Phần 3 -Hiện hữu - Chương 9
Minh Việt quyết định quay trở về An Lạc sau hai mươi ba năm xa cách.
Thực ra trong hai mươi ba năm đó Minh Việt cũng đã đôi ba lần về An Lạc nhưng chỉ là về chơi, thăm bà, bố, mợ và các em. Còn lần này, Minh Việt về hẳn. Về cùng với một đứa con gái lên mười.
Đón Minh Việt ở Ga Hà Nội là thằng Đình và một cậu thanh niên ngoài hai mươi tuổi.
Đình tự lái xe ô-tô đưa mọi người về An Lạc.
Đình trước theo nghề công an, nhưng rồi chuyển ngành sang làm giám đốc một công ty thương mại của thành phố. Điều này Minh Việt đã biết.
Thời sinh viên, Đình luôn khát khao có được một chỗ ngồi trên chiếc xe buýt chạy đường dài. Chưa bao giờ Đình có đủ tiền để mua một chiếc vé về quê vào những dịp nghỉ hè hay nghỉ tết. Mà thời ấy chuyến xe nào cũng là chuyến xe bão táp, chuyến tàu nào cũng là chuyến tàu giông gió. Thân kiếp của một thằng sinh viên nghèo thường phải nhảy tàu nhảy xe như Đình ngày ấy thật khốn nạn. Sau này Đình vẫn thường tổng kết rằng: trên đời sợ nhất là đi xe thời bao cấp! Điều này Minh Việt cũng biết.
Bây giờ một mình một xe, tự lái lấy, đường trải nhựa êm ru, chắc Đình đã thỏa nguyện khát vọng thời trai trẻ?
- Nhà em không chịu được xe lạnh. Cứ ngồi lên năm phút là say bác Việt ạ. Con nhỏ nhà bác có chịu được xe không? - Xe ra khỏi thành phố rồi, Đình mới quay sang trò chuyện với Minh Việt.
- Đây cũng là lần đầu tiên cháu đi xa. Mấy ngày đi tàu không thấy cháu bị sao cả. Chắc chịu được. Bố, mợ vẫn khỏe chứ chú?
- Khỏe! Sau khi nhận được thư bác, bà cứ giục bọn em phải thúc anh về. Bà bảo về ngoài này mấy anh em quấn túm lấy nhau chứ bác ở trong ấy có một mình, lại ốm đau bệnh tật thế, ở làm gì? Thế bác giải quyết xong hết chưa? Nhà bán rồi chứ?
- Bán rồi. Đúng là chẳng còn gì lưu luyến với cái đất ấy, chỉ thương con Ly không chịu được khí hậu ngoài Bắc thôi.
- Ôi dào! Rồi quen tất.
- Vợ chồng cái Ánh thế nào?
- Bình thường. Anh ấy còn công tác. Chị ấy nghỉ hưu rồi.
- Còn cái Vân?
- Chuyện cái Vân và thằng Đức thì buồn lắm. Thư thả rồi bác tìm hiểu.
- Thế bây giờ ai ở với bố, mợ?
- Thằng út đây.
Thì ra cậu thanh niên nãy giờ vẫn ngồi yên lặng bên Minh Việt là cậu út Đạo. Nó ra đời vào đúng ngày Minh Việt lên đường vào chiến trường. Mấy lần Minh Việt ra Bắc sau này nó còn rất nhỏ. Bây giờ thì nó đã là một chàng trai rồi. Lúc ở ga tàu Minh Việt thấy nó mặc áo ký giả, tóc nhuộm màu râu ngô, tai cắm ống phôn, miệng nhai kẹo cao su lại tưởng là nhân viên lái xe của Đình. Ai ngờ cái thằng nhỏ gầy nhách ngày nào bây giờ lại trổ mã thời thượng thế này!
- Anh còn nhớ lá thư em gửi cho anh cách đây mười ba năm không? - Thằng Đạo gỡ phôn ở tai nghe ra, quay sang hỏi Minh Việt.
- Còn. Thư xin cá khô.
- Ngày ấy anh có khen là em viết thư hay, câu chữ gãy gọn dù mới chỉ học lớp bốn. Thế mà bây giờ câu chữ là cái nghiệp của em rồi đấy.
- Vậy hả? Tức chú là nhà báo? Sao bữa trước nghe nói chú học ngoại ngữ cơ mà?
- Em viết mấy cái truyện ngắn, được giải của báo Trẻ, ra trường họ xin em luôn. Bây giờ em là trưởng đại diện của báo Trẻ ở các tỉnh miền duyên hải.
- Nghề nghiệp của chú ấy như thế là cũng được, bác Việt ạ - Đình tiếp tục tham gia vào chuyện của hai người - Chỉ có điều thằng này nó không hợp với ông nhà mình. Em về lần nào cũng thấy ông phàn nàn về nó.
Sau này Minh Việt có dịp hiểu kỹ hơn về Đạo. Tạm thời hai bố con Minh Việt ở cùng phòng với Đạo. Vẫn là ngôi nhà cũ ở đường Tứ Phủ nhưng bố mợ xây lên hai tầng. Tầng một bà và bố, mợ ở. Tầng hai dành một phòng để thờ, một phòng cho cu Đạo. Ngoài ra còn có một cái ban công rộng để bộ ghế mây, thỉnh thoảng bố hoặc cu Đạo tiếp khách ở đó. Minh Việt bảo:
- Nhà mình bây giờ hóa ra lại rộng nhỉ?
Mợ cười, gật gật đầu:
- Anh chẳng về trước đây một tháng mà xem! Nhà này cứ như cái trại tị nạn. Mẹ con con Vân này, thằng Đức này, cụ thì lẫn này, thằng Đạo thì như cái giống dở người, ối giời ơi, lắm hôm đến là đau đầu, tưởng phát điên lên được.
