← Quay lại trang sách

Chương 10

Người bạn đầu tiên tìm đến chơi với Minh Việt là họa sĩ Tịnh.

Tịnh để tóc dài, đầu lúc nào cũng sùm sụp cái mũ lưỡi trai bằng vải dày. Trong chiếc túi may theo kiểu ba lô mà Tịnh mang bên người có thể tìm thấy cả tỉ thứ, từ dao cạo râu đến mẩu thuốc lá, từ nắm xôi ăn dở đến mấy bức ký họa trên trang vở học trò xé vội, từ máy ảnh đến cần câu cá, từ chiếc quần bò rách nham nhở đến tuýp màu thừa, từ chiếc đài con đến lọ dầu gió, từ chiếc tăm tre đến chai rượu Napôlêông X.O. Tóm lại đó là chiếc túi của một người thường xuyên “sảy nhà ra thất nghiệp”, thường xuyên đi bụi, thường xuyên dấn thân vào những đam mê nghệ thuật đầy ngẫu hứng và thất thường.

Tịnh đưa Minh Việt đến Cô Hồn quán. Quán nằm ngay dưới chân núi, bày xếp rất trang nhã. Đặc biệt, xung quanh quán có treo rất nhiều tranh. Cô Hồn quán chuyên về đặc sản rừng. Đây là một trong những quán ăn tư nhân đầu tiên ở thị trấn An Lạc, chính nó đã góp phần cáo chung ngành thương nghiệp kiểu cũ, cáo chung những “Cửa hàng ăn uống mậu dịch” nơi mợ Minh Việt từng công tác suốt mấy chục năm qua. Tịnh hất tay ra hiệu cho cô tiếp viên nhà hàng tới gần và gọi món rắn. Trong khi cô tiếp viên chuẩn bị rượu và gọi người làm rắn, Tịnh quay sang nói với Minh Việt:

- Tao không ngờ mày lại tàn tạ đến thế này. Có được hưởng chế độ ưu đãi gì không?

- Có tiền trợ cấp. Đủ cho con bé ăn sáng thôi.

- Vậy bây giờ mày tính làm gì để sống?

- Tao cũng chưa biết tính cách gì. Thằng Đình bảo nó sẽ lo việc cho tao. Có thể kiếm được một chân bảo vệ.

- Thôi, đến xưởng của tao mà làm. Cả cái thị trấn này chỉ có mình tao độc quyền Kẻ vẽ - trang trí. Ngày xưa mày làm gạch gói cũng khéo tay, tao sẽ bổ túc thêm cho. Đủ nuôi một thân mày với con bé.

- Sao mày lại học nghề họa sĩ?

- Ai mà biết được. Sang Bun người ta ấn tao vào trường Mỹ thuật. Tao giãy nảy lên. Tao muốn vào làm công nhân ở một nhà máy nào đó để nhanh chóng có vài thứ đồ dân chủ gửi về cho ông bà già chứ học hành làm gì, tao đâu có thiết. Nhưng người ta bảo, Mỹ thuật cũng góp phần đánh Mỹ. Phải học Mỹ thuật để sau này về nước vẽ tranh cổ động cho toàn dân ra trận. Tổ chức đã phân công thì chấp hành. Thế là tao bắt đầu làm quen với hội họa hoành tráng, hội họa giá vẽ. Rồi các thể loại của tranh giá vẽ như Chân dung, Phong cảnh, Tĩnh vật, Bố cục. Tiếp theo là mày mò với các chất liệu sơn dầu, lụa, sơn mài và tìm hiểu các khuynh hướng hội họa như Ấn tượng, Dã thú, Lập thể, Siêu thực, Trừu tượng... Không ngờ tao lại có khiếu hội họa mày ạ. Về nước tao vào làm ở Sở văn hóa. Bây giờ thì về Phòng văn hóa. Lại có tham gia tí chút bên Hội văn học nghệ thuật. Tao không giàu có nhưng đủ tiền làm cái mà mình thích. Tao vẫn hỏi thăm mày. Tưởng mày ngon lành trong ấy rồi chứ đâu ngờ mày lại khố bện thế này.

- Chuyện đời tao...

- Thôi, tao rõ rồi. Cái số mày là số cứt chó. Chấp nhận vậy. Nhưng cái này thì tao phải hỏi mày. Mẹ con bé đâu?

- Sang Mỹ theo diện đoàn tụ rồi.

- Tao tưởng...?

- Mẹ con Ly là thứ gái không ra gì phải không? Đúng, khi tao gặp nàng thì nàng không ra gì. Nhưng trên người nàng có một thứ mùi thơm của loại nước hoa rẻ tiền. Chính mùi nước hoa ấy đã hồi phục lại nam tính trong tao.

- Tao không hiểu. Lúc hết chiến tranh mày vẫn còn rất ngon lành. Sao mày không lấy vợ vào lúc đó?

- Mày không hiểu là đúng thôi. Mày không biết tao đã từng phải vào bệnh viện điều trị về tâm thần, đúng không?

- Tao có nghe lại chuyện ấy. Mày bị sốc vì cái chết của Cói?

- Phải, hệ quả của nó là tao mất khả năng đàn ông. Và tao đã gặp chị Vi Lay. Bà Khơ-me ấy mà...

- Tao cũng có nghe chuyện ấy. Và tao đã nghĩ rằng mày thật bẩn thỉu.

