Cói còn đang chiếm lĩnh đầu óc Minh Việt.
Quả thật là Minh Việt rất hay nghĩ về Cói.
Ở Cói cái gì cũng như hơi quá một tí. Đôi mắt hơi to quá, bộ ngực hơi đầy quá, đôi môi hơi dày quá, thân hình hơi cao quá, cặp mông hơi đẫy đà quá... Và lạ một điều là trên khuôn mặt Cói cũng có một nốt ruồi nằm bên cánh mũi giống y như của mẹ Mến. Tất cả cứ xổ hết ra, nần nẫn, quyến rũ, đam mê, bắt nhiệt ghê gớm. Mà Cói không có ý giữ gìn gì hết. Cói hoang dại. Cói tự nhiên. Cói hơ hớ. Cói minh bạch. Cói thích hay không thích, Cói ghét hay yêu, chỉ một ánh nhìn, một câu nói là rõ ngay. Dòng máu Pháp trong Cói quy định điều ấy chăng? Dòng máu của người cha trong Cói đang phải chảy một cách bức bối trong một cơ thể bị trói buộc bởi quá nhiều tập tục, lề thói của quê mẹ chăng?
Chỉ biết rằng Minh Việt đã bị hút vào dòng máu ấy và cậu trai mười tám tuổi không thể dứt ra nổi. Minh Việt như muốn trở về làm dân Xóm Đáy. Bố, mợ đều nghĩ Minh Việt về xóm cũ chơi cho cậu Chột đỡ buồn, cũng coi như là sự trả lỗi với bà Quản. Có lần cậu Chột bảo:
- Giá còn mợ Quản, Việt về chơi thường xuyên thế này thì mợ vui lắm.
Minh Việt gật đầu:
- Vâng, cháu đã rất có lỗi với bà Quản.
Cậu Chột lại bảo:
- Nhưng Việt đừng thân với cái Cói quá, nó không phải người để Việt đưa về nhà được đâu.
Minh Việt hỏi:
- Tại sao?
Cậu Chột bảo:
- Cũng sẽ giống như chị Mến với bố Việt.
Minh Việt hiểu ý cậu Chột nhưng không muốn tin vào điều đó. Chẳng lẽ bố và mẹ là hai nửa quá khác biệt, đến nỗi, không thể ghép lại để thành một hình thù nào đấy, dù khó nhìn?
Bẵng đi mấy tháng, bỗng một tối, thằng Tịnh đến nhà Minh Việt. Nó không ngồi lỳ như mọi khi mà ra đằng sau, ghé vào tai Minh Việt nói nhỏ:
- Lên nhà cái Lý đi?
Minh Việt gật đầu, bỏ dở việc đóng gạch, cùng thằng Tịnh đi lên khu Trại Pháo thủ cũ. Thằng Tịnh bảo:
- Lạ lắm. Bố nó không cho ai gặp cả, cứ bảo nó đi vắng, nhưng tao biết chắc là nó có ở trong nhà.
Minh Việt không nghĩ là đã có chuyện gì xảy ra với cái Lý, chẳng qua thằng Tịnh quá quan tâm mà sinh lo lắng đấy thôi. Nhưng quả đúng như thằng Tịnh nói, khi hai đứa vừa bước vào nhà, bố cái Lý bảo ngay:
- Em nó sang Phòng chơi với cô rồi, nhà còn mỗi mình chú thôi, chúng mày có uống rượu với chú không?
Minh Việt nhìn vào mắt bố cái Lý thấy hơi ghê ghê. Trong đó là cả một chảo lửa đang bị nén lại. Hai đứa ngồi nhìn nhau, e ngại rồi bấm áo chào ra về. Ra khỏi nhà thằng Tịnh bảo:
- Tao với mày vòng ra phía sau khu đầm cạn, thử nhìn vào buồng của cái Lý xem nó có nhà không?
Minh Việt gật đầu đồng tình. Sau khi đi qua gờ đất chạy men theo khu đầm cạn, hai đứa tới được phía sau nhà ông phó chủ nhiệm Hợp tác xã. Buồng của cái Lý được dựng bằng những mảnh sắt cũ có chen giấy dầu. Thằng Tịnh bóc một mảng giấy dầu ra, đủ cho hai đứa ghé mắt nhìn vào. Minh Việt nín thở khi thấy cái Lý đang đứng ở trên giường cởi áo. Ngọn đèn hoa kỳ nhỏ như hạt đỗ tỏa ánh vàng mờ mờ khắp gian buồng. Dáng cái Lý chập chờn, chập chờn. Sau lớp áo được cởi ra, cả một vùng bụng cái Lý đập mạnh vào thị giác Minh Việt. Đó là một vùng bụng được buộc chặt bởi mấy lớp vải, quấn trong cùng hình như là một chiếc khăn len. Khuôn mặt cái Lý mệt mỏi. Ánh mắt nó trống rỗng. Tháo cởi hết phần trên của cơ thể ra, nó nằm ngửa trên giường, cứ để cho cái bụng lùm lùm ấy nghếch lên, vẻ buông xuôi, bất cần. Bỗng có tiếng gõ cửa buồng. Cái Lý vội bật dậy khoác tấm áo lên người rồi chạy ra mở cửa. Bố nó bước vào. Hai cái chảo lửa trong mắt ông bây giờ không kìm nén được nữa, bùng phát ra những tia bỏng rẫy.