Cách nói của mợ vẫn không thay đổi. Lúc nào cũng nghiệt ngã nhưng thiện tâm. Cả bố và mợ đều nghỉ hưu rồi. Họ đều đã bước qua tuổi lục thập. Coi như đời người đã ngả chiều.
Chóng vánh làm vậy.
Mà cũng phù du làm vậy!
Minh Việt bây giờ là một gã đàn ông ngoại tứ tuần, còi cọc, ốm yếu, da xanh mái, tóc rụng thưa, chỉ có đôi mắt là vẫn giữ nguyên nét đẹp u uẩn, buồn như hai thác nước đổ dưới màn sương.
Chàng trai Minh Việt khỏe đẹp của phố Tứ Phủ ngày nào giờ đã đổi thay quá nhiều. Chính Minh Việt cũng không nén được sự buồn tủi khi nhìn dáng hình mình trong gương. Trước đây Minh Việt đâu có thế này? Sau giải phóng Minh Việt cũng đâu có thế này? Cả chục năm lênh đênh trên biển Minh Việt cũng đâu có thế này? Khi nhận được thư của cậu em út gửi từ ngoài Bắc vào, Minh Việt khi ấy còn đang là một thủy thủ lực lưỡng, vâm váp sóng giật cấp chín, cấp mười vẫn đi lại trên boong tàu như không. Vậy mà chỉ ngay sau đó thôi. Ngay sau khi ra bưu điện gửi thùng cá khô nặng một yến rưỡi về cho bố mợ, trở lại tàu Minh Việt thấy người hâm hấp nóng và cứ thế thân nhiệt không lúc nào giảm xuống dưới ba chín độ. Minh Việt phải rời tàu lên nằm ở trạm xá của Xí nghiệp. Rồi từ trạm xá lại chuyển sang bệnh viện. Bạn bè thủy thủ tới thăm. Cả ban lãnh đạo Xí nghiệp cũng tới động viên, an ủi. Ai cũng nắm tay Minh Việt thật chặt và bảo: “Cố gắng nằm viện ít hôm, khỏe rồi lại về với Xí nghiệp, về với anh em”. Nhưng bệnh viện có phát hiện ra được bệnh gì đâu! Người bệnh cứ sốt kéo dài, ăn gì nôn ấy, cơ thể lúc nào cũng thấy ớn lạnh. Đến khi dừng sốt, thân nhiệt quay trở lại ba mươi bảy độ thì Minh Việt phải mang trên mình một hình hài khác. Tóc Minh Việt đã bạc hết. Tất cả các bắp thịt trên người anh bay biến đi đâu cả. Người anh sọm xuống, lúc nào cũng mệt mỏi và không còn làm được việc nặng nữa. Xí nghiệp cho Minh Việt về nghỉ mất sức. Vậy là sau gần chục năm làm việc, tính cả những năm tháng quân ngũ trước khi chuyển ngành, vốn liếng mà Minh Việt tích cóp được không nhiều nhặn gì ngoài căn hộ tập thể nằm trên tầng hai trong một con hẻm ở quận Một. Một chàng trai Bắc Kỳ không còn trẻ nhưng chưa già, chưa vợ con, xa gia đình, không người thân, lại ốm yếu bệnh tật biết tồn tại thế nào đây giữa lòng thành phố phương Nam xa xôi ấy?
- Sao anh không ra Bắc ngay sau đó?
Sau này chính từ miệng cu Đạo đã hỏi anh câu đó. Ừ, tại sao anh không quay ra Bắc ngay sau đó, khi sức khỏe đã trở nên tồi tệ như thế? Không, anh không thể trở lại An Lạc trong một tư thế buồn nản như vậy được. Anh là anh cả của gia đình, sự thoát ly của anh đồng nghĩa với niềm hy vọng tươi sáng cho cả nhà. Anh chưa giúp được gì cho bố, mợ, chưa giúp được gì cho các em. Những năm tháng khốn khổ nhất của thời bao cấp chút cá khô mà anh gửi về còn là niềm vui khôn xiết của cả gia đình kia mà! Làm sao anh dám trở về trong dáng hình tàn tạ với hai bàn tay trắng và một tương lai mờ tối như thế dù biết rằng đã là đòn giáng của số phận thì không ai có thể tránh được. Anh đã cố bám víu ở lại đất Sài Thành bằng một cái nghề, nói ra thì hơi buồn lòng, nghề bán trà Bắc. Người Bắc ở trong đó thèm chén trà Thái ở ngoài này và họ phải đi tìm hương vị của nó ở những quán cóc vỉa hè như của anh. Một cái ấm to lúc nào cũng ủ nóng. Một cái phích nước đầy. Một chiếc điếu cày. Một cái xô nhựa nhỏ. Chục chiếc chén da tru. Dăm ba cái ghế con. Và một góc ngồi phố xá. Thế là anh có công việc mới. Có thu nhập mới. Cũng giống như cắt tóc hay bơm vá xe đạp vậy. Nó phù hợp với sức khỏe của anh. Và anh quen dần với nó.