- Chính người đàn bà ấy đã trả lại chức năng đàn ông cho tao. Nhưng cũng đúng lúc ấy thì tao phải ra trận vì quan hệ của tao không được thời ấy công nhận. Lại một lần nữa tao mất khả năng giới tính. Cứ ngửi thấy mùi đàn bà là tao nôn mửa.

- Chuyện của mày khiếp quá. Tất cả những thằng đàn ông sinh ra ở phố Tứ Phủ đều bị ức chế sinh lý vì một thời người ta thủ tiêu cái đó. Tao cũng giống mày. Sau cái chết của Lý tao không thể yêu được ai nữa. Nhưng tao vẫn lên giường với đàn bà và làm cái chuyện ấy như thường. Còn mày lại dính một thứ “tâm sinh lý” kỳ quái có một không hai. Tại sao thế?

- Tao cũng không giải thích được. Sau này thật vô tình tao lại tìm thấy chính mình bên cạnh mẹ con Ly. Và tao nhận ra một điều. Trên người chị Vi Lay và trên người mẹ con Ly, cả hai đều có một thứ rất chung, ấy là mùi nước hoa rẻ tiền.

- Kinh khủng quá! Nhưng cũng thật đáng thương cho mày. Chỉ có điều...

Thằng Tịnh bỗng dừng lời khi một thiếu phụ xuất hiện. Cô ta đi thẳng đến bàn của hai người. Minh Việt bàng hoàng trước sắc đẹp của người đàn bà này. Một khuôn mặt quý phái. Một sống mũi thanh tú. Một bờ môi gợi tình nhưng không trắc nết. Một đôi mắt buồn và ướt. Một nụ cười mừng rỡ và thân mật. Và, tất nhiên, một giọng nói ngọt ngào cất lên ngay sau đó:

- Các anh đến lâu chưa?

Tịnh đưa tay kéo cô ta ngồi xuống sát ngay bên mình rồi quay sang Minh Việt giới thiệu:

- Đây là em Hoài, chủ quán đặc sản này. Còn đây là...

- Anh Minh Việt, người mà anh đã kể cho em nghe nhiều lần. Cuối cùng thì em cũng đã được gặp anh. Chúng ta cùng là người An Lạc cả. Hôm nay em sẽ tiếp rượu cho các anh - Hoài tiếp lời Tịnh như thể cô ta từng chờ đợi giây phút này đã lâu.

Buổi chiều hôm đó Minh Việt đã uống rất nhiều. Quá khứ trỗi dậy và không thể không uống cho những đắng cay của đời người trôi sâu xuống tận đáy ruột. Hoài trổ tài làm rắn làm cho Minh Việt xem và anh thực sự kinh ngạc. Trái tim rắn vẫn còn hồng tươi được Hoài thả vào ly rượu phập phồng, phập phồng cho đến khi tắt lịm, chín tái. Hoài là người cầm ly rượu đưa lên môi uống đầu tiên rồi sau đó đến lượt Minh Việt và Tịnh. Các món nướng, chiên, sả lần lượt được mang ra. Uống đến độ thì Tịnh nói về hội họa. Về ái dục. Về thời thế. Về lứa thanh niên Tứ Phủ cũ và mới. Về một miền xa thẳm nào đó của Cái Đẹp. Hoài lắng nghe những điều thằng Tịnh nói như một tín đồ ngồi nghe giáo sĩ thuyết giảng. Minh Việt ngồi nghe thằng Tịnh nói ngỡ như trong cõi lòng sâu xa của mình có một cục băng đang tan chảy. Và rượu được đưa lên môi hết lần này đến lần khác. Cho đến khi Minh Việt gục xuống bàn vẫn còn thấy cái dáng thằng Tịnh đang ngồi uy nghi trước mặt nói say sưa, đau đáu về miền xa thẳm của Cái Đẹp. Còn Hoài thì khóc, những giọt nước mắt rơi ra từ đôi mắt buồn và ướt, lóng lánh, tan nát...

Minh Việt cũng không biết ai đưa mình về nhà. Anh tỉnh dậy trong căn phòng rộn rã tiếng nhạc cùng tiếng hát xé lòng của Khánh Ly:

Một ngàn năm nô lệ giặc Tàu, một trăm năm đô hộ giặc Tây, hai mươi năm nội chiến từng ngày, gia tài của mẹ để lại cho con, gia tài của mẹ là nước Việt buồn.

Ánh mắt của Minh Việt dừng lại ở góc phòng và anh nhìn thấy một mái đầu có những sợi tóc nhuộm màu râu ngô đang đung đưa theo điệu nhạc. Thì ra chú Đạo đang nghe nhạc Trịnh và lẩm nhẩm hát theo. Bỗng bố thò đầu vào phòng, quắc mắt lên nhìn cu Đạo:

- Mày có tắt ngay cái thứ nhạc bố láo ấy đi không? Mày có ăn có học mà nghe được thứ nhạc ấy hả? Ông thì ông lại đập nát đài ra bây giờ chứ lại!

Cu Đạo sợ bố, vội đưa tay tắt xẹt thứ giọng xé ruột đang đến độ cao trào. Khi bố bỏ đi rồi, Minh Việt mới hỏi:

- Chú thích thứ giọng này à?

- Vâng, đây là đĩa Ca khúc da vàng của Trịnh Công Sơn. Không hiểu sao bố lại rất ghét. Anh có hay nghe nhạc Trịnh không?

