Chương 11
Buổi sáng hôm ấy, Tịnh bảo với Minh Việt:
- Hôm nay tao với mày phải đến với em Hoài.
Minh Việt ngạc nhiên:
- Sao, lại nhậu à?
- Không, hôm nay là ngày giỗ của Tân Tây đen.
Minh Việt gật đầu, lẳng lặng thu xếp đống giấy màu rồi theo Tịnh đến Cô Hồn quán. Minh Việt không lạ gì Tân. Nếu bố Cói là một người lính Pháp da trắng, thì bố Tân chắc chắn là một tên lính Angiêri hay Marốc gì đó. Tân đen như cột nhà cháy, bẩn thỉu, rách rưới và đói khát. Nếu đám trẻ phố Tứ Phủ ngày nào tạm được coi là có ăn có học nhất thị trấn An Lạc thì Tân và cậu Chột là một trong những đứa trẻ nghèo khổ và phải chịu nhiều thiệt thòi thời đó. Tân còn tội nghiệp hơn vì nó là con lai, hầu như không có ai chơi với nó. Cũng may nó là một đứa trẻ khỏe mạnh. Thiếu ăn nhưng nó vẫn lớn và chẳng bao lâu sau khi vào tuổi thanh niên, nó to cao lênh khênh. Mẹ Tân chết sớm, không có ai đỡ đầu, Tân tìm kiếm cuộc sống cho mình ở các cửa hàng mậu dịch và bến tàu, bến xe. Có vẻ như cuộc đời nó đã được ấn định là phải ở những chỗ đó. Nó là một thứ cây dại, người trồng rừng không để mắt đến, không nỡ chặt trụi nhưng cũng không tạo điều kiện cho phát triển xanh tươi như những thứ cây khác. Và cái cây dại ấy muốn tồn tại phải tự vươn ngọn đến chỗ có ánh mặt trời mà hít thở. Thiết chế xã hội nào cũng có những điều chưa hoàn thiện, pháp luật thời nào cũng có những kẽ hở. Dưới thời bao cấp, mọi thứ nhu cầu ngoài phân phối đều không được đáp ứng. Mà loài người thì vốn dĩ chẳng chịu bó hẹp trong những nhu cầu phân phối. Thế là có chỗ cho các con phe xuất hiện. Sau này các nhà từ điển học có lẽ sẽ còn phải tìm hiểu và giải nghĩa từ này. Phe là gì? Nó có gốc từ tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Bồ Đào Nha hay nó là rút gọn của cụm từ phe phẩy? Tại sao lại gọi là con phe chứ không gọi là anh phe, chú phe, bác phe, chị phe hay cô phe? Tại sao phe lại chỉ tồn tại dưới thời bao cấp còn chuyển sang thời kinh tế thị trường thì thuật ngữ ấy không được nhắc đến nữa? Tóm lại phe là từ dùng để chỉ những người có thể cung cấp hoặc đáp ứng cho bạn một nhu cầu nào đó ngoài con đường phân phối chính thức của nhà nước. Như vậy thời nào cũng có phe. Thời nay phe vẫn tồn tại ở khắp nơi và nó được nhìn nhận dưới dạng dịch vụ. Chỉ có điều phe thời nay được xã hội thừa nhận, còn ngày trước nó là thứ vi trùng ghẻ lở có thể gây nguy hại cho nền kinh tế kế hoạch tập trung. Chị Vi Lay chính là một con phe cỡ bự của thị trấn An Lạc những năm trước đây. Còn Tân Tây đen chỉ là người giúp việc, người làm thuê cho những con phe mà thôi. Phe vé, phe vải, phe thuốc lá, phe diêm, phe xà phòng, phe gạo, phe thịt... mặt hàng nào cũng có phe. Tân theo đám phe ấy lâu ngày cũng thành tinh thành cáo. Nhưng Tân là đàn ông con trai, Tân không tỉ mẩn nhặt nhạnh từng đồng như đám đàn bà con gái được. Vì thế bước sang tuổi thanh niên, Tân ngày một trượt dần xuống đám lưu manh, trộm cắp, du thủ du thực. Tân trở thành đại ca ở bến xe An Lạc. Dưới tay Tân có hàng chục đứa chuyên móc túi, trộm vặt, ép giá khách đường dài. Cái nghề ấy không thể không va chạm, xô xát, đánh chém nhau, không thể không vào ra nhà tạm giam tạm giữ của công an, quá lên thì lĩnh án đi cải tạo, mặc áo số, ăn cơm tù. Trước khi gặp Hoài, Tân có đến ba tiền án, hai tiền sự. Tiền án cuối cùng gần như đã biến Tân thành con người khác. Tân gầy gò, rách dưới, đói khát, bệnh tật, vô gia cư, không nghề nghiệp, không đệ tử, không địa bàn hoạt động. Chính những ngày mới ra tù tưởng có thể phải chết gục bên một vũng nước nào đó hoặc co quắp dưới chân cầu Lãng Tiên chờ cho nước cuốn đi, thì Tân gặp Hoài.
- Họ nương tựa vào nhau để đi nốt phần đời này - Tịnh cảm hoài - Chỉ tiếc, Tân nó bỏ Hoài đi sớm quá.
- Sao nó lại phải lĩnh án nữa là thế nào? - Minh Việt hỏi.