Đêm đầu tiên và rất nhiều đêm sau Minh Việt kể cho cu Đạo nghe chuyện đời mình khi con bé đã ngủ. Con bé nhỏ nhắn, xinh đẹp, lễ phép, lại nói thứ giọng miền Nam vô cùng dễ thương nên chú Đạo yêu lắm. Đạo bảo với Minh Việt: “Vậy mà anh vẫn gửi tiền về đều đều. Chỉ có thư là ít viết. Sau này chị Ánh, anh Đình đi làm rồi, anh vẫn còn gửi tiền về. Mẹ bảo bố rằng nói với nó đừng gửi tiền về nữa. Lo mà cưới vợ đi. Và anh đã cưới vợ nhưng ngoài này không ai biết gì cả. Bố mẹ trách anh lắm. Nhưng sau này, qua bác Tuấn Thành, cả nhà đã biết chuyện của anh. Riêng em, em không hiểu. Tại sao lại như thế?” Em không hiểu được đâu tại vì em còn trẻ lắm. Em chưa thấy hết được sự kinh khủng của một người đàn ông sống trong nỗi cô đơn cùng bệnh tật đeo bám. Cái góc quán của anh ngồi nhìn sang một khách sạn. Đêm đêm có nhiều cô gái tìm đến ký sinh nhờ ánh đèn sáng trắng hắt ra từ tòa nhà đó. Có một người đàn bà hương đã tàn, sắc đã phai cũng tìm đến cái khách sạn đó để bán những thứ có thể bán được trên cơ thể mình. Nhưng những thứ cô ấy rao bán bị người đời hờ hững. Không bán được thì cô ấy không có cái ăn. Cô ấy đã uống nước trà của anh để sống cho qua ngày. Nhiều lần như thế. Có một lần cô ấy nhịn đói suốt mấy hôm liền. Ba ngày bụng cô ta chỉ chứa toàn nước trà và cô ấy đã ngất xỉu ngay khi cầm chén nước thứ mười ba mà anh vừa đưa cho. Cũng là cái kiếp người mà sao lại khổ thế? Trước đây cô ta cũng có chồng có con. Nhưng chồng con cô ta kịp di tản trước giải phóng còn cô ta vì mải một chuyến buôn bán ngoài Đà Nẵng nên bị kẹt lại không đi được. Anh đã đưa cô ấy về căn hộ tập thể của mình. Từ hôm ấy anh là người có vợ. Cũng từ hôm ấy sự sống của bé Ly được hình thành.
Ừ, có lẽ chỉ nên biết đến thế thôi chú út ạ. Mà sao chú ghi chép gì mà nhiều thế? Thì vẫn biết chú là nhà báo. Vẫn biết chú viết văn. Nhưng chẳng lẽ chú lại định viết chuyện về cuộc đời anh? Có gì đâu để mà viết nhỉ? Mà nhà mình có ai theo nghiệp văn chương đâu, sao chú lại có cái gien đó nhỉ? À đúng. Đúng rồi, thời thanh niên bố đã từng làm thơ. Chẳng lẽ đó là sự khởi đầu cho cái gọi là di truyền đời văn của chú? Mà chú viết những cái gì? Bằng tuổi chú anh chưa viết nổi một câu văn gãy gọn đâu. Văn chương của chú lại còn được giải nữa kia! Thế thì giỏi lắm, tài lắm và rất ngạc nhiên với anh đấy. Chú cho anh đọc những cái chú viết có được không? Anh sẽ đọc ngay. Chú khiến anh tò mò rồi đấy, chú Đạo ạ.
Cu Đạo đưa cho Minh Việt một tập sách mới xuất bản, trong đó in mười cái truyện ngắn. Đạo chỉ vào hai cái truyện và bảo: “Đây, em được giải bởi hai cái này, toàn chuyện gia đình mình cả thôi”.
Hôm sau Minh Việt đóng cửa phòng nằm đọc hết hai cái truyện được giải. Chuyện thứ nhất có đầu đề là “Bố và anh trai”. Câu chuyện được viết như sau:
Gia đình tôi sống ở thị trấn An Lạc. Bố tôi tên là Bình. Ông cao một mét sáu mươi nhăm, người tầm thước, tính tình hiền lành, ít nói. Bố tôi có tất cả sáu người con. Tôi là con út. Anh trai cả tôi đi bộ đội đánh Mỹ, sau giải phóng chuyển ngành về làm ở một xí nghiệp đánh cá quốc doanh trong miền Nam. Tôi hầu như không biết mặt người anh cả này. Khi tôi còn nhỏ anh có về nhà đôi ba lần nhưng trí óc non nớt của tôi không ghi nhớ được điều gì về anh. Tuy nhiên tôi vẫn thường tự hào với bạn bè là tôi có một người anh trai làm thủy thủ. Tôi đã có lần viết thư cho anh. Sau khi tôi viết thư đi được một tháng cả nhà tôi vui như tết vì được anh gửi cho tới hơn một yến cá khô. Ngày ấy cả nước đang sống trong thời bao cấp. Gia đình tôi không thiếu lương thực nhưng rất thiếu thực phẩm. Với tôi những bữa cơm không có thức ăn luôn là điều ám ảnh sợ hãi. Tôi không thể nào quên được món tôm kho của mẹ. Ba lạng tôm có lẽ phải đi kèm với sáu lạng muối. Có nghĩa là cứ mỗi con tôm phải cõng trên mình nó một lượng muối nặng gấp đôi. Mỗi một con tôm như thế có nhiệm vụ áp tải một bát cơm đầy đi từ ngoài miệng vào trong dạ dày của tôi. Tôi kinh hãi những con tôm được bao bọc