- Ở trong Nam họ cũng rất thích nghe nhạc này. Anh không có điều kiện để thưởng thức âm nhạc, nhưng cũng có biết giọng ca Khánh Ly. Nghe buồn lắm. Chú còn trẻ thế sao lại thích nghe nhạc buồn?

Cu Đạo không trả lời mà đưa tay vặn nhỏ chiếc đài đĩa. Giọng Khánh Ly lại cất lên tưng bừng: Mẹ mong con mau bước về nhà, mẹ trông con lũ con đường xa, ôi lũ con cùng cha, quên hận thù.

Rồi Đạo quay sang hỏi Minh Việt:

- Hôm qua anh uống ở đâu mà nhiều thế?

- Anh Tịnh đưa đến Cô Hồn quán.

- Quán đặc sản rắn của con mẹ Hoài chứ gì? Sao anh Tịnh lại chết mê chết mệt con mụ chủ quán ấy nhỉ?

- Sao? Cô ấy rất đẹp và cư xử được đấy chứ?

- Xì, mụ ấy là vợ của thằng Tân Tây đen trước ở xóm chân cầu. Thằng Tân là đại ca của bọn đầu gấu ở đất An Lạc này. Nhưng mấy năm trước Tân Tây đen đánh nhau, phải vào tù và chết trong đó. Mụ Hoài cũng ghê gớm chẳng khác gì chồng. Anh Tịnh là dân nghệ sĩ, vậy mà chẳng hiểu sao lại chơi với hội đó và bây giờ thì cặp với mụ Hoài? Nói chung anh Tịnh khó hiểu lắm.

Minh Việt không nói gì nữa, bật dậy vươn vai rồi ra ngoài hành lang tập thể dục. Làm sao chú Đạo có thể hiểu được những người như Tịnh và anh. Mặc dù chú là nhà báo, là người viết văn nhưng thế hệ của chú chưa đủ thời gian để bám rễ sâu vào lịch sử của thị trấn từng được mang tên Nét Mặt Buồn này. Ngay cả đến Tân Tây đen chú cũng đâu có hiểu rõ con người đó. Cả thị trấn An Lạc có hai đứa con lai cùng thế hệ với Minh Việt. Cả hai con người ấy đều là kết quả của những lần cưỡng hiếp giữa những tên lính viễn chinh và những người đàn bà bất hạnh. Đứa con lai trắng là Cói, còn đứa con lai đen là Tân. Cói đã chết thảm bên ụ súng phòng không vào những năm bom đạn rải đầy mặt đất. Còn Tân, với màu da luôn gợi nhắc đến sự trả thù thì sẽ phải sống làm sao giữa những người không biết có được gọi là đồng bào của mình hay không? Minh Việt không có ý định lý giải những gì xảy ra với cuộc đời của Tân Tây đen nhưng anh tin rằng mọi sự đưa đẩy anh ta đến chỗ chết, dù là nơi tù ngục, thì cũng đều có lý do của nó. Và dù lý do ấy có thế nào đi nữa thì đó vẫn là một số phận đáng thương. Chẳng phải nó cũng rất giống số phận của anh đấy ư? Chẳng phải đó là những kiếp người sinh ra đã gặp phải sự trớ trêu rồi đấy ư? Vậy thì mỉa mai sự trớ trêu làm gì?

Sau khi tham khảo ý kiến bố và mợ, Minh Việt quyết định đến làm ở cửa hàng Kẻ vẽ - trang trí của Tịnh. Công việc không có gì khó lắm. Chất liệu trang trí bây giờ rất phong phú. Các loại nhựa, giấy màu và các vật liệu trang trí khác rất sẵn. Các kiểu chữ, kích cỡ chữ đều được làm bằng máy vi tính. Những việc đó Tịnh giao cho đám nhân viên làm. Minh Việt làm cùng với họ. Còn Tịnh chỉ làm những tranh áp phích cổ động hoặc những tấm panô quảng cáo lớn. Ngoài ra Tịnh còn dành thời gian để vẽ tranh nghệ thuật. Tịnh đang có ý định mở triển lãm lần thứ hai. Tịnh không lấy vợ. Đôi ba lần Tịnh mời Minh Việt vào phòng riêng xem những bức tranh của mình nhưng Minh Việt không hiểu lắm về hội họa, cũng chỉ gật đầu lấy lệ.

- Tao còn hai bức cực kỳ tâm đắc, nhưng không treo ở đây. Khi Tân Tây đen còn sống, hắn đã từng trả tao hai mươi triệu một bức.

- Thế bây giờ nó đâu rồi? - Minh Việt tò mò.

- Tao cho Hoài mượn treo tạm ở phòng ngủ của nàng.

- Tao muốn xem nó có được không?

- Được, khi nào có dịp. Mày sẽ rúng động tâm can. Tao tin chắc thế.