- Nhục chưa? Có bó được mãi không? Sao mày không lao xuống chân cầu kia mà chết đi cho tao khỏi hổ mặt với đời?
Cái Lý cúi gằm mặt xuống, đáp lí nhí:
- Mai con sang Phòng với cô...
Nhưng nó chưa nói hết câu thì đã bị bố vung tay tát cho một cái ngã ngồi xuống giường.
- Cô hả? Cô phải hứng tiếng nhục cho mày à? Rồi còn mang tiếng suốt đời cơ con ạ. Ai bảo mày đi rước cái khốn nạn này vào nhà tao làm gì. Mày có biết bố mày khổ thế nào không? Mấy tháng nay rồi tao không dám ngẩng mặt lên nhìn ai. Vừa rồi lại có hai thằng bạn mày tìm đến đấy. Rồi mày còn mặt mũi nào mà nhìn chúng nó nữa không?
Minh Việt không chịu nổi nữa, khẽ kéo tay thằng Tịnh rút êm ra khỏi khu đầm cạn. Thằng Tịnh lặng lẽ đi sau Minh Việt, không nói một câu nào. Cảm xúc trong nó đã chết lịm. Đến ngã tư Cống Đá, nó bảo: “Mày ngồi đây chờ tao, tao chạy về nhà một tí rồi ra ngay”. Lát sau nó mang ra một chai rượu Lúa mới. Nó cứ tu một hớp lại đưa cho Minh Việt. Hai đứa chuyền tay nhau tu một lúc thì hết chai rượu. Thằng Tịnh vẫn tỉnh như không. Nó bảo:
- Thôi về!
Minh Việt bảo:
- Đã mấy lần tao nhìn thấy nó đứng ở đây, giơ tay vẫy bộ đội...
Thằng Tịnh phẩy tay:
- Thôi, tao biết rồi. Tao còn biết cả lần nó đi xem kịch với mày, nó xin phấn son thừa của mấy cô văn công nữa cơ.
Minh Việt ngạc nhiên:
- Thế à? Thảo nào đêm ấy tao thấy nó đẹp một cách ma quái, đẹp đến mức...
- Thôi, mày nói làm gì nữa - Thằng Tịnh cắt lời - Ở cái phố này có thằng nào nhìn nó là người đâu, chúng mày chỉ nhắc tới nó khi nói về sự xấu xí thôi. Tao nói thật nhá, chúng mày là một lũ ngu, mắt chúng mày là mắt lợn luộc hết. Thôi, đi về!
Về đến nhà thì Minh Việt say. Nửa đêm Minh Việt nôn thốc nôn tháo ra giường. Mợ phải dậy lấy vôi bôi vào gan bàn chân cho Minh Việt. Bố bực bội cáu gắt um lên. Tiếng bà nội, tiếng bố, tiếng mợ, tiếng cu Đức khóc nhòa lẫn trong khối óc giờ đây đã mềm nhũn của Minh Việt. Minh Việt thiếp đi, chìm vào giấc li bì, mãi đến khi có người lay dậy thì Minh Việt mới choàng tỉnh. Nhưng cái người đánh thức Minh Việt dậy ấy lại thông báo một tin vô cùng kinh ngạc: Cái Lý chết rồi!
Minh Việt bật dậy như một chiếc dây chun đứt. “Chết ở đâu?”. “Ở cống Đá”. “Sao lại chết ở cống Đá?”. “Chết đuối!”. “Chết đuối làm sao được? Chỗ ấy chỉ là một con mương nhỏ”. “Vậy mà chết đuối đấy, chết trong tư thế ngồi”.
Cả ngày hôm ấy mợ lo khâm liệm cho cái Lý. Mợ mang tất cả phấn son của mợ đến trang điểm cho người chết. Minh Việt bảo:
- Mợ ơi, hôm qua con say là vì thấy cái Lý khổ quá.
Mợ bảo:
- Khốn nạn cho lũ con trai chúng mày. Mà cũng khốn nạn cho nó. Nó muốn đẹp mà không ai cho, không ai nhận, đến khi được cho, được nhận thì lại phải chết.
Đám tang cái Lý buồn khủng khiếp. Lần đầu tiên Minh Việt bị ám ảnh bởi ranh giới nhỏ nhoi giữa cái sống và cái chết. Minh Việt đã thực sự là một chàng trai trưởng thành. Và Minh Việt hiểu ra rằng ám ảnh về cái chết là nỗi ám ảnh dai dẳng, có sức đeo bám con người ta ghê gớm nhất. Với Minh Việt, đây không phải là nỗi ám ảnh đầu tiên và, tất nhiên, cũng chưa phải là cuối cùng.
Chú thích:
[1] Hay còn gọi là Chuông sầu, Chuông tử báo có người chết trong xứ đạo.
[2] Lễ tang tổ chức trong nhà thờ.