quanh mình đầy một thứ tinh thể trắng nhờ, mặn chát đó. Và một lần nhân dịp mẹ tôi sang nhà hàng xóm chơi, tôi đã đổ cả bát tôm vừa kho xong vào chậu nước nóng. Tôi dùng đũa ngoáy đều cho những hạt muối trên mình tôm hòa tan trong nước, sau đó tôi vớt tôm ra rá, vẩy cho khô nước rồi lại để vào bát nguyên vẹn như cũ. Bữa cơm chiều hôm ấy, cả nhà ăn hết vèo bát tôm đáng lẽ phải để dành cho cả ngày hôm sau nữa. Mẹ không nói gì, chỉ lẳng lặng ngồi nhìn tôi nhai rau ráu những con tôm đã được rửa hết muối bám xung quanh. Tối hôm ấy, mẹ bảo tôi: “Cả ngày mai nhà mình sẽ phải ăn cơm với nước mắm, con đã muốn thế thì mẹ sẽ chiều”. Tôi bảo: “Nhưng mẹ ơi, tôm mẹ kho mặn lắm, con không ăn được”. Mẹ cười buồn: “Mẹ sợ rồi không còn cái mằn mặn, đằm đằm ấy để mà đưa cơm nữa cơ con ạ”. Tôi hỏi: “Sao lâu lắm rồi không thấy anh Việt gửi cá khô về mẹ nhỉ”. Mẹ bảo: “Con thử viết thư hỏi anh ấy xem”. Và tôi đã viết thư. Và anh Việt, tức anh cả tôi, người anh làm thủ thủy vô cùng mến yêu của tôi đã gửi cả yến cá khô về. Trong suy nghĩ thầm kín của tôi, tôi luôn cho rằng công lao của tôi rất lớn. Cá khô rất ngon. Lạc thịt mà lại không mặn. Chắc anh Việt tôi đã lựa chọn cho tôi thứ cá ngon nhất để gửi về? Người anh yêu quý ấy của tôi ngày ngày vẫn đang đi trên biển lớn bằng con tàu to mà tôi vẫn được nhìn thấy ở trên phim ảnh. Tôi tha hồ tưởng tượng về anh với vô vàn những điều hay ho, và tôi kể những điều hay ho đó cho mấy thằng bạn cùng xóm phố với mình. Thật không ngờ, có một thằng bạn ở gần nhà tôi bảo rằng: “Đó không phải là anh mày. Mẹ mày không đẻ ra anh ấy. Anh ấy không bao giờ thèm về ở nhà mày đâu!”. Tôi tức điên lên. Tôi hỏi mẹ. Mẹ bảo: “Ừ, mẹ xin anh ấy về nuôi từ khi còn rất nhỏ. Con và anh ấy vẫn là anh em. Không sao cả. Đừng nghe người ngoài nói lung tung. Anh Việt nghe thấy anh ấy sẽ buồn”
Nhưng “người ngoài” không chịu dừng những lời nói “lung tung” lại. Họ bảo: “Mẹ mày là dì ghẻ, đối xử với nó chẳng ra gì nên nó không bao giờ dám quay trở về nhà nữa”. Tôi đành hỏi bố. Bố bảo: “Con còn nhỏ, đừng hỏi chuyện đó làm gì. Lớn lên rồi con sẽ hiểu”
Bố tôi làm chủ tịch thị trấn được đúng một năm thì nghỉ hưu. Tính ra thị trấn tôi ở từ ngày hòa bình lập lại đến nay tất cả đã bốn lần tách, nhập. Khi thì nhập vào với huyện Lãng Tiên, lúc lại nhập với Hải Phòng, rồi lại tách ra, lại chia nhỏ thêm nữa... Bác Mộc bạn bố tôi lúc thì làm chủ tịch, lúc thì làm bí thư, cho đến lúc nghỉ hưu lại vẫn là bí thư. Người dân thị trấn đùa rằng bố tôi và bác Mộc là hai ông quan chậm tiến nhất của đất An Lạc. Vì rằng bác Mộc khởi đầu quan nghiệp cho đến lúc về hưu, ba mươi nhăm năm cả thảy, không lên được một cấp. Bố tôi thì sau ba mươi sáu năm mới tiến được từ chức phó chủ tịch đến chức chủ tịch, mà cũng chỉ là chức quá độ để cho một lớp lãnh đạo khác lên thay thế. Lúc này tôi đã lớn. Đất nước đã thoát ra khỏi thời kỳ bao cấp u ám và ảm đạm. Các anh chị tôi đều đã trưởng thành. Tôi có thêm một chị làm ở ngành lương thực - chị Ánh. Lại có thêm một anh làm công an - anh Đình. Gia đình tôi thuộc mẫu gia đình gia giáo và chuẩn mực của thị trấn. Tôi sẽ chưa quan tâm và tìm hiểu nhiều về bố tôi nếu như không có một hôm anh trai làm công an của tôi đi làm về, hớt hải tìm gặp bố. Tôi thấy hai người thì thầm điều gì đó, vẻ quan trọng lắm. Rồi bố tôi đi đi lại lại, nét mặt bần thần, nhăn trán nhíu mày, trông rất căng thẳng. Hôm sau tôi thấy mẹ đi chợ về sớm, lại sột soạt đóng gói cho anh Đình mang theo một bọc to. Anh Đình thường mang những cái bọc ấy đến một khu trại ở đằng sau núi Cô Hồn. Tôi vẫn nghe mọi người nói rằng khu trại ấy dùng để tập trung cải tạo những thành phần đặc biệt nguy hiểm, có nợ máu với nhân dân. Tôi chợt giật mình: Hay anh cả tôi gây ra việc gì nên bị người ta bắt vào đấy rồi? Tôi hỏi bố, bố bảo: Ở đấy có một người trước kia là bạn bố, sau này người ấy làm đến chức đại loại như bộ trưởng của chế độ ngụy. Tình xưa nghĩa cũ, bố gửi quà thăm nom thôi.