Chiều chiều, từ chỗ cửa hàng của Tịnh về, Minh Việt thường qua trường đón con. Nhiều lần Minh Việt phải ra chỗ bãi cỏ sau trường để tìm con bé. Không hiểu sao con bé rất ít nói, nó thích đọc sách và có vẻ rất mê nghề ký giả của chú Đạo. Nó là một đứa bé sống nội tâm, và thân phận của nó sẽ là cả một bí ẩn tế nhị đối với trí óc non nớt của chính nó. Minh Việt rất sợ nó buồn. Mà nhất định là nó sẽ buồn khi hiểu ra vì sao nó lại có mặt trên cuộc đời này và bố nó, mẹ nó là ai? Nếu bố nó là một giọt buồn rớt xuống cuộc đời này thì nó chẳng qua cũng chỉ là một giọt buồn phiên bản mà thôi. Đằng sau trường học của con bé có một đám cỏ hiếm hoi sót lại giữa thời buổi đâu cũng thấy xây dựng. Đám đất ấy theo quy hoạch của thị trấn sẽ là một khu công viên. Nhưng thị trấn chưa có tiền xây dựng nên nó vẫn là một đám đất bỏ hoang, cỏ mọc lút lối đi. Con Ly thường ra bãi cỏ đó ngồi ngước nhìn trời mây, xung quanh nó là đám hoa cỏ vương vãi và những con thuyền giấy do chính tay nó gấp trong lúc đợi bố. Đôi lần Minh Việt bắt gặp nó ngồi nhìn chăm chú, say sưa những con chó chạy nhảy trong khu đất hoang. Và anh đã thật ngạc nhiên khi phát hiện ra con gái mình bắt đầu viết truyện. Nó viết vào cuốn sổ nhỏ, xinh xinh mà chú Đạo tặng hôm nó mới ra. Cả anh và Đạo đều bất ngờ khi đọc câu chuyện viết dở của con bé. Truyện có tên là Kịch chiến Đầm Gâu. Câu chuyện được chia làm nhiều phần, có đánh số thứ tự. Những phần đầu được con bé viết thế này:

Một.

Đó là một khu đầm cạn. Hoa dã thảo mọc chen chúc bên những nụ tầm xuân mảnh mai, tinh khiết. Ban ngày, khi ánh mặt trời chiếu xuống khu đầm, những giọt sương long lanh vội chui xuống chân cỏ lẩn trốn. Hương tầm xuân man mác lan tỏa, hoa cỏ ngả mình trước gió rì rào hát đồng ca. Đây đó trong khu đầm có những vũng nước trong vắt, hàng ngày ông mặt trời cùng đám mây ngũ sắc đi ngang qua soi bóng mình xuống đó. Ban đêm trăng xuất hiện trên trời rồi biến mất vào những tầng mây trắng đục. Muôn vì sao nhấp nháy, thao thức cùng khu đầm, chứng kiến cuộc sống thanh bình êm ả của những cư dân nơi đây. Bác Vàng đáng kính, chú Ki cường tráng với tiếng sủa chung chiêng bóng trăng, chị Vện lặc lè chiếc bụng đã đến ngày sinh nở, anh em nhà Cún giống nhau như hai giọt nước. Rồi gia đình nhà Mạc, chị Quýt, anh Mích, chú Cộc, cậu Ngộ... tất cả đều là những cư dân lương thiện, trung thành và tận tụy. Họ làm việc cho những ông bà chủ ở một xóm lao động gần đấy. Họ rất yêu khu đầm này, hàng ngày họ tập trung tại đây vui chơi, trò chuyện, nghe bác Vàng kể chuyện về truyền thống trung thành, dũng cảm và những kỳ tích vô cùng vẻ vang của tổ tiên. Mỗi khi có một cư dân mới ra đời bác Vàng lại dùng cái lưỡi màu hồng của mình liếm láp lên đầu, lên mắt để làm phúc. Vào những đêm trăng sáng các gia đình thường tụ tập ở bụi tầm xuân giữa đầm tổ chức thi “Tiếng sủa âm vang nhất”. Các cư dân ở đây rất tự hào với tiếng sủa của mình bởi đó là tiếng sủa đặc trưng nhất muôn loài. Tiếng sủa nào to nhất, khỏe khoắn nhất, âm vang nhất là biểu hiện của sự trung thành nhất, khôn ngoan nhất. Chính vì vậy mà khu đầm này có tên là Đầm Gâu. Thỉnh thoảng cư dân Đầm Gâu còn tổ chức các cuộc thi săn bắt chuột, rắn, chim, cá... Đàn ông, thanh niên như Ki, Mực, Mích, Cộc, Cún, Ngộ thường luyện tập cho mình có cái bụng thon, bộ ức nở, hàm răng khỏe và cặp tai thật thính. Cánh chị em như Vện, Lu, Quýt... lại chăm chút đến bộ lông sao cho thật mượt mà, đôi mắt lúc nào cũng lúng liếng và dáng đi thì khoan thai, gợi cảm.

Vào những ngày nắng đẹp, sau những cuộc đi săn hào hứng, các cư dân Đầm Gâu thường nằm dài trên thảm cỏ phơi nắng, bắt rận cho nhau. Quanh họ, cả khu đầm bừng lên muôn ngàn sắc hoa. Những nụ tầm xuân đung đưa trước gió. Hoa xuyến chi nở trắng từng vạt dài. Bên vũng nước trong những bông súng xinh xinh lấp ló xen kẽ những bông hoa dừa lốm đốm như ngàn cánh bướm đậu. Xa xa cỏ may tím ngát, trinh nữ e ấp trong những bụi gai, chua me và sam nở những bông phơn phớt trắng, nhỏ li ti... Trên trời mây tạo muôn hình thù kỳ thú. Những tia nắng rọi chiếu xuống thảm cỏ mượt như nhung, phủ ánh bạc lên những bộ lông đa sắc: vàng, đen, xám, trắng, nâu, đốm... Cuộc sống của các cư dân Đầm Gâu đã diễn ra thanh bình như thế từ rất lâu rồi. Bây giờ nhìn đôi mắt lim dim, thanh thản của họ không ai lại nghĩ rằng chỉ ít ngày nữa thôi, sóng gió sẽ ập đến với khu đầm này, khuấy động cuộc sống yên bình của những cư dân lương thiện nơi đây.