- Chúng nó đã từng sống với nhau rất vất vả, sau này mới khá lên được một tí thì lại bị lôi kéo vào những chuyện không đâu của giới giang hồ. Mà giang hồ kiểu mới nó kinh khủng lắm mày ơi. Không phải vài thứ trộm cắp vặt như ngày xưa đâu. Bọn trẻ bây giờ chúng nó tiêu đời vô cùng phí phạm. Nghiện hút, mại dâm, cờ bạc, đua xe, bảo kê, đâm chém... là những nét chấm phá của bộ mặt giang hồ hôm nay. Thằng Tân không muốn nhưng đôi lúc vẫn phải đứng ra “chủ trì công đạo”. Và việc gì đến ắt phải đến. Trong một lần ra tay dàn xếp các hội nhóm, thằng Tân đã phạt đứt cánh tay một thằng oắt con từ bên Phòng sang. Thế là lại dính án. Tù mãi tận Thanh Hóa cơ. Sức khỏe thằng Tân cũng đang sa sút. Được mấy năm thì đi. Tao cùng Hoài vào tận nơi lo cho nó đâu vào đấy cả rồi. Tội nghiệp Hoài. Thằng Tân là đứa rất yêu vợ!
- Tại sao tao lại không biết Hoài nhỉ? Lần đầu tiên nhìn thấy nó, tao thực sự sững sờ đấy. Đất An Lạc này làm gì có người đẹp đến thế?
- Rồi mày sẽ còn bất ngờ về Hoài.
Tịnh không chỉ nói cho qua chuyện. Ngay sau bữa giỗ Tân Tây đen, Tịnh đưa Minh Việt vào phòng riêng của Hoài. Tịnh bật điện lên và tiến đến chỗ đầu giường của Hoài kéo tấm rèm che tường. Một bức tranh hiện ra ngay trước mắt Minh Việt. Đó là một bức màu nước, vẽ hình một thiếu nữ nằm nghiêng trên cỏ. Thoạt nhìn Minh Việt tưởng đó là một bức khỏa thân. Nhưng có vẻ như không phải thế. Một xác chết đang nằm trên cỏ thì đúng hơn. Một xác chết với da thịt trắng ngần trên nền đỏ nhức mắt của mây trời và cỏ. Bức tranh bỗng đánh động một điều gì đó trong thẳm sâu ký ức Minh Việt. Định thần nhìn kỹ, Minh Việt kinh ngạc nhận ra một bầu vú của thiếu nữ trong tranh bị khuyết, thay vào đó là một đầu đạn và một vệt máu rỉ ra từ bầu ngực trinh nữ. Chưa hết bàng hoàng, Tịnh lại tiến đến bức tường cuối giường, kéo tấm rèm che ra, chỉ cho Minh Việt xem tiếp bức tranh thứ hai. Lại một thiếu nữ nữa nằm úp xấp xuống một dòng nước xanh thẫm. Vẫn là tấm thân ngà ngọc trắng ngần nhưng trên một nền xanh u ám, xám dần theo chiều sâu của bức tranh. Một bên mông của thiếu nữ bị khuyết, thay vào đó là một nụ hồng bị sợi nơ xám buộc cánh lại không cho nở. Từ nụ hồng đó, một vệt máu bầm đỏ đang ứa ra. Hai thiếu nữ với hai khuôn mặt khác nhau nhưng Minh Việt thấy quen quen như đã từng gặp ở đâu đó. “Hai cái chết ám ảnh nhất đời tao là cái chết của Cói và của Lý - Thằng Tịnh nói - Một cái chết bởi khát khao cái đẹp còn một cái chết bởi chiến tranh không đùa với sắc đẹp. Tao biết, mày đang rất xúc động. Nhưng thôi, ra ngoài kia uống tiếp đi”
- Tại sao mày lại treo hai bức này trong phòng ngủ của Hoài?
- Chuyện hơi dài dòng đấy. Trong lần triển lãm đầu tiên, Hoài vô tình ghé qua xem. Sau đó chồng cô ấy, thằng Tân Tây đen ấy, cứ nằng nặc đến đòi tao bán. Tao nhất định không bán. Nhưng tao bắt đầu chơi với vợ chồng nó từ bữa đó. Tao thực sự thương Hoài.
- Nghĩa là sao? Tao vẫn không hiểu.
- Tao cũng đã từng không hiểu như mày. Lúc đầu tao còn nghĩ, bọn thằng Tân thì họa cảm đến đâu mà dám đòi treo tranh của tao? Ngay cả khi nó trả tao hai mươi triệu một bức tao vẫn không tin là chúng nó có đủ khả năng cảm nhận được cái đẹp của tranh tao. Nhưng rồi trong một lần vào thăm thằng Tân ở trại, nó đã nói sự thực với tao. Và tao đã quyết định cho Hoài mượn hai bức tranh này để treo trong phòng riêng của mình.
- Sự thực gì hả mày?