Mấy năm sau thì khu trại ấy giải tán. Tối hôm đó bố giao tôi đứng trước cửa nhà để trông chừng không cho ai vào. Anh Đình đưa người đàn ông vừa được ra trại đi lối cổng sau vào nhà. Chẳng biết bố tôi và người bạn vừa được cải tạo kia nói với nhau những gì, khoảng hơn một tiếng đồng hồ sau thì anh Đình đích thân dùng xe đạp chở người bạn bố sang bến xe bên Phòng để ông ấy đi vào miền Nam. Vài năm sau nữa bố tôi nhận được thư của “bác Thành”. Bác ấy đã sang Mỹ. Tôi vào đại học được hai năm, trong một lần về nhà chơi được bố cho biết cả nhà đang chuẩn bị đón bác Thành. Cuối cùng thì bác Thành cũng xuất hiện. Người đàn ông bí ẩn trong ký ức niên thiếu của tôi hóa ra lại rất đẹp. Ông có dáng dấp hao hao giống bố tôi nhưng hồng hào, phương phi hơn. Bố tôi bảo: “Bây giờ chúng ta có thể tiếp nhau đàng hoàng mà không còn sợ gì nữa. Những nợ nần với lịch sử chúng ta đã trả xong. Cả tôi và ông đầu đều đã bạc. Nếu còn “cô đầu ngõ Cấm” tôi với ông phải thuê một chuyến xích lô sang đó chơi mới được. Rõ ràng thời cuộc buộc chúng ta phải không nhận nhau mặc dù chúng ta là bạn và không ai muốn đánh mất tình bạn. Lịch sử nó thế, phải thế. Sinh ra trong đời chẳng ai tránh được bão táp cuộc đời. Ông Thành nhỉ?”
Bác Thành bảo: Lúc nào tôi cũng ơn ông. Không có ông dòng họ tôi tuyệt tự. Chính vì thế tôi không hận chế độ này. Tôi luôn cho rằng tôi là nạn nhân của lịch sử. Mà lịch sử thì chẳng nên trách móc làm gì. Người có “phận”, nước có “vận”. Tránh sao khỏi được “vận” ông nhỉ?
Bố bảo: Thằng con tôi cũng nhờ tay ông mà sống sót. Ông là người biết lịch sử của nó hơn chính nó đấy?
Bác Thành ngạc nhiên:
- Thế nghĩa là sao?
- Là vì mẹ nó chết khi nó được độ năm, sáu tuổi gì đó. Sau này tôi mới nhận nó về nuôi. Thời thơ ấu của nó tôi không rõ lắm.
- Tại sao ông lại không nhận mẹ con chị ấy sau ngày hòa bình lập lại?
- Chỉ có thể giải thích rằng tôi là con người nên cũng có những lúc tôi hành động thấp hèn. Tôi không yêu cô ấy nhưng tôi đã thực sự thiếu trách nhiệm, dám làm nhưng không dám chịu. Sau này tôi ân hận nhiều về chuyện ấy. Cũng phải mất cả một đời người mới hiểu ra những việc làm của mình là đúng - sai! May mà vợ tôi cũng tốt bụng. Nhưng dù thế nào thì tâm hồn thằng bé cũng chịu nhiều thương tổn. Phải chăng vì thế mà không thấy nó lấy vợ? Cũng đã lâu rồi nó không về đây. Không biết nó có hận tôi không?
Bác Thành hơi nhăn mặt một chút rồi sau đó hạ giọng, khẽ khàng:
- Nó lấy vợ rồi. Và có một đứa con gái. Có lẽ nó bị hậu quả chất độc chiến tranh nên sức khỏe sa sút ghê lắm. Tôi đã không giữ lời hứa với nó khi nói cho ông nghe chuyện này. Nó không muốn mọi người coi là một gánh nặng cho gia đình. Nó không hận ông. Nó có quan niệm giống tôi. Người có phận, nước có vận, không trách lịch sử vì không ai chọn được cho mình lịch sử để nương phận.
Bố tôi nghe đến đây bỗng ngã ngửa ra sau ghế, hôn mê bất tỉnh. Bố tôi đã sốc khi biết tin anh cả của tôi không phải là thủy thủ đang lênh trên đại dương cùng cánh buồm đỏ thắm mà chỉ là một anh bán nước trà rong bên vỉa hè Sài Thành. Lại còn bệnh tật. Lại còn nhiễm chất độc hóa học từ thời chiến tranh. Sao bao nhiêu bất hạnh đều chọn một anh tôi mà đổ vào thế? Sao bao nhiêu bất hạnh đều chọn người con riêng của bố tôi mà đổ vào thế?
Tất nhiên bây giờ thì tôi đã hiểu quan hệ giữa tôi và anh cả là như thế nào? Tôi với anh cùng cha khác mẹ. Tôi cũng đã hiểu thêm về bố tôi. Hãy tạm bỏ đi cái chức vụ chủ tịch một thị trấn nhỏ như An Lạc này, bỏ đi cái lý lịch oai hùng trận mạc một thủa của ông, bỏ đi bao nhiêu danh hiệu cao quý mà ông treo trên tường kia nữa, sẽ thấy ông hiện lên là một con người đầy rẫy những mâu thuẫn và cũng đáng thương như bao số phận khác mà thôi. Ông đã cứu bác Thành trên đường đưa đi xử tử. Ông đã dan díu với mẹ của anh cả tôi trong khi bị thương sau một trận đánh lớn. Sau này bác Thành lại cứu anh Việt tôi cũng sau một trận đánh. Quá khứ của ông phức tạp hơn tôi tưởng. Bảy mươi năm của một đời người chất chứa biết bao chuyện buồn vui. Bảy mươi triệu dân trên đất nước này sẽ là bảy mươi triệu pho tiểu thuyết vô cùng sống động. Có lẽ tôi phải cầm bút và phải làm nhà văn thôi.