Hai.

Một ngày kia Đầm Gâu xuất hiện ba chàng ngoại quốc lực lưỡng có tên là Tô, Giôn và Mi Lô. Phía ngoài của khu đầm, sát với đường cái sừng sững mọc lên ba ngôi nhà cao tầng. Tô, Giôn và Mi Lô phục vụ cho các ông chủ ở trong những ngôi nhà đó. Ba anh chàng này thuộc giống Đức thuần chủng nên cách sinh hoạt và lối sống khác hẳn với những cư dân Đầm Gâu vốn hiền lành, tốt bụng. Buổi đầu tiên xuất hiện họ đã nghễu nghện dạo quanh khu đầm, mắt gườm gườm nhìn chú Ki, anh Mích, chú Cộc. Khi thấy chị Vện, chị Lu họ lập tức sán lại trêu đùa, chòng ghẹo. Rồi mấy anh chàng đó “ị” ngay ra bụi tầm xuân vẫn được dùng làm nơi tập trung vui chơi của cư dân trong vùng. Hôm sau họ lại “tè” vào mấy vũng nước quanh đó, làm vấy bẩn nguồn nước uống của những người bạn Đầm Gâu. Sự thể không dừng lại ở đó. Buổi chiều, Cún “em” đi ngang qua thấy họ thản nhiên làm bậy trên thảm cỏ đẹp nhất khu đầm liền lên tiếng cảnh báo. Tên Tô hung hãn đã lao thẳng vào cắn Cún “em”, một chiếc răng của nó đã ngập vào phần bụng của Cún làm Cún ngất đi. Mãi rất lâu sau Cún “em” mới tỉnh dậy và cố lết về đến nhà. Cún “anh” vô cùng ngạc nhiên khi thấy em máu mê bê bết, một đoạn ruột lòi cả ra ngoài, vội lấy lưỡi liếm xung quanh vết thương sát trùng cho em rồi nhai lá thuốc đắp vào. Cả đêm hôm đó Cún “em” lên cơn sốt, toàn thân nóng hầm hập. Cún “anh” rất lo lắng ngồi phủ phục bên em mãi rồi lại đứng dậy đi vào đi ra. Năm trước mẹ Cún sinh được hai anh em, cả hai được mẹ chăm sóc rất cẩn thận nên lớn nhanh như thổi. Hai anh em Cún có tiếng là thương yêu nhau, rất biết nhường nhịn nhau, cư dân trong vùng và đặc biệt là bác Vàng rất quý hai anh em Cún. Bây giờ ngồi nhìn em mê man bất tỉnh chưa biết sống chết thế nào, Cún “anh” thương em lắm. Đêm ấy thật là dài đối với Cún “anh”. Sáng hôm sau khi ông mặt trời vừa mới lấp ló ở rặng cây xa xa, Cún “anh” lập tức tìm đến nhà chú Ki. Đã mấy năm nay chú Ki luôn đạt danh hiệu “Cư dân có tiếng sủa âm vang nhất”. Trong các cuộc săn bắt, chú Ki cũng luôn đứng đầu về thành tích bắt được nhiều chuột, rắn... Cánh thanh niên trong vùng luôn mơ ước một ngày nào đó sẽ được như chú Ki. Bây giờ Cún “anh” muốn đến gặp và xin ý kiến chú về những việc làm ngạo mạn và hỗn xược của tên Tô. Nhìn đôi mắt vằn đỏ của Cún “anh”, chú Ki hiểu trong người Cún lúc này niềm căm hận đang sục sôi và trong đầu Cún chỉ còn nghĩ đến hai tiếng “Trả thù”. Sau một hồi suy nghĩ chú Ki quyết định cùng Cún “anh” đến gặp anh Mực, anh Mích, chú Cộc.

Nghe Cún “anh” tường thuật lại sự việc, tất cả đều tỏ thái độ tức giận. Anh Mích bảo: “Bây giờ chúng ta không còn chỗ tập trung vui chơi, không còn nơi để nằm phơi nắng, cũng không còn cả nguồn nước sạch để uống”. Chú Cộc gầm gừ: “Điều tệ hại hơn cả là chúng ta không còn quyền được sống như từ trước đến nay, chúng coi thường chúng ta, chúng làm hại Cún “em” rồi chúng sẽ tiếp tục làm hại những cư dân khác. Chúng muốn chà đạp lên cuộc sống thanh bình của chúng ta”. Chú Ki kết luận: “Vậy thì bây giờ anh em ta phải đi hỏi tội tên Tô!”

Ba.

Chú Ki dẫn đoàn đi đến giữa Đầm Gâu thì gặp Tô và Giôn đang nhởn nhơ ở đó. Chú Ki lên tiếng:

- Anh Tô! Cư dân Đầm Gâu chúng tôi từ xưa đến nay vẫn sống thanh bình ở đây, anh từ đâu đến, sao lại hành hung người của chúng tôi?

Tên Tô vểnh chiếc mõm ngoại cỡ lên, sủa một tiếng ngạo mạn rồi khinh khỉnh đáp:

- Chúng tao đại diện cho giống nòi văn minh đến sinh sống ở đây, lũ mọi rợ chúng bay muốn gì?