- Hoài là người mất mát cả hai thứ tao vẽ trong tranh. Cô ấy cũng tham gia trận địa pháo cao xạ ở Xí nghiệp cơ khí Hai Bảy tháng Bảy sau khi trung đội của Cói bị trúng đạn. Những mảnh bom đã lấy đi của Hoài sự mất cân đối cơ thể. Một bộ ngực khuyết một bên ngực, một bộ mông khuyết một bên mông. Một người đàn bà mà như thế thì có phải là sự báng bổ tạo hóa không? Đau thương mà tao vẽ trong tranh là một đau thương quá vãng, ai ngờ nó lại hiện hữu ngay giữa cuộc đời này, thử hỏi còn lý do gì để tao từ chối không treo hai bức tranh đó trong phòng ngủ của Hoài?
Tịnh vừa nói vừa nốc rượu liên tục. Những điều Tịnh vừa tiết lộ quả thực đã khiến Minh Việt ngạc nhiên dù anh đã được khuyến cáo về vấn đề này. Hoài đã chỉnh trang cơ thể rất khéo, không ai có thể nhận ra đó là một người đàn bà có cơ thể khiếm khuyết. Hoài lại có một khuôn mặt rất đẹp. Cả thị trấn An Lạc này ai cũng nghĩ Hoài là một con mẹ “giang hồ có thẻ” chứ đâu biết Hoài có một quá khứ nhạy cảm đến thế? Hóa ra chú Đạo vẫn còn nông cạn lắm khi nhìn nhận cuộc đời này. Một khuôn mặt buồn thì nét nào chả ẩn chứa những điều u uẩn?
Cuộc rượu ở nhà Hoài chưa tan thì Đạo bỗng phóng xe đến tìm Minh Việt. “Anh lên đây em đèo về, con Ly bị làm sao đó, cô giáo nó vừa phải đưa đi viện rồi”. Minh Việt hốt hoảng leo lên xe cho cu Đạo chở đến bệnh viện. “Vẫn là những biểu hiện của di chứng chất độc chiến tranh thôi anh ạ”, bác sĩ trưởng khoa nói với Minh Việt bằng một thứ giọng buồn buồn.
- Liệu... liệu cháu có bị sao không ạ?
- Chúng tôi cũng không thể lường hết được diễn tiến của bệnh. Rất có thể ngày xưa anh đã nhiễm phải chất điôxin tổng hợp. Anh cứ bình tĩnh. Thường thì những ca như thế này phải chữa trị rất lâu dài. Dùng thuốc đẩy lùi bệnh là một chuyện, cái khó là hồi phục chức năng cho cơ hoạt động trở lại. Nếu phức tạp quá chúng tôi sẽ chuyển cháu lên tuyến trên.
Minh Việt nghe bác sĩ trưởng khoa nói đến đâu mồ hôi vã ra đến đấy. Như thế có nghĩa là mọi thứ đã trở nên tuyệt vọng đối với con bé rồi. Theo cô giáo của con bé kể lại thì đang ngồi học bỗng con bé đánh rơi bút rồi không sao cầm lên được nữa. Cả lớp hốt hoảng khi con bé như một khúc gỗ cứ ngọ nguậy đôi vai liên tục, nước mắt thì ứa ra mà không sao nhặt được chiếc bút lên để viết. Cuối cùng cô giáo phải cho lớp nghỉ học, báo ban giám hiệu xin đưa con Ly đi bệnh viện.
- Ba ơi con muốn viết. Con muốn viết nốt câu chuyện Đầm Gâu!
Suốt mấy ngày sau đó con bé không ngừng đòi viết. Minh Việt dỗ thế nào nó cũng không chịu. Nó đòi đọc cho chú Đạo viết thay. Chú Đạo thương con bé, bảo: “Được rồi, cháu đọc đi chú chép!”. Minh Việt lặng lẽ ngồi nhìn con gái đọc tiếp câu chuyện dở dang, còn cu Đạo thì kê tập vở lên đầu gối hí hoáy viết. Câu chuyện được tiếp tục như sau:
Sáu.
Sau cái chết của Tô, hai tên Giôn và Mi Lô không rời nhau nửa bước. Chúng biết rằng nếu đi lẻ một mình sẽ rất dễ gặp nguy hiểm. Mi Lô là tên đáng gờm nhất, hắn cao to như một con bê. Một cú đớp của hắn có thể làm lòi ruột hoặc vỡ hầu bất cứ cư dân Đầm Gâu nào. Hắn chạy rất nhanh. Một bước nhảy của hắn bằng ba bước nhảy của chú Ki. Để trả thù cho tên Tô, Mi Lô cùng Giôn sục sạo khắp mọi nơi trong đầm, hễ thấy bóng dáng cư dân Đầm Gâu nào là chúng nhảy bổ đến tiêu diệt cho bằng được. Đã có một vài nạn nhân đáng thương không may sa vào mõm chúng. Không khí ngột ngạt bao phủ khắp khu đầm. Những đêm trăng trở nên vắng lặng, mấy bụi tầm xuân xơ xác, hoa dã thảo ủ rũ chẳng buồn đón gió nô đùa. Khu đầm rộng mênh mông bây giờ chỉ còn hai kẻ ngoại bang nghễu nghện thả bóng bên những thảm cỏ non. Không lẽ cư dân Đầm Gâu đã bỏ đi hết? Không phải vậy! Đêm đêm, khi vạn vật đã ngủ yên, trên trời chỉ còn vài vì sao lác đác, lúc ấy các cư dân Đầm Gâu mới âm thầm tập luyện và bày trận để chuẩn bị nghênh chiến với kẻ thù.