Nhưng tôi sẽ cố gắng khác ông, người bố yêu quý của tôi. Ít ra là tôi sẽ dám nhận về mình những điều tôi thích hoặc không thích, yêu hoặc không yêu, làm hoặc không làm.
Tôi sẽ khác bố tôi.
Nhưng dù thế nào thì tôi cũng chỉ là sự thoát thai từ ông mà thôi.
Đọc xong mẩu chuyện, Minh Việt thấy lòng mình chùng xuống. Thì ra viết văn là như thế này đây. Lớp người hậu sinh sẽ không thôi tìm hiểu về quá khứ của người thân họ. Mừng thay họ nhìn nhận lịch sử bằng đôi mắt khá công tâm. Chú út đã thực sự làm Minh Việt ngạc nhiên. Anh hào hứng đọc tiếp chuyện thứ hai. Chuyện này có tên là “Chị Vân”. Câu chuyện được viết như sau:
Tôi có hai người chị gái và ba người anh trai. Xếp theo thứ tự chị hai tên là Ánh, chị tư tên là Vân. Chị Ánh hiền lành, ít nói, tính tình nhu mì, cẩn thận. Sau khi anh cả tôi đi bộ đội được vài năm thì bố tôi xin cho chị vào làm ở ngành lương thực. Bố tôi tính toán rất chi ly, cặn kẽ. Nhà đã có người làm công an, bộ đội rồi, phải có người làm lương thực, làm tài chính, làm thủy thủ tàu viễn dương và làm ngoại giao. Anh cả tôi là bộ đội, anh ba tôi là công an, chị Vân được hướng cho vào học trường tài chính kế toán, anh năm sẽ học trường hàng hải và tôi sẽ học trường ngoại ngữ.
Bố tôi đã tính đúng và cơ bản mọi sự cũng diễn ra đúng như cách tính toán của ông. Chị Vân tôi rất xinh đẹp. Cả phố Tứ Phủ không ai đẹp bằng chị. Mười ba tuổi chị được giải nhất về múa khối học sinh cấp hai. Mười sáu tuổi chị đoạt giải nhất ngâm thơ khối học sinh cấp ba. Chị thích ca hát, thích được làm văn công. Mười bảy tuổi chị theo bạn bè đi thi và trúng tuyển vào Đoàn văn công Quân khu Tả ngạn. Khi chị cầm giấy báo về bị bố tôi cho một bạt tai vì “ai bảo mày làm cái nghề con hát mà mày lại cứ thích nhố nhăng?”. Chị Vân đành bỏ mộng văn công, tiếp tục học cho hết cấp ba rồi thi vào trường Trung cấp tài chính kế toán đúng như định hướng của gia đình. Tôi là em út trong nhà nên được xếp ngủ chung với chị Vân. Tôi rất tự hào về người chị xinh đẹp của mình. Rất nhiều người đến tán tỉnh chị và tôi được họ chiều chuộng hết mực. Họ thường đứng đón tôi ở đầu phố sau buổi học để hỏi thăm về chị Vân. Có người nhờ tôi chuyển thư, chuyển quà hoặc chuyển một lời nhắn nhủ gì đó cho chị. Trả công cho những việc làm đơn giản đó tôi thường nhận từ họ nào lạc rang, kẹo kéo, bánh bích quy, quả khế, múi bòng hoặc vài ba quả bàng chín. Nhưng tất cả những người theo đuổi chị Vân đều không phải là đối tượng mà chị quan tâm. Chỉ tôi biết được người yêu lý tưởng của chị là ai. Chị rất thích đọc truyện hình sự và mẫu người chị thích là những tên tướng cướp hào hoa, phong trần, bị hoàn cảnh xô đẩy và cuối cùng hướng thiện. Chị bảo chỉ có những tên cướp mới có tình yêu và sẵn sàng chết vì tình yêu. Một lần có một chiếc xe tù dừng lại trên phố Tứ Phủ để người áp tải và lái xe vào quán nghỉ ăn trưa. Bọn trẻ chúng tôi đứng dưới lòng đường nhìn lên, qua tấm lưới mắt cáo bịt sau xe, thấy lố nhố vài ba khuôn mặt xanh xao, vàng vọt. Họ là những phạm nhân bị dẫn giải từ trại này sang trại khác. Đa số họ đều rất trẻ. Tuy tóc cắt trọc, áo một màu xanh nhợt có đánh số tù, tay còng chung khóa số tám nhưng vẫn có vài ba khuôn mặt khá ưa nhìn. Chị Vân tôi cũng ra đứng xem. Và chị có tranh thủ bắt chuyện được với một anh chàng phạm nhân ngồi ngoài cùng, ngay sát tấm lưới mắt cáo. Tôi không để ý chị nói chuyện gì với anh ta, chỉ thấy anh ta dùng tay còn lại không bị còng lục trong chiếc túi vải lấy ra một quyển sổ mỏng nhét xuống dưới khe hở bên thành xe. Chị Vân đỡ lấy cuốn sổ đó. Và ngày hôm sau, qua miệng chị, tôi biết là hôm qua trong xe tù có một tên cướp thư sinh có học vấn, có chí khí, có con tim ứa lệ yêu thương. Chị đưa cho tôi xem quyển sổ mỏng của người phạm nhân mà chị đã trò chuyện. Tôi thấy chữ viết trong sổ rất đẹp, các trang đều viết thơ hoặc trích dẫn nhưng câu phương ngôn có thay đổi đi ít nhiều, kiểu như “Thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt/ Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm” hoặc “Anh hùng ắt mang thân tù tội” hay “Giang hồ gẫy cánh không rơi lệ/ Gông cùm chẳng thối chí nam nhi”... Nhìn chung cuốn sổ trình bày đẹp, nét viết tài hoa, bay bướm. Câu chữ đọc lên khá xúc động, có thể gây được chút cảm hoài nào đó với những người có tâm hồn đa sầu đa cảm. Đọc những dòng chữ ấy chị Vân tôi hình dung ra ngồi trong xe tù không phải là những tên trộm cướp tầm thường mà là những anh hùng sa cơ, những hảo hán thất vận, những đại ca mắc bẫy, những kẻ giang hồ gặp bước truân chuyên. Cuốn sổ ấy làm chị Vân rưng rưng mất mấy ngày. Tôi hiểu chị, thương chị nhưng chẳng thể nào can thiệp được vào cái sự nghĩ suy rất trúc trắc và khác người ấy của chị.