Cún “anh” nãy giờ kiên nhẫn đứng đợi, thấy tên Tô trả lời láo xược như thế, căm giận bùng lên trong người, Cún dùng toàn thân lao thẳng vào Tô như một mũi tên bắn. Trước cú húc bất ngờ của Cún, tên Tô oằn người lại kêu “ẳng” lên một tiếng đau đớn. Húc vào sườn tên Tô xong, Cún “anh” lập tức quay lại nhảy bổ lên cắn vào cổ hắn. Theo phản xạ tên Tô hất mạnh đầu khiến Cún “anh” bị văng ra xa. Hắn liền quay người đuổi theo gặm một nhát vào đùi trái phía sau của Cún. Cún nghiến răng chịu đau ngoắt lại táp vào tai tên Tô. Hắn vội buông Cún ra, lùi lại thủ thế. Lúc này chú Ki và anh Mích cũng đã lao vào để hỗ trợ cho Cún. Nhưng tên Giôn đã chặn đường chú Ki, hắn dùng hàm răng khỏe như thép của mình cắn vào gáy chú. Chú Cộc lập tức lướt tới táp mạnh vào đùi sau của Giôn. Hắn kêu ăng ẳng, rồi quay người lại chống trả. Chú Ki gầm lên nhằm thẳng yết hầu hắn chồm tới. Tên Giôn vội tránh miếng đánh hóc hiểm của chú Ki, nhảy lùi lại gườm gườm thủ thế. Tên Tô sau khi hất đổ anh Mích vội lao đến đớp vào cổ chú Ki để cứu trợ cho đồng bọn.

Cún “anh” muốn lao vào góp sức cùng chú Ki, chú Cộc nhưng Cún chợt nhận ra mình đã bị liệt mất một bên chân. Máu thấm ra ướt toàn bộ chỗ lông ở phần đùi. Cảm giác đau đớn mỗi lúc một dâng lên. Những chiếc răng vừa dài vừa sắc của tên Tô đã xiên qua da thịt Cún, ngập vào đến xương tủy. Nhưng không thể nằm bẹp một chỗ trong khi cuộc chiến đang diễn ra rất ác liệt. Cún “anh” nghĩ vậy và chạy tập tễnh bằng ba chân đến ứng cứu cho đồng đội. Đúng lúc tên Tô đang định dùng hàm răng to như hàm trâu gặm vào cổ chú Ki thì Cún “anh” dùng toàn bộ sức lực của mình lao tới cắn mạnh vào má của hắn. Hai bên lao vào nhau quá mạnh tạo ra lực phản hồi làm Cún, yếu hơn, văng tít ra xa. Chiếc chân dập nát gây cho Cún đau đến tê dại, không sao gượng dậy nổi. Tên Tô cũng choáng váng trước cú đánh của Cún nhưng hắn thấy đối thủ của mình đang ở thế yếu liền lao đến chỗ Cún. Chú Ki chồm lên cản bước chân của hắn nhưng tên Giôn lại đang nhằm thẳng vào chú để tấn công. Chú Ki phải quay lại chống trả với tên Giôn, Tô thừa dịp phi đến cắn mạnh vào cổ Cún. Anh Mích đuổi theo đớp vào đùi Tô cản phá nhưng hắn cố chịu đau vừa gặm chặt cổ Cún vừa day mạnh cho đến khi cả hàm răng của hắn ngập sâu vào cổ, bóp vỡ yết hầu của Cún mới chịu buông ra.

Lúc này tên Giôn chống đỡ với chú Ki và chú Cộc đã thấm mệt, thấy Tô bị Mích đả thương hắn liền bỏ chạy. Tô liếc thấy đồng bọn chạy cũng tập tễnh bỏ chạy theo. Chú Ki, chú Cộc và anh Mích ít nhiều đều bị thương nên không còn đủ sức để đuổi theo nữa. Trận chiến kết thúc khi mặt trời đứng bóng. Máu loang trên vạt cỏ, bắn vào những nụ tầm xuân, rớt cả xuống mấy vũng nước quanh đó. Chiến tranh đã thực sự bắt đầu và anh em nhà Cún là một trong những nạn nhân đầu tiên...

Câu chuyện viết đến đây thì tạm dừng. Đạo bảo: “Con bé có óc quan sát rất khá anh Việt ạ. Mới lớp năm mà viết được như thế này thì sau này nó sẽ vượt cả em đấy”. Cả Minh Việt và Đạo đều hồi hộp chờ được đọc những dòng tiếp theo của con bé nhưng một lần từ trường trở về nhà con Ly bỗng kêu nhức mỏi cánh tay phải. Rồi bữa tối hôm đó con bé đang ăn cơm bỗng đánh rơi đũa và không sao cầm lại được nữa. Minh Việt đưa con gái vào bệnh viện nằm hàng tháng trời, cuối cùng đành phải chấp nhận kết luận của bác sĩ là con bé bị ảnh hưởng chất độc hóa học từ bố nên một số bộ phận cơ trên người đang bắt đầu teo đi. Rất buồn về chuyện này nhưng Minh Việt không muốn để con gái biết bệnh tình của nó, anh vẫn thường tỏ ra lạc quan để cố xoá đi mặc cảm trong con bé. Nhưng dường như Ly cũng biết điều đó nên em không buồn chán, thất vọng mà tỏ ra rất có nghị lực. Ly chuyển sang tập viết tay trái và không lâu sau đó em đã tiếp tục cắp sách đến trường. Ly học giỏi, sau một thời gian nghỉ học em vẫn theo kịp chúng bạn và lại tiếp tục viết truyện. Đạo rất quan tâm đến câu chuyện viết dở của Ly. Đạo bảo: “Để nó viết xong em sẽ giới thiệu lên báo. Em tin đây là một tài năng!”. Chẳng mấy lâu sau thì Minh Việt và Đạo lại được đọc tiếp những dòng văn của con bé. Và đây là những phần tiếp theo của câu chuyện do bé Ly viết:

Bốn.