Buổi sáng hôm ấy, khi những giọt sương còn đang ngủ yên trên nhánh cỏ đã thấy hai tên Giôn và Mi Lô xuất hiện. Chúng bỗng nhìn thấy một vài cư dân Đầm Gâu đang lấp ló ở khu nhà hoang tít sâu trong góc bãi. Lập tức chúng lao vun vút tới hy vọng sẽ nhai xương những kẻ đã dám giết bạn chúng. Mấy cư dân tội nghiệp đang thong thả dạo chơi bỗng co rúm người lại khi thấy hai tên sừng sừng lao đến. Song với bản tính dũng cảm, họ liền lùi lại một bước, chống hai chân trước xuống thủ thế, nhe răng ra sẵn sàng chiến đấu. Mi Lô hung hãn lao tới nhưng chiếc mõm có đầy răng của hắn chưa chạm được vào đối phương thì bỗng hẫng một cái, xung quanh chao đảo, đất dưới chân nứt ra, tụt xuống, kéo theo cả tấm thân lực lưỡng của hắn. Một tiếng “ùm” vang lên, nước xộc vào mũi hắn, que gậy chọc vào người hắn, đau nhói. Hắn chìm nghỉm xuống dưới nước một lúc rồi mới chòi lên được, mõm hắn há ra, hớp hớp không khí. Trên đầu hắn là một khoảng không con con, sáng mờ, xa hút, chẳng còn đâu bầu trời xanh trong và những đám mây lững lờ trôi. Hắn gầm lên thảm thiết vì biết mình đã trúng kế độc. Các cư dân Đầm Gâu đã tận dụng cái giếng bỏ không của một ngôi nhà hoang để lừa hắn. Hắn cố lao lên nhưng nước dưới chân hắn rất sâu, không có vật để tạo đà cho hắn nhảy. Chiếc giếng lại rất hẹp, thành giếng trơn tuột, miệng giếng cao, mọi cố gắng của hắn đều vô hiệu. Quẫy đạp một lúc nước bắt đầu ngấm qua lông thấm vào da làm hắn thấy lạnh. Ở trên kia hắn nghe thấy văng vẳng tiếng kêu của Giôn và rất nhiều tiếng sủa nhỏ to khác. Hình như Giôn đang phải chiến đấu ở trên đó. Nếu Giôn quật chết hết lũ mọi rợ ở Đầm Gâu này, nhất định Giôn sẽ nghĩ cách cứu hắn. Đang nghĩ vậy bỗng vật gì đó bay vèo vào mặt hắn. Mi Lô hộc lên vì đau, một hòn gạch đã rơi trúng mõm làm xước một mảnh da của hắn. Xung quanh hắn lúc này gạch đá rơi “tõm”, “tõm”. Hắn kinh hoàng nhận ra kẻ thù của mình đang thả gạch, đá từ trên miệng giếng xuống. Hắn cố đạp hai chân sau vào thành giếng lấy đà nhảy lên nhưng ngay sau đó lại rơi tõm xuống. Phía trên, cứ hai cư dân Đầm Gâu ngậm một tảng đá to thả xuống đầu hắn. Có hòn rơi trúng trán ấn cả đầu hắn xuống nước. Bong bóng sùi ra hai bên mép hắn. Mi Lô sủa nhưng âm không thoát được ra ngoài cứ “ằng ặc” ở trong cổ họng hắn. Rác rưởi và một số que, cọc liên tiếp đâm vào da thịt hắn. Gạch, đá làm từng mảng da đầu hắn tướp ra, có cú đập mạnh làm hắn choáng, ngất đi, bốn chân thõng xuống không còn bơi được nữa. Bụng hắn đã căng nước, toàn thân hắn tím tái vì lạnh, đầu óc hắn quay cuồng, choáng váng vì những cú đập mạnh. Đôi mắt hắn xám xanh kinh khiếp. Đúng lúc ấy khoảng sáng cuối cùng trong đời hắn bỗng tối sầm lại. Một tảng đá to đã rơi trúng đầu hắn, phá vỡ thành sọ, đẩy hắn ngập sâu xuống nước.
Thế là tên Mi Lô đã phải trả giá cho những tội lỗi của hắn bằng cái chết thê thảm ở dưới đáy giếng. Hắn không biết rằng, ở trên kia, ngay sát thành giếng, Giôn cũng đang phải chống chọi một cách vô cùng khó khăn trước những cư dân Đầm Gâu dũng cảm. Trận chiến cuối cùng đang diễn ra khốc liệt...
Đạo chép tới đây thì bỗng có một thiếu phụ đột ngột xuất hiện trong phòng bệnh. Chị ta ôm chầm lấy bé Ly, khóc lóc thảm thiết rồi tự đấm ngực trách móc, xỉ vả mình thậm tệ. Chị ta gọi bé Ly bằng “con” và xưng “má”. Lúc đầu Đạo nghĩ có thể đây là một bênh nhân tâm thần bị “lạc” vào khu điều trị này. Nhưng sau nghe giọng nói của chị ta, Đạo ngờ ngợ ra một điều gì đó nhưng chưa dám khẳng định. Đến khi Minh Việt đi mua cháo cho bé Ly về thì danh tính của người đàn bà ấy mới được xác định.
- Ủa, anh!... - Thiếu phụ thốt lên khi nhìn thấy Minh Việt.