Vào đến năm cuối của trường trung cấp, đùng một cái chị theo bạn bỏ nhà đi vượt biên. Chị sang đến Hồng Kông sau mốc (thời hạn Liên Hiệp Quốc không tiếp nhận người tị nạn nữa) chỉ có chín ngày. Chín ngày ấy đã biến thành chín năm chôn vùi tuổi xuân của chị trong trại tị nạn. Thư chị viết về kể khá chi tiết quãng đường vượt biển của mình. Nào là đoàn tàu phải tạt vào chân giàn khoan dầu khí đổi vàng lấy nước ngọt, nào dạt vào đảo tránh bão và phải mò ốc biển nấu cháo với rau rừng ăn qua ngày, nào chia nhau từng sợi mì tôm nát bét cùng những vụn bánh mì ngấm nước biển, nào chân vịt bị gãy phải vét đến đồng tiền cuối cùng của tất cả mọi người trên tàu để mua chân vịt từ một tàu nước ngoài khác, nào đói khát, nào say sóng, nào nhớ nhà, thương bố mẹ và các em...
Những lá thư sau là tình hình các thuyền nhân tìm mọi cách để được Liên Hợp Quốc thừa nhận là tị nạn chính trị. Phải là tị nạn chính trị thì mới được đi nước thứ ba, mới tới được thiên đường. Còn nếu không chứng minh được điều ấy sẽ bị coi là tị nạn kinh tế. Mà tị nạn kinh tế thì sẽ bị trả về nước và Liên Hợp Quốc sẽ giúp cho vay vốn để làm ăn sinh sống ngay trên chính quê hương mình. Đã sang tới Hồng Kông rồi chẳng ai muốn quay trở về cả. Thế là ai cũng chuẩn bị cho mình một lý lịch lâm ly, bi khốc, ai cũng cố chứng minh rằng mình là tị nạn chính trị. Nghĩa là phải tự nhận gia đình mình có thâm thù với chế độ cộng sản, hoặc chứng minh bản thân là nạn nhân của các cuộc đàn áp tôn giáo, dân tộc, đa nguyên tư tưởng, phản kháng chế độ... Thanh lọc lần một. Thanh lọc lần hai. Rất ít người được thừa nhận như lý lịch tự khai. Hóa ra không phải cứ nhận phản động là người ta tin, cứ chửi đất mẹ là người ta nhận. Các thuyền nhân lại nghĩ ra cách biểu tình, tuyệt thực, rải truyền đơn, trích máu ký đơn kêu lên các tổ chức quốc tế để chống ép buộc về nước. Nhưng chẳng quốc gia nào muốn nhận những người bỏ nước ra đi kia nữa. Nếu nhận thì sẽ lại tạo nên những cuộc di dân mới và sẽ chẳng biết đến khi nào dòng người tị nạn mới hết chảy vào nước họ. Các thuyền nhân muốn đến được với thiên đường của mình chỉ còn có một cách duy nhất, ấy là theo con đường hôn thê. Các cô gái đua nhau nộp ảnh cho các tổ chức môi giới để họ giới thiệu cho những người đàn ông đang muốn tìm vợ. Các cô gái trẻ đẹp thường được chọn trước. Chị Vân tôi vốn xinh đẹp. Có nhiều mối muốn làm hôn thê với chị. Nhưng không hiểu sao chị nhất quyết không ra khỏi trại bằng con đường đó. Cho đến khi trại tị nạn cuối cùng ở Hồng Kông được dỡ bỏ, chị Vân về nước cùng với một đứa con trai tám tháng tuổi và một người chồng bị bắt ngay tại sân bay nước nhà thì mọi sự mới rõ ra. Chồng chị là một tên cướp nguy hiểm, trong khi thi hành án đã trốn trại vượt biên. Và bây giờ không còn nơi nào cho anh ta trốn chạy nữa, về nước, anh ta phải tiếp tục thi hành phần hình phạt còn lại của mình. Hình như còn ba năm bốn tháng nữa thì phải? Đấy là chưa kể phải cộng thêm cái án trốn trại sau này!
Sau này tôi mới biết chị Vân tôi đã gặp và si mê anh chàng tướng cướp kia ngay khi đặt chân tới đất Hồng Kông và ở cùng nhau trong một trại tị nạn. Mẫu người dễ gây xúc động nhất trong chị đã xuất hiện, chả trách chị chẳng thể còn làm hôn thê được với ai!