Nấm mộ được đắp rất cao. Tất cả các cư dân trong đầm đều có mặt. Họ đứng xung quanh nấm mộ, đầu cúi xuống, miệng ngậm một nhánh tầm xuân, riêng bác Vàng ngậm một bông hoa súng. Bác Vàng cầu siêu cho Cún “anh” xong đề nghị tất cả đi quanh mộ một vòng rồi lần lượt đặt hoa xuống vĩnh biệt Cún. Bác Vàng là người cuối cùng. Đặt bông hoa súng lên đỉnh mộ Cún xong, bác quay ra dẫn cả đoàn trở về tập trung nơi bụi tầm xuân quen thuộc. Khi cư dân Đầm Gâu đã tề tựu đông đủ, bác Vàng lên tiếng:

- Toàn thể cư dân Đầm Gâu thân mến! Vậy là cuộc sống thanh bình của chúng ta cho đến ngày hôm nay đã không còn nữa. Ai đã làm nên điều ấy? Chính là lũ Tô, Giôn và Mi Lô. Chúng đến từ những xứ sở xa xôi. Chúng muốn biến khu đầm xinh đẹp của chúng ta thành nơi phóng uế, biến chúng ta thành trò tiêu khiển, thậm chí đã giết hại những người anh em của chúng ta. Tất cả chúng ta đều căm phẫn trước việc làm của chúng, dưới kia Cún “anh” cũng đang kêu gọi chúng ta phải trả thù. Tôi xin hỏi tất cả các vị ngồi đây: Chúng ta có chịu khuất phục ba tên ngoại quốc hỗn xược ấy không hay chúng ta sẽ chiến đấu với chúng?

- Chiến đấu!... Chiến đấu!...

Tất cả các cư dân Đầm Gâu đều nhất loạt hô lên như thế, riêng chú Ki còn sủa một tràng dài để bày tỏ thái độ căm phẫn. Chờ cho tiếng sủa của các cư dân lắng xuống, bác Vàng nói tiếp:

- Nhưng chiến đấu như thế nào? Hôm qua chúng ta đã chiến đấu và đã thất bại. Vậy trong số các vị ngồi đây ai có kế sách hay xin cứ đưa ra để chúng ta cùng bàn luận?

Tất cả im lặng. Mãi sau chú Ki mới lên tiếng:

- Thưa toàn thể cư dân Đầm Gâu! Trong số chúng ta ở đây chỉ có bác Vàng đáng kính là nhiều tuổi hơn cả, lại hiểu nhiều biết rộng, ắt chỉ có bác mới có được kế sách hay. Vậy tôi xin đề nghị từ nay bác lãnh đạo cư dân Đầm Gâu chiến đấu chống lại kẻ thù.

- Chú Ki nói phải đấy! Hoan hô bác Vàng!

- Hoan hô bác Vàng!

Tiếng hoan hô của cư dân Đầm Gâu vang động cả khu đầm làm những cánh tầm xuân giật mình rụng lả tả. Bác Vàng vội ra hiệu cho tất cả im lặng rồi nói:

- Tôi xin cám ơn các vị! Muốn đánh thắng kẻ thù chúng ta phải học tập cách đánh của tổ tiên. Ta nhỏ, chúng to, vậy ta phải chia chúng ra, cô lập chúng rồi mới đánh. Chúng to khỏe nhưng đã bị cô lập thì một không thể chống lại mười. Vậy từ nay tôi phân công thế này: Cậu Ngộ vốn nhanh nhẹn sẽ phụ trách một tổ chuyên theo dõi quy luật ăn, ở, đi lại của ba tên Tô, Giôn và Mi Lô. Khi nào thời cơ cho phép thì chúng ta sẽ tấn công tiêu diệt từng tên một...

Thấy bác Vàng dừng lời, Cún “em” vội lên tiếng:

- Thưa bác! Còn cháu sẽ làm gì ạ? Cháu muốn trả thù cho anh cháu?

Bác vàng khẽ gật đầu rồi quay sang nói với chú Ki:

- Còn lại tất cả chúng ta già, trẻ, lớn, bé từ nay tập trung vào luyện tập. Chú Ki sẽ huấn luyện các thế nhảy, vồ, táp, cắn, đớp, sủa cho anh em. Ngoài ra phải lăn lộn nhiều cho da săn chắc, tập nhai xương cho răng sắc bén, tập nghe ngóng cho đôi tai thật thính và khi xung trận phải thật dũng cảm. Khi chiến đấu cái cốt yếu là phải vô hiệu hóa chiếc mõm có hàm răng sắc nhọn của kẻ địch, làm tê liệt bốn chân của chúng, cào xước da thịt và cuối cùng là phải cắn vỡ yết hầu đối phương. Khi đã gặm được vào người chúng thì sẵn sàng chịu đau kiên quyết không rời để đồng đội tiêu diệt. Tất cả có đồng ý thế không?