Minh Việt còn kinh ngạc hơn, anh sững người ra một lúc rồi mới buông một từ ngắn ngủi:
- Phượng!
Phải, người thiếu phụ đó là Phượng, người vợ không chính thức của Minh Việt, mẹ của bé Ly.
Minh Việt là người tình của chị, là chồng của chị hay là ân nhân của chị, gọi bằng cách nào cũng đều được cả. Sau những năm tháng khốn khó nhất, khi điều kiện cho phép, chị đã rời khỏi bố con Minh Việt, rời khỏi Việt Nam để đoàn tụ với chồng con chính thức của chị ở bên kia bờ đại dương. Sự ra đi của chị có làm cho Minh Việt hẫng hụt nhưng có vẻ như cái sự ấy đã được dự báo trước, Minh Việt cũng tiên cảm thấy điều đó và anh chấp nhận như chấp nhận sự ra đời đầy trớ trêu của anh trên cõi đời này. Và bây giờ thì chị đã trở về. Phượng đã trở về. Cô gái bán hoa của vỉa hè đô thành Sài Gòn đã trở về dưới một cái lốt quý phái và trưởng giả. Người đàn bà gá ghép với anh trong những tháng ngày buồn thảm sau giải phóng đã trở về không chỉ với mùi nước hoa đắt tiền mà còn là vô vàn những hứa hẹn giàu sang. Người mẹ của đứa trẻ đang mắc bệnh hiểm nghèo đã trở về giữa lúc tình mẫu tử lúc này là vô cùng cần thiết đối với người bệnh. Việc làm đầu tiên của sự trở về ẩn chứa nhiều danh tính ấy là quyết định chuyển bé Ly lên bệnh viện tuyến trên. Phượng đã bỏ ra rất nhiều tiền để mong mỏi có thể cứu được mạng sống của bé Ly. Nhưng ông trời dường như thích chơi trò éo le, tỉ lệ nghịch với công sức của Phượng, sức khỏe của con bé, lạ thay, ngày một yếu đi. Nó không gọi “má Phượng” mà chỉ gọi “ba Việt” thôi. Sau khi teo cơ tay trái, các cơ còn lại của con bé tiếp tục teo nhanh. Con bé bị liệt tứ chi, khi chuyển lên viện tuyến trên thì liệt nửa người, rồi liệt cả người. Chỉ còn cái cổ ngúc ngắc và cái đầu là còn khá minh mẫn. Tuy nhiên, cứ nhìn vào ánh mắt của các bác sĩ, thì Phượng có thể hiểu sự ngúc ngắc và minh mẫn ấy cũng sẽ không kéo dài được bao lâu. Con bé liên tục đòi viết nốt câu chuyện dở dang. Phượng mua máy ghi âm hỗ trợ thêm cho Đạo. Phượng mong con bé gọi một tiếng “má” nhưng dường như trong mắt nó không có Phượng, hay nói đúng hơn, má nó không phải là Phượng, má nó đang hiện hữu ở một cõi nào đó xa xăm, đẹp đẽ lắm và không bao giờ còn trở về được nữa. Phượng khóc bên những dòng chữ chép vội của chú Đạo. Nước mắt Phượng rơi thánh thót cùng với giọng kể đang dần méo tiếng của con bé. Chỉ có Minh Việt là ngồi im lặng. Anh đang lắng nghe những tiếng nói cuối cùng của đứa con gái đáng lẽ không nên xuất hiện trên đời này làm gì. Kìa! Tiếng nói của nó mỗi lúc một khó nghe hơn rồi...
Bảy.
Chính vào lúc Mi Lô tụt xuống giếng, các cư dân Đầm Gâu đổ ra vây chặt lấy Giôn. Biết bạn mình trúng kế, Giôn vội lao đến để cứu nhưng hắn bị các cư dân Đầm Gâu lăn xả vào cắn xé. Hắn phải chống đỡ vô cùng khó khăn và không sao tiến được tới gần mép giếng. Hắn nghe thấy những tiếng hộc đau đớn của Mi Lô từ dưới đó vọng lên. Nhưng xung quanh hắn lúc này rất nhiều kẻ thù đang nhe răng lao vào hắn. Giôn đã cắn vỡ đầu, lòi ruột một số đối phương nhưng quả thật hắn đã gặp phải những đối thủ vô cùng dũng cảm. Bốn chân hắn bị cắn xé rách từng mảng da. Mõm và cổ hắn cũng bị tấn công liên tiếp. Đúng lúc ấy tiếng kêu thét tuyệt vọng của Mi Lô vẳng lên làm hắn hoang mang run sợ. Giôn bỗng nghĩ đến bài chuồn. Hắn quẫy mạnh người, hất tung những đối thủ đang bám xung quanh ra để bỏ chạy. Nhưng bác Vàng đã nghĩ đến điều ấy. Từ ngôi nhà hoang chạy về đến nhà Giôn phải qua một khu đầm rộng mênh mông. Toàn bộ cư dân Đầm Gâu được dàn ra, chặn hết đường rút của hắn. Giôn cứ chạy được vài bước đã lại bị họ lao tới cản đường và cắn xé dữ dội. Máu trên người hắn chảy ròng ròng. Một bên mắt của hắn bị móc rách. Mỗi lúc hắn một cảm thấy yếu đi, đầu óc quay cuồng, choáng váng. Hắn không còn quẫy mạnh được nữa, hai chân sau của hắn đã bị liệt vì đau. Hắn cố lết về phía khu nhà cao tầng nhưng đúng lúc hắn đuối sức nhất lại là lúc cư dân Đầm Gâu xuất hiện nhiều nhất, chiến đấu gan lỳ dũng cảm nhất. Anh Mích lao tới đớp mạnh vào ức hắn rồi gặm chặt không chịu nhả ra. Cậu Ngộ, chú Cộc cũng lao bổ tới cắn tới tấp vào yết hầu của hắn. Giôn lê lết trên mặt đất chống trả. Hắn lăn lộn để tránh những hàm răng sắc nhọn của đối phương. Song đúng lúc hắn đang nằm ngửa để tránh đòn thì chú Ki lao đến như tên bắn cắn mạnh vào mõm hắn, đồng thời dùng chân trước cào rách bên mắt còn lại của hắn. Giôn gào lên đau đớn lăn lộn, hai chân trước cào bới lung tung. Hắn đã hoàn toàn mất phương hướng. Anh Mích chớp thời cơ chồm tới đớp mạnh vào cổ họng hắn. Máu từ đó tuôn ra xối xả làm hắn giãy lên đành đạch rồi gục xuống chết giữa hàng chục chiếc mõm vây xung quanh. Chú Ki, chú Cộc, anh Mích, cậu Ngộ và những cư dân khác cũng bị thương tích đầy mình. Họ kéo xác tên Giôn thả xuống giếng rồi quay ra cứu thương cho đồng đội. Trận kịch chiến đã kết thúc. Niềm vui lấp lánh trong mắt những cư dân Đầm Gâu khiến họ quên cả đau đớn dù trên thân thể vết thương vẫn còn đang rỉ máu...
Đến đây bỗng con Ly dừng lại và kêu “Má! Má!”. Phượng ôm chặt lấy con bé, luôn miệng: “Má đây, má đây, má lúc nào cũng ở bên con, con cần gì, con muốn gì?”. Con Ly bỗng bảo: “Má chép cho con đi, má đi đâu sao lâu về thế, còn đoạn cuối này nữa má chép cho con!”.
Phượng khóc nấc lên rồi cắn chặt lấy môi, cầm bút chép những lời cuối cùng của con gái. Nước mắt Phượng nhỏ ướt trang bản thảo:
Đoạn kết.
Đó là đêm trăng đầu tiên kể từ ngày hòa bình trở về với Đầm Gâu. Bác Vàng phủ phục bên mép nước, ngoe nguẩy chiếc đuôi mập mạp. Chị Vện thong thả dắt đàn con dạo chơi dưới bóng trăng. Chú Ki, chú Cộc nô đùa với nhau bằng những thế võ hiểm. Cún “em” tung tăng chạy nhảy, mơ ước một ngày kia sẽ trở thành cư dân có tiếng sủa âm vang nhất Đầm Gâu. Gió lại về nô giỡn trên những thảm cỏ non và dù đêm rất khuya, hoa dã thảo vẫn thao thức đưa hương thơm ngát. Đầm Gâu thanh bình, Đầm Gâu với những cư dân hiền lành lương thiện lại hồi sinh như chưa hề có một trận kịch chiến đẫm máu nào.
Đám tang bé Ly diễn ra vô cùng cảm động. Ngoài người lớn đưa tiễn còn có cô giáo và các bạn học sinh cùng lớp của Ly. Kịp về dự cuộc đưa tiễn đau xót này còn có cả chú Đức. Sau mười tám tháng cai nghiện tập trung, Đức trở về béo tốt, hồng hào, tràn trề sinh lực. Đức là người mau nước mắt. Ngày xưa mợ vẫn bảo: “Nhà này, mau nước mắt nhất là thằng Đức”. Hay mủi lòng, đa sầu đa cảm là thế nên cái phần ý chí trong Đức có lẽ không được như Đình và Đạo. Phải thế chăng mà Đức cai nghiện tam lần tứ lượt vẫn chưa dứt được? Mợ bảo: “Gớm, vào tuổi thanh niên nó đẹp lắm. Da cứ đỏ hây hây, con gái nhiều đứa mê đến mụ cả người. Thế mà vào học hàng hải được một năm, dính vào hút xách, trở nên thân tàn ma dại như thế đấy. Cai tại nhà mấy lần không được, mợ bực quá làm đơn xin các anh ở phường cho đi trại. Đành phải vậy thôi chứ biết sao bây giờ? Còn bố còn mẹ thì thế này, chứ sau này bố mẹ chết mà cứ mang cái thân nghiện như thế thì sống được bao lâu?”. Đấy là số phận của đứa em trai áp út. Đấy cũng là lý do Đức vắng mặt trong những ngày Minh Việt mới ở Miền Nam ra. Sau này Minh Việt có cùng với Đạo lên Vĩnh Phúc thăm Đức vài lần. Lần nào Đức cũng khóc. Đức bảo: “Em sợ lắm rồi anh Việt ạ. Nhưng cái ấy nó như ma ám, không sao bỏ được, nhiều lúc em muốn chết cho bố mẹ đỡ khổ nhưng lại không đủ can đảm mà chết”. Lần này về đưa ma cháu Ly, Đức cũng khóc. Minh Việt bảo: “Thôi, phận cháu có thế, chú khóc làm gì, chỉ đau lòng thêm”. Đức cố ghìm lại không khóc nữa nhưng mắt vẫn đỏ hoe:
- Em chưa một lần gặp mặt nó, nghe bà và chú Đạo khen con bé thông minh, giỏi giang lắm, em lại càng thương. Mà sao đời anh khổ thế hả anh Việt?