Chị Vân đã liên tiếp gây khó xử cho bố tôi. Cho anh trai làm công an của tôi. Và ngay cả cho việc được xét đi học cảm tình Đảng hồi còn là sinh viên của tôi nữa. Cũng may càng ngày cái nhìn của xã hội đối với những người vượt biên bỏ đất nước ra đi càng nhẹ nhàng hơn. Bố tôi vẫn công tác đến khi đủ tuổi thì về hưu. Nhưng ông đau lòng bởi việc ra đi của chị Vân đã làm hỏng hết mọi dự tính của ông. Đã vậy chị Vân lại trở về trong tư thế của người thất bại, của một đứa con “bôi tro trát trấu” vào mặt bố mẹ. Giá chị cứ thế mà đi hẳn sang nước thứ ba thì có lẽ bố tôi đỡ buồn, mẹ tôi đỡ tủi hơn. Đời thủa nhà ai ái nữ của một chủ tịch thị trấn, xinh đẹp, khôn ngoan, có ăn có học lại bỏ nhà vượt biên “phản bội tổ quốc”, rồi lại dan díu với phường trộm cướp, bây giờ về nhà ôm con chờ đến ngày đến tháng vào trại giam tiếp tế cho chồng thì có nhục không, có đau đớn không, có tủi phận cho bậc làm cha làm mẹ không?Ấy thế nhưng chị Vân tôi lại chẳng lấy đó làm điều. Chị vẫn hồn nhiên ca hát, vẫn la cà hết nhà này sang nhà khác kể về những tháng ngày ở trại, những tính cách có một không hai của chồng. Rồi chị còn bảo: “Khi nào anh ấy ra trại, anh ấy sẽ làm hẳn một đám cưới to đón mẹ con cháu về bên Phòng”. Bố tôi đe, mẹ tôi mắng, rằng như thế là cái giống con nhà không có gia quy gia pháp, rằng lấy thằng chồng tù mà còn đi khoe với hết cả thiên hạ thì xưa nay có mày là một, rằng hay hớm gì cái chuyện vượt biên không thành mà cứ hơn hớn kể chuyện ở trại tị nạn cho hết thảy mọi người nghe, rằng đầu óc chẳng có ý thức chính trị gì cả, bố đảng viên, anh đảng viên, em đảng viên, lại đang là cán bộ nhà nước, thế mà cứ tô tô ra miệng những chuyện đi ở, chẳng biết giữ gìn cho gia đình, cho người thân, ấy là chưa kể cái lý lịch mày khai ở bên Hồng Kông nhem nhuốc những thứ gì nữa? Chị nghe chửi nhưng vẫn đâu đóng đấy. Tính khí chị vậy, làm sao mà thay đổi được?
Thế rồi ba năm bốn tháng cũng trôi cái vèo. Anh chàng tướng cướp của chị Vân tôi được miễn tố tội trốn trại nên chỉ phải bóc lịch có từng ấy thôi. Anh ra trại hôm trước thì hôm sau dẫn đầu một đoàn bảy thanh niên trẻ trung, khỏe mạnh, bê bảy mâm quả phủ vải đỏ sang nhà tôi xin hỏi cưới chị Vân.
Bố tôi cấm cửa không cho mang quả vào nhà. Ông bảo: “Tao cho không mày, cứ đón hai mẹ con nó về, bày trò làm gì cho thiên hạ người ta cười cho”. Anh chàng tướng cướp của chị Vân tôi bảo: “Nhưng Vân chưa bao giờ được bước lên xe hoa, con muốn thực hiện mơ ước ấy của em Vân bằng cách đón Vân về nhà chồng bằng mười ba chiếc xích lô có lọng che”. Bố tôi bảo: “Anh mà lảm nhảm nữa, tôi sẽ đuổi anh ra khỏi nhà”. Chồng chị Vân bảo: “Con làm tất cả vì tình yêu, con mang hoa đến nhà mình chứ có mang dao găm súng lục đến đâu mà bác đuổi con?”. Bố tôi bảo: “Thôi, tôi không cãi lý cãi tình với anh. Coi như tôi cho không anh đứa con gái và không đòi hỏi gì cả”. Chồng chị Vân vẫn cố nài: “Vậy trong số sính lễ con mang tới, bác nhận cho con mâm trầu!”
Thế là chị Vân về nhà chồng với đứa con trai đã gần năm tuổi. Chẳng có mười ba chiếc xe xích lô có lọng che đón rước như mơ ước thời con gái của chị. Hai vợ chồng chị mở một cửa hàng giày dép rất to. Cứ vài tháng anh rể tôi lại giục tôi đổi giày một lần. Tôi hỏi anh: “Ngày xưa anh cướp của người ta cái gì?”. Anh cười rất hiền: “Một đôi giày da ngoại. Nhưng bị chống cự. Thế là cho một nhát. Đi luôn quả thận”
Chị Vân tôi là thế. Có thể coi đó là một số phận có thăng trầm, có mảng miếng cho văn học. Trong chị không có một nét tính cách nào của bố hay của mẹ. Mẹ tôi nghiệt miệng nhưng thực tế, nhân hậu. Bố tôi cầu toàn, dĩ hòa vi quý, luôn tìm cách che chắn những giông gió cuộc đời. Thế mà chị Vân tôi lại lãng mạn dở hơi và không ngừng dội bom vào sự cầu toàn của bố. Biết làm sao được. Bố mẹ sinh con trời sinh tính. Sau này bố tôi đã phải thốt lên: “Ở đời, càng cầu toàn càng chẳng toàn! Càng co ro tránh rét càng rét!”
Rất lâu sau này tôi mới hiểu được điều ấy.
Đọc xong hai cái chuyện của cu Đạo, Minh Việt bỗng thấy thương bố quá. Thảo nào Đình bảo: “Chuyện của cái Vân và thằng Đức buồn lắm, có lẽ bố tổn thọ vì hai đứa này”.
Vậy là còn chuyện của thằng Đức nữa. Thằng bé đã làm nên nông nỗi gì rồi? Từ hôm Minh Việt trở lại An Lạc đến giờ không thấy nó đâu cả. Hỏi mợ, mợ bảo: “Em nó đi làm ăn xa, vài ba tháng nữa mới về”. Có thật Đức đi làm ăn xa không hay mợ lại giấu Minh Việt điều gì đây?