Các cư dân Đầm Gâu sủa vang đồng ý rồi tản đi rất nhanh, bắt đầu vào từng phần việc đã phân công. Dưới bụi tầm xuân chỉ còn lại bác Vàng và chú Ki thì thầm nhỏ to bàn kế hoạch báo thù.

Năm.

Bữa ấy tên Tô dậy sớm như thường lệ. Hắn mò ra khu đầm định phóng uế bừa bãi lên bãi cỏ non còn đẫm sương thì bỗng nhìn thấy chị Lu đang uống nước ở gần đó. Tên Tô liền sán lại định chòng ghẹo. Chị Lu sủa vào mặt hắn mấy tiếng rồi bất thình lình đớp một cái vào đuôi hắn. Tên Tô tức giận định cắn chị Lu nhưng chị đã cong đuôi bỏ chạy. Hắn vội đuổi theo. Lúc này khu đầm còn vắng lắm. Xa xa từ xóm lao động nghèo sương khói quyện lấy nhau bay là là trên mặt đất. Thấy chị Lu chui tọt vào một bụi cây rậm rạp để trốn, tên Tô sục đầu vào tìm kiếm. Hắn thấy chị Lu quắp đuôi nằm sợ sệt ở trong đó. Người Tô quá to nên hắn không sao chui vào được. Đúng lúc cái đầu của hắn đang ngúc ngắc ở cái lỗ mà chị Lu vừa chui vào thì hắn thấy có cái gì đó siết mạnh ở cổ. Cùng lúc chị Lu lao bổ ra đớp một miếng dữ dằn vào mõm hắn. Một tiếng sủa kinh hồn vang lên kéo theo sau cả ngàn tiếng sủa lớn nhỏ. Tô nhận ra xung quanh hắn có rất nhiều những cư dân Đầm Gâu mà mọi ngày hắn vẫn coi thường. Hai bên hắn hai chú chó lực lưỡng đang siết chặt chiếc dây bắt vòng vào cổ hắn. Tô cố gắng giãy giụa, giằng co để thoát ra khỏi sợi dây quái ác nhưng càng giãy sợi dây càng siết chặt. Bỗng hắn kêu thét lên đau đớn, một mảng da đùi của hắn đã bị rứt tung ra khỏi cơ thể. Tiếp ngay đó một hàm răng sắc nhọn bập chặt vào bụng hắn. Tên Tô hiểu rằng hắn đã bị mắc lừa. Những cư dân Đầm Gâu đã bố trí sẵn cái lỗ ở bụi cây này, chỉ chờ hắn chui đầu vào là cái dây thắt vòng sẽ được kéo căng ra thít cổ hắn lại. Tô gầm lên, mắt vằn những tia man rợ. Chị Lu hiền lành, sợ hãi là thế, bây giờ dũng cảm lao đớp vào mõm hắn liên tục.. Trước tình thế nguy ngập đó, Tô liền dùng hai chân trước chống xuống đất, hai chân sau chuỗi ra lấy đà, giật mạnh. Sợi dây có chùng lại một chút nhưng ngay sau đó nó lại được kéo căng ra. Các cư dân Đầm Gâu lăn xả vào dùng răng day nghiến bốn chiếc chân của tên Tô. Chú Ki dùng tiếng sủa của mình đôn đốc anh Mích, cậu Ngộ, chú Cộc không ngừng tấn công những chỗ hiểm trên người Tô. Chị Vện, chị Lu và Cún “em” cũng hăng hái nhảy tới cắn xé khắp nơi trên người hắn. Bác Vàng đứng ngoài quan sát thấy tên Tô hộc lên, đôi mắt dại đi, lưỡi thè ra từ chiếc mõm há hốc biết là hắn đã đuối sức, liền chỉ đạo cho hai bên siết chặt sợi dây, đồng thời lệnh cho chú Ki tấn công vào điểm xung yếu nhất của kẻ địch. Chú Ki chồm tới dùng chiếc mõm của mình đớp mạnh vào cổ họng Tô. Tiếp theo anh Ngộ, chú Cộc cũng lao tới gặm vào cổ tên Tô, day mạnh. Tên Tô tru lên một tiếng rồi cả tấm thân đồ sộ của hắn đổ nghiêng sang bên, đè cả lên chân chị Vện. Cổ họng hắn rách toác, chú Ki đã cắn vỡ yết hầu hắn làm máu tuôn ra xối xả. Tấm thân hắn dướn dướn trên mặt đất mấy cái rồi xẹp xuống, bất động. Hắn nằm vắt đầu trên sợi dây, chiếc mõm ngông cuồng ngày nào bây giờ rách nát, đôi mắt mở trừng chuyển dần sang màu xám đục. Hắn đã chết một cách đau đớn, toàn thân tơi tả. Máu thấm đỏ xung quanh chỗ hắn nằm. Nhận được hiệu lệnh của bác Vàng, chú Ki liền sủa một tràng dài thu quân. Bác Vàng giao nhiệm vụ cho anh Mích, chú Cộc, cậu Ngộ kéo xác tên Tô tới đặt trước cửa nhà hai tên Giôn và Mi Lô. Sau đó tất cả tập trung dưới bụi tầm xuân nghe bác Vàng huấn thị.

Chiến thắng ban đầu đem lại niềm hân hoan cho toàn thể cư dân Đầm Gâu.