Sao đời anh lại khổ thế? Ừ, điều này thì anh cũng đã tự hỏi và không thể trả lời được. Sau ngày con Ly mất được một tháng, Minh Việt bảo Phượng:
- Thôi, em về bên ấy đi. Cái chết của con nhỏ không do lỗi của ai cả. Em đừng giày vò mình làm gì. Em còn cuộc sống của em ở bên kia. Còn anh, anh tự lo được.
Phượng ra đi mang theo cuốn băng ghi âm ghi lại những lời cuối cùng của con Ly và đôi thứ đồ kỷ niệm con bé để lại. Phượng đi rồi, Minh Việt thực sự thấy cô đơn. Cậu Chột thỉnh thoảng đến thăm Minh Việt, gieo rắc vào đầu anh một thứ tín ngưỡng dân gian đã từng bị bóp chết nay đang dần hồi sinh. Đó là đạo Tứ Phủ. Ngôi đền Tứ Phủ bây giờ đã được chỉnh trang, tu sửa lại, cậu Chột trở thành cô đồng cả của đất An Lạc, đóng “đại bản doanh” tại ngôi đền đó. Minh Việt đã quay trở lại Xóm Đáy ngay sau khi về sống ở An Lạc. Anh không thể tưởng tượng nổi khu xóm tồi tàn năm xưa lại có thể đổi thay nhanh đến thế. Phố Tứ Phủ vẫn là khu phố chính của thị trấn An Lạc nhưng đám dân giàu có nhất thị trấn Nét Mặt Buồn bây giờ lại là Xóm Đáy. Chẳng phải dân Xóm Đáy giỏi giang hay có nghề chính, nghề phụ gì, sự giàu có ấy là do chín mươi phần trăm số hộ ở đây có người nhà định cư ở nước ngoài gửi tiền về. Những năm đầu của thập kỷ tám mươi (1980), chính quyền An Lạc đau đầu vì số người “vượt biên” hàng năm luôn đứng hàng nhất nhì trong tỉnh. Mà thời ấy vượt biên có nghĩa là phản bội tổ quốc, là bỏ đất mẹ ra đi làm tay sai cho địch, là tiếp tay cho các thế lực thù địch chống phá cách mạng trong nước. Dân Xóm Đáy chủ yếu sống bằng nghề sông nước. Sông Sầu Diện lại đổ ra biển Đông. Ra tới biển Đông, nếu thuận buồm xuôi gió thì chỉ hai ba ngày sau là cập cảng Hồng Kông. Tới Hồng Kông là được thừa nhận “tị nạn chính trị”, chỉ việc chờ đợi một nước thứ ba nào đó tiếp nhận. Đang là dân Xóm Đáy nghèo nàn, đói khát, lạc hậu bỗng chốc trở thành kiều dân của Úc, Pháp, Canada, Mỹ, Anh thì ai chả thích, chả muốn. Một vài người đi được thì dần dần rủ nhau cả trăm người đi, cả ngàn người đi, cả vạn người đi. Dòng người ra đi này không sao ngăn chặn được, một thời trở thành “cơn sốt di dân”. Chính cô em gái của Minh Việt, nhân vật chính trong truyện ngắn Chị tôi của Đạo cũng bị cuốn vào dòng người ra đi bất hợp pháp này. Chỉ có điều, Vân ra đi vào thời điểm các nước thứ ba không còn khả năng tiếp nhận những thuyền nhân luôn nhận mình là tị nạn chính trị nhưng thực chất lại chẳng có chút hiểu biết gì về chính trị. Thế nên những người ra đi sau này đều phải trở về hết, thiên đường không dành cho những kẻ lười nhác, sau gần chục năm sống trong hàng rào thép gai của trại tị nạn, hàng vạn người đã bị trả về, trong đó có Vân. Nhưng dân Xóm Đáy thì hầu hết lại ra đi trước Mốc (Thời điểm Liên Hiệp Quốc không nhận người tị nạn). Vì thế họ sang được nước thứ ba khá nhiều và những đồng ngoại tệ họ gửi về đã nhanh chóng thay đổi bộ mặt xóm dân nghèo thủa nào. Minh Việt đã ngơ ngẩn hàng tiếng đồng hồ mà không sao nhận ra được đâu là nhà của bà Quản. Tất cả đã đổi thay, từ con đường dẫn vào xóm cho đến mỗi mái nhà đang chìa ra màu mè, kiểu cách, từ hàng lan can xanh đỏ cho đến những khối kiến trúc trưởng giả, sao chép, học đòi. Minh Việt hỏi thăm một thanh niên đang đi ngược lại phía anh nhà cậu Chột ở đâu? Cậu ta trả lời:
- Chột đồng bóng chứ gì? Cái nhà hai tầng ở cuối xóm ấy. Mà sao các ông lắm tiền quá không biết tiêu gì hay sao cứ đưa cho cái thằng Chột ấy nó tiêu hộ thế? Đúng là cái bọn đồng cô bóng cậu! Thừa hơi rước thánh về nhà mà thờ!
Minh Việt cảm ơn cậu ta mà không hiểu là cậu ấy vừa xổ ra một tràng những đồng cô bóng cậu gì gì thế không biết? Mãi đến khi vào nhà cậu Chột rồi Minh Việt mới hiểu rằng thì ra cậu Chột bây giờ hành nghề đồng bóng. Điện lớn điện bé, bát hương to bát hương nhỏ, tượng ngang tượng dọc, kệ trên kệ dưới, voi giấy ngựa mã, lọng vàng tán đỏ... cứ là hoa cả mắt. Đã thế cậu Chột lại cho ngay bài “Tứ Phủ nhập môn” làm Minh Việt ù đặc cả hai tai:
- Đạo này là đạo Mẫu, thờ chúa Liễu Hạnh. Ba bức tượng trên cùng kia là đệ nhất thượng thiên, đệ nhị thượng ngàn, đệ tam thoải phủ. Đạo này thờ trời, đất, nước và núi. Chúa Liễu Hạnh là một trong bốn tứ bất tử của Việt Nam. Thờ đạo Mẫu là có tinh thần dân tộc đấy Việt nhá. Đạo Phật ra đời ở Nê Pan, Ấn Độ, đạo Ki-tô ra đời ở I-ran, I-rắc, đạo Hồi ra đời ở Ả Rập, có đạo nào là của người mình đâu, chỉ có đạo Mẫu là của ông bà ta sáng tạo ra thôi, tại sao ta không thờ lại cứ đi thờ các ông thần bà thánh ở mãi đâu? Còn lên đồng chẳng qua chỉ là nghi lễ tôn giáo thôi. Tôn giáo nào chẳng có những nghi lễ mang tính dị đoan. Lên đồng của ta lại có hát văn phụ họa, hay ơi là hay, hát thánh ca ở nhà thờ hay lầm rầm đọc kinh lần tràng hạt làm sao hay bằng hát văn? Lên đồng có ba mươi sáu giá, mỗi giá là một vũ điệu thể hiện mọi hỉ nộ ái ố của cuộc đời, lại linh ứng, lại thiêng liêng, lại...
- Thôi, thôi, cậu để cháu nghe từ từ, cậu nói thế thì cháu hiểu làm sao được? - Minh Việt chọn đúng lúc cậu Chột đang suy nghĩ chọn từ để diễn đạt liền tìm cách ngắt bài “nhập môn” dài lê thê - Cậu cho cháu biết cuộc sống của cậu dạo này thế nào? Vợ con cậu ra sao? Kinh tế cậu có ổn không?
- Thì đấy! - Cậu Chột chỉ vào đứa nhỏ khoảng mười ba tuổi đang làm vàng mã ngoài sân - Đấy là đứa thứ hai. Còn thằng lớn đang ở bên Canada.
- Nó đi lâu chưa?
- Trước Mốc vài tháng. Có vợ rồi. Nhà này là nó gửi tiền về xây đấy. À này, mười chín tháng này Việt đến đây với mình nhá. Hôm ấy mình làm lễ vào hạ. Vui lắm! Con nhang đệ tử kéo về cứ là ngập cái nhà này, cả Hà Nội, Hải Phòng, Hải Dương cũng về, cả trí thức, văn nghệ sĩ, Tây, ta có hết. Hôm ấy Việt đến mà nghe hát văn. Mình mời ban văn ở mãi tận Phủ Giầy đấy. Và hôm ấy mình cũng hầu. Việt có xin Thánh điều gì không? Này, thiêng lắm đấy! Việt cứ thành tâm thì...
“Cháu sẽ thu xếp để đến xem cậu hầu đồng”. Minh Việt nói vậy rồi xin phép rút lui. Nếu ngồi thêm nữa chắc anh “tẩu hỏa nhập ma” mất. Thế nhưng mấy lần cậu Chột tổ chức hầu Mẫu, Minh Việt đều đến cả. Một phần vì tò mò, một phần vì muốn tìm hiểu chân xác con người cậu Chột là thế nào, và phần nữa, Minh Việt cũng muốn tin vào một điều gì đó, thần bí, để lý giải những nỗi buồn mà số phận anh phải đeo mang.
Đám tang con Ly, cậu Chột là người nhiệt tình lo phần tang chế, chọn ngày, giờ hạ huyệt, chọn hướng đất, thế nằm, rồi cúng bái rất cẩn thận. Mợ có vẻ yên tâm và tin tưởng lắm. Minh Việt cũng thấy nhẹ mình, thanh thản. Nhưng anh ngày một trở nên trầm lặng. Và không hiểu sao, những giấc mơ của anh gần đây, hay xuất hiện hình ảnh Cói. Tịnh bảo: “Mày hãy đến với Hoài đi, cô ấy sẽ giúp mày thăng bằng trở lại. Hoài là một người đàn bà đích thực đấy. Cô ấy rất thích rắn và yêu tất cả những người đàn ông trên thế gian này”.
Minh Việt cười buồn bã. Những số phận quanh anh cũng nào có hơn gì anh đâu? Họ đều là những tiểu vũ trụ tả tơi, rách nát sau những sóng gió của cuộc đời đấy